“ ‘Tôi không thể giải thích hành vi đó và cảm thấy vô cùng khó chịu, vì vậy tôi yên lặng xếp lá thư lại và bắt đầu bữa ăn tối. Gã bỏ đi, không nói gì, tôi không thể không chú ý quan sát gã đi quanh quẩn trong nhà hàng. To con, vai rộng, đậm người, mái tóc đen nhánh chải lật ngược ra sau để lộ gương mặt và đôi mắt to đen. Chắc hẳn đó là một khuôn mặt đẹp trai nếu trông nó không có vẻ - người ta gọi là gì nhỉ? - khá nham hiểm. Suốt cả giờ đồng hồ, có vẻ như hắn không thèm chú ý đến tôi, ngay cả khi tôi đã ăn xong. Tôi lấy một cuốn sách ra đọc trong vài phút, nhằm giết thời gian, đột nhiên gã lại tiến đến, đặt trước mặt tôi một tách trà nóng còn bốc hơi. Tôi ngạc nhiên vì mình đâu có gọi trà, và nghĩ chắc hẳn hoặc đó là món khuyến mãi của nhà hàng hoặc là sự nhầm lẫn. “Trà của ông đây,” gã nói lúc đặt tách trà xuống. “Tôi bảo đảm trà còn nóng lắm đấy.”
“ ‘Rồi hắn nhìn thẳng vào mắt tôi, tôi không thể giải thích vì sao gương mặt đó lại làm mình khiếp sợ đến vậy. Một khuôn mặt tái mét, nước da gần như vàng ệch, tựa như gã đã - nói thế nào nhỉ? - đã mục ruỗng hết bên trong. Dưới hàng lông mày rậm, cặp mắt hắn đen và sáng rực, chẳng khác gì mắt của một con thú. Những chiếc răng dài và trắng nhởn trong một cái miệng đỏ như máu - trông chúng có vẻ khỏe mạnh lạ thường trên một khuôn mặt bệnh hoạn. Gã mỉm cười lúc cúi xuống đặt tách trà lên bàn, tôi có thể ngửi thấy cái mùi cơ thể kỳ dị của gã và cảm thấy muốn nôn vì kinh tởm. Anh bạn ạ, nói ra anh đừng cười, nhưng nó cũng thoảng chút cái mùi mà trong những trường hợp khác tôi luôn thấy thích - mùi những cuốn sách cổ. Chắc hẳn anh cũng rành rẽ cái mùi đó - mùi giấy và bìa da của những cuốn sách cổ xưa - và một cái gì khác nữa nhỉ?’
“Cha biết cái mùi đó và cảm thấy chẳng có gì đáng buồn cười cả.
“ ‘Một lát sau, gã bỏ đi về hướng bếp nhà hàng, chẳng hề tỏ ra vội vã, tôi ngồi lại đó, có cảm giác như gã muốn cho tôi thấy một cái gì đó - gương mặt của gã chăng, có lẽ vậy. Gã muốn tôi nhìn kỹ gã, tuy vậy tôi vẫn không thể viện dẫn được bất cứ lý do cụ thể nào để giải thích cho nỗi sợ hãi của mình.’ Sắc diện Turgut giờ đã chuyển sang tái mét, ông ngồi dựa vào lưng chiếc ghế bành kiểu thời Trung cổ. ‘Để lấy lại bình tĩnh, tôi bỏ một ít đường vào cốc trà rồi khuấy đều. Tôi chỉ định trấn tĩnh lại bằng cốc trà nóng hổi đó, nhưng rồi đã xảy ra một chuyện gì đó rất - rất kỳ lạ.’
“Ông ta chợt ngưng bặt tưởng chừng như đang hối tiếc vì đã bắt đầu câu chuyện. Bản thân cha cũng biết rất rõ cảm giác đó, nên đã gật đầu để khuyến khích ông ấy. ‘Xin ông cứ tiếp tục.’
“ ‘Bây giờ khi kể lại, sự việc có vẻ như kỳ quái, nhưng tôi đang nói rất chân thật. Hơi nóng bốc lên từ cốc trà - chắc anh cũng biết hơi nóng bốc lên thường trông như thế nào khi ta khuấy một thứ gì đó còn nóng chứ? - nhưng khi khuấy cốc trà đó, hơi nóng bốc lên khỏi miệng cốc thành hình một con rồng nhỏ, lơ lửng ở đó vài giây rồi tan biến. Chính mắt tôi nhìn thấy nó rất rõ ràng. Anh có thể tưởng tượng cảm giác của tôi lúc đó như thế nào, trong một thoáng tôi cảm thấy không còn tin vào chính bản thân mình nữa, sau đó tôi đã nhanh chóng thu xếp giấy tờ, trả tiền rồi vội vã ra khỏi nhà hàng.’
“Cha cảm thấy miệng mình khô khốc. ‘Ông có gặp lại gã hầu bàn đó chứ?’
“ ‘Chưa bao giờ. Mấy tuần sau tôi không quay lại nhà hàng đó, và khi tính hiếu kỳ trỗi dậy, tôi đã trở lại đó vào một buổi tối, nhưng không có dấu vết nào của gã. Thậm chí, tôi đã hỏi thăm một trong những người hầu bàn khác, anh ta nói gã chỉ làm việc ở đó một thời gian ngắn và anh ta cũng chẳng biết gã họ gì. Tên gã, anh ta cho biết, là Akmar. Tôi chưa bao giờ tìm được dấu vết nào khác của gã.’
“ ‘Và liệu ông có nghĩ chính gương mặt hắn cho thấy hắn là…’ cha bỏ lửng câu hỏi.
“ ‘Nó làm tôi quá kinh hãi. Tôi chỉ có thể nói với anh như vậy về khoảnh khắc đó. Khi nhìn thấy gương mặt của tên thủ thư mà anh đã - như anh nói - anh đã mang tới đây, tôi cảm nhận là mình đã biết vẻ mặt đó. Đó không đơn giản chỉ là vẻ mặt của cái chết. Nét mặt đó còn có một cái gì đó…’ ông ta bứt rứt quay qua quay lại trên ghế rồi liếc nhìn về phía cái hốc tường che rèm, nơi treo bức chân dung. ‘Một chi tiết trong câu chuyện của anh khiến tôi suy nghĩ rất lung, tên thủ thư người Mỹ kia đã phát triển thành một con quỷ mạnh hơn nhiều so với lúc anh gặp hắn lần đầu.’
“ ‘Ý ông muốn nói gì?’
“ ‘Khi hắn tấn công cô Rossi trong thư viện ở Mỹ, anh đã có thể đánh ngã hắn. Nhưng ông bạn tôi ở trung tâm lưu trữ, người hắn tấn công sáng nay, nói rằng hắn rất khỏe, và ông ta cũng đâu có yếu ớt hơn anh. Tên ác ôn đó còn hút được của ông bạn tôi một lượng máu đáng kể, than ôi. Và hơn nữa, lúc chúng ta nhìn thấy hắn, tên ma cà rồng này đang ở giữa ánh sáng ban ngày, chứng tỏ hắn vẫn chưa hoàn toàn bị biến thành quỷ. Tôi phỏng đoán là tên tay sai này đã được hồi sinh lần thứ hai ở trường đại học của anh hoặc ở ngay Istanbul này, và nếu có những mối liên lạc ở đây, hắn sẽ nhanh chóng nhận được phép hồi sinh của quỷ lần thứ ba và mãi mãi trở thành quỷ nhập tràng.’
“ ‘Vâng,’ cha nói. ‘Khi chưa tìm ra gã thủ thư đó thì chúng ta chưa thể làm gì cả, vì vậy ông phải canh chừng bạn ông ở đây rất cẩn thận.’
“ ‘Tôi sẽ cẩn thận.’ Turgut trả lời, giọng nhấn mạnh đầy quyết tâm. Ông chợt im lặng một lát, rồi lại quay về hướng tủ sách. Không nói lời nào, ông rút ra từ trong bộ sưu tập của mình một cuốn album lớn có dòng chữ Latin ở bìa trước. ‘Tiếng Rumani,’ ông giải thích với cha. ‘Đây là bộ sưu tập hình ảnh các nhà thờ vùng Transylvania và Wallachia của một nhà sử học chuyên về nghệ thuật vừa qua đời cách đây không lâu. Ông ta đã chụp lại nhiều hình ảnh của các nhà thờ mà tiếc là sau này đã bị phá hủy trong chiến tranh. Vì vậy, cuốn sách này rất quý.’ Ông ta đặt cuốn sách vào tay cha. ‘Tại sao anh không thử lật đến trang hai mươi lăm xem sao?’
“Cha lật đến trang đó. Ở đó, cha thấy trải rộng trên cả hai trang sách là một bức bích họa điêu khắc màu. Nhà thờ có bức tranh đó được chụp lại trong một bức hình đen trắng nhỏ in ở góc bức hình hai trang ấy: một kiến trúc xinh xắn với hai tháp chuông như kiểu vặn xoắn. Nhưng chính tấm hình lớn mới thu hút sự chú ý của cha. Phía bên trái, hiện ra lờ mờ hình một con rồng dữ tợn đang bay, đuôi cuộn lại không phải một mà thành hai vòng, đôi mắt vàng khè trừng trừng vẻ điên cuồng, miệng đang khạc lửa. Có vẻ như nó đang bổ nhào xuống để tấn công nhân vật ở phía bên phải, một người đàn ông mặc áo giáp, đầu đội khăn xếp vải sọc đang co rúm người lại. Nét mặt rúm ró vì sợ hãi, một tay cầm thanh mã tấu cong, tay kia là một tấm khiên tròn. Thoạt tiên, cha nghĩ anh ta đang đứng giữa một cánh đồng thảo mộc kỳ lạ, nhưng khi nhìn kỹ cha nhận ra những vật chung quanh đầu gối anh ta là những con người, một rừng người tí hon, và người nào cũng đang quằn quại trên đầu một cây cọc. Một số mang khăn xếp, như nhân vật khổng lồ ở giữa họ, nhưng nhiều người khác ăn mặc kiểu như nông dân. Vẫn còn một số người khác mặc quần áo kim tuyến và đội mũ lông cao. Có cả những mái đầu hoe vàng và đen nhánh; quý tộc với bộ ria nâu dài; thậm chí có cả các tu sĩ và thầy tế đội mũ cao và mặc áo thụng đen dài. Đám đàn bà rũ rượi với những bím tóc dài, nam thiếu niên và bọn trẻ nhỏ đều trần truồng. Thậm chí còn có cả một hai con vật. Tất cả đều đang lộ vẻ đau đớn cùng cực.
“Turgut nhìn cha chăm chú. ‘Nhà thờ đó được Dracula chu cấp trong suốt thời kỳ trị vì thứ hai của hắn,’ Turgut nói, giọng bình thản.
“Cha đứng đó, nhìn đăm đăm tấm hình thêm một lát, rồi đóng ập cuốn sách lại vì không thể chịu thêm nữa. Turgut nhận lại và mang cuốn sách đi cất. Khi quay lại với cha, ông ta trông như đang sôi sục. ‘Còn bây giờ, anh bạn, anh dự định làm thế nào để tìm giáo sư Rossi đây?’
“Câu hỏi như một lưỡi dao xoáy vào người cha. ‘Tôi vẫn đang cố gắng chắp nối tất cả các thông tin này lại với nhau,’ cha chậm rãi thừa nhận, ‘cho đến tối hôm qua, thậm chí với sự trợ giúp nhiệt tình của ông - và ông Aksoy - tôi vẫn không cảm thấy mình biết gì nhiều. Có lẽ Vlad Dracula đã hóa thân thành một cái gì đó ở Istanbul sau khi chết, nhưng làm sao chúng ta có thể tìm ra xem liệu hắn chỉ từng được chôn ở đây hay vẫn đang nằm dưới mồ ở đây? Đối với tôi, điều đó vẫn còn là một bí mật. Cho đến lúc chúng ta tiến hành bước kế tiếp, tôi chỉ có thể nói với ông là chúng tôi sẽ đi Budapest một vài ngày.’
“ ‘Budapest?’ Cha hầu như có thể thấy rõ những suy đoán đang dồn dập hiện ra trên gương mặt to bè của ông.
“ ‘Đúng vậy. Ông còn nhớ câu chuyện về mẹ cô Helen và giáo sư Rossi - cha cô ấy không? Helen chắc rằng mẹ cô có thể có những thông tin cần thiết đối với chúng tôi, những thông tin mà Helen chưa bao giờ hỏi đến, vì vậy chúng tôi sẽ đích thân nói chuyện với bà ấy. Bác của Helen là một nhân vật quan trọng trong chính quyền và sẽ thu xếp chuyện đó, chúng tôi hy vọng như vậy.’
“ ‘À, là vậy.’ Ông ta gần như mỉm cười. ‘Ơn trời vì chúng ta có những người bạn quyền chức. Khi nào hai người đi?’
“ ‘Có lẽ là mai hoặc ngày kia. Tôi nghĩ chúng tôi sẽ ở đó năm, sáu ngày rồi quay trở lại đây.’
“ ‘Tốt lắm. Và các bạn nên mang thứ này theo.’ Turgut đột ngột đứng dậy, lấy trong tủ ra bộ đồ nghề săn ma cà rồng mà hôm qua đã cho chúng ta xem. Ông ta đặt nó ngay ngắn trước mặt cha.
“ ‘Nhưng nó là một trong những báu vật của ông mà,’ cha phản đối. ‘Vả lại, có thể chúng không qua được cửa hải quan đâu.’
“ ‘Ồ, anh đừng bao giờ trưng nó ra với hải quan chứ. Các bạn phải giấu nó thật cẩn thận. Hãy kiểm tra lại va li xem có thể giấu vào đâu đó hay không, hoặc tốt hơn là để cô Rossi mang nó. Họ sẽ không xét kỹ hành lý của phụ nữ đâu.’ Ông ta gật đầu động viên cha. ‘Tôi sẽ chẳng thể an tâm nếu anh không mang nó theo. Trong thời gian anh ở Budapest, tôi sẽ xem qua thêm nhiều sách cổ khác để cố giúp anh, nhưng có một điều chắc chắn là anh sắp phải săn tìm một con quỷ. Còn giờ thì anh hãy cất nó vào cặp xách đi - gọn nhẹ mà.’ Cha im lặng cầm lấy hộp gỗ đó, xếp nó cạnh cuốn sách có hình con rồng. ‘Và trong thời gian anh nói chuyện với mẹ của Helen, tôi sẽ sục sạo thêm quanh đây để truy tìm những dấu vết khả dĩ về ngôi mộ đó. Tôi chưa từ bỏ ý kiến đó đâu.’ Ông ta nhíu mắt. ‘Việc đó sẽ giúp giải thích rõ hơn về những dịch bệnh đã nguyền rủa thành phố này từ thời kỳ mà chúng ta đã đề cập. Nếu chúng ta không thể giải thích mà chấm dứt chúng thì…’
“Đúng lúc đó thì cửa phòng làm việc bật mở, bà Bora ló đầu vào mời chúng ta dùng bữa trưa. Đó là một bữa ăn ngon giống như bữa ăn mà chúng ta đã ăn ngày hôm trước ở đó, nhưng cũng là một bữa ăn khá u sầu. Helen im lặng và có vẻ mệt mỏi, bà Bora phục vụ với thái độ hòa nhã nhưng cũng yên lặng không nói gì, còn ông Erozan, dù đã ngồi dậy được để cùng ăn với chúng ta, nhưng không ăn được nhiều. Tuy nhiên, bà Bora đã cho ông ta uống khá nhiều rượu vang đỏ, và ăn một ít thịt, trông ông ta có vẻ đã hồi phục phần nào. Ngay cả Turgut cũng có vẻ như nhụt chí và buồn bã. Helen và cha lịch sự cáo từ ngay khi có thể.
“Turgut tiễn Helen và cha ra khỏi nhà và bắt tay từ giã nồng nhiệt như thường lệ, nhắc chúng ta điện thoại cho ông ngay khi có được kế hoạch cụ thể cho chuyến đi Budapest và tỏ ý mong được đón tiếp chúng ta trở về. Đoạn ông gật đầu rồi vỗ vỗ vào cặp xách của cha. Cha gật đầu đáp trả, ra dấu với Helen là sẽ giải thích với cô sau. Turgut đứng vẫy tay cho đến khi hàng dương và đoan đã che khuất ông, rồi chúng ta không còn nhìn thấy ông ta nữa. Ngay lúc đó, Helen mệt mỏi quàng lấy tay cha. Không khí thoảng mùi tử đinh hương, và trong khoảnh khắc, trên con đường xám xịt yên tĩnh đó, bước đi trong những vệt nắng mờ bụi, cha bỗng tưởng rằng mình đang đi nghỉ ở Paris.”
Chú thích:
1. Aquitaine: khu vực miền Tây Nam nước Pháp, bao gồm các hạt hành chính như Dordogne, Gironde, Landes, Lot-et- Garonne, và Pyrénées-Atlantiques. Thủ phủ của khu vực là thành phố Bordeaux; dân số: 2.795.800 (1990); diện tích: 41.308 kilomet vuông. Thời Aquitaine: ám chỉ thời kỳ khu vực này thuộc quyền cai trị của Anh khi nữ Công tước Eleanor xứ này (Eleanor of Aquitaine) kết hôn với vua Henry II nước Anh (1154-1189).
@by txiuqw4