sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Tai Nạn - Chương 2

Adelaide là người duy nhất Frances đã kể lại. Ted cho biết anh không nói với ai hết, và cô tin ở anh. Anh không biết rằng cô đã kể cho Adelaide. Cô ước gì mình không làm vậy. Cô không thích Adelaide đủ để làm một người thân tín của mình. Tất cả là thô tục, không xứng đáng; cô đã làm điều đó chỉ để có một ai cô có thể diễn hành trước mặt họ thôi. Khi Adelaide nói mèo đực, một cách thô lổ, trêu chọc, khiêu khích và ghen tuông một cách vô ý thức, Frances lấy làm hài lòng và vui mừng, mặc dù tất nhiên là xấu hổ. Cô sẽ điên cuồng nếu cô nghĩ Ted có những tâm sự tương tự về cô.

Đêm mà họ bị dính sơn trên người là một đêm thật nóng nực, cả thị trấn trở nên cáu kỉnh và ủ rủ và chờ đợi cơn mưa, đến lúc gần sáng, với một cơn bão. Frances nhìn lại thời điểm này luôn luôn nghĩ đến tia sét, một loại ham muốn đau đớn, điên khùng và vỡ từng mãnh. Cô thường nghĩ đến mỗi lần riêng biệt ra, nhớ lại từng giai đoạn trong tâm trí cô. Có một mã số đặc biệt, một cảm giác khác nhau, cho mỗi lần. Thời gian trong phòng khoa học tựa như một tia chớp và sơn ướt. Thời gian trong xe lúc trời mưa giữa buổi trua, với nhịp điệu buồn ngủ, họ cảm thấy thật dễ chịu và buồn ngủ lúc đó, tựa như họ không thể nào bị quấy rầy để làm cái gì kế tiếp được. Thời điểm đó, trong tâm trí, cô có một cảm giác uốn cong và mịn màng; đường cong xuất phát từ những hàng nước mưa trên kính chắn gió, trông như bức màn cửa được thắt lại.

Kể từ khi họ gặp nhau thường xuyên trong nhà thờ, cách thức không thay đổi gì nhiều, lần này cũng giống như lần kia.

“Tất cả mọi thứ,” Ted nói một cách tự tin. “Không sao đâu.”

“Người gác cổng.”

“Không sao đâu. Ông xong công việc ở đây.”

“Làm sao anh biết?”

“Anh yêu cầu ông xong hết để anh có thể làm việc ở đây.”

“Làm việc”, Frances nói, cười khúc khích, vừa cởi áo và chiếc nịt ngực ra. Anh đã mở các nút áo, nhưng vẫn còn sáu nút trên mỗi tay áo. Cô thích ý tưởng anh làm kế hoạch, cô thích nghĩ đến sự đòi hỏi kiên trì sôi động trong anh trưa nay khi anh đang bận rộn điều hành lớp học. Và một mặt khác cô không thích chút nào; cô cười khúc khích để che đậy một vẻ hơi hoảng hốt hay thất vọng mà cô không muốn nghe. Cô hôn lên đường thẳng của những sợi lông chạy như một thân cây trên bụng của anh, từ chồm rể dưới bụng lên đến bụi cây thật đối xứng trên ngực. Cơ thể của anh là một người bạn tuyệt vời của cô, dù sao đi nữa. Có một nốt ruồi sậm, bằng phẳng, hình giọt lệ, có lẽ quen thuộc với cô (và với Greta?) hơn là với anh. Nốt rốn kín đáo, vết sẹo dài vì loét dạ dày, vết sẹo cắt ruột thừa. Bụi rậm lông cứng và dương vật vui vẻ hồng hào, thẳng đứng và giống người lao động. Những sợi lông nhỏ cứng rắn trong miệng cô.

Sau đó, có vài tiếng gõ cửa.

“Suỵt. Không sao. Họ sẽ bỏ đi.”

“Ông Makkavala!”

“Đó là bà thư ký.”

“Suỵt. Bà ấy sẽ bỏ đi.”

Bà thư ký đang đứng trong hành lang và tự hỏi phải làm gì.

Bà khá chắc chắn là Ted ở trong đó, và Frances đang ở với ông ta. Giống như hầu hết mọi người khác trong thành phố, bà đã biết về họ cũng một thời gian qua. (Trong số ít người dường như không biết là vợ của Ted, Greta, và mẹ của Frances. Greta là một phụ nữ không ưa giao thiệp chút nào nên không ai tìm cách để nói với cô ấy. Người ta đã cố gắng nhiều cách khác nhau để nói với bà cụ Wright, nhưng bà có vẻ không để ý đến.)

“Ông Makkavala!”

Ngay trước mắt Frances ‘người lao động’ đó mất màu, rủ xuống, và trông dịu dàng và tuyệt vọng.

“Ông Makkavala! Tôi xin lỗi. Con trai của ông bị tử nạn!”

CON TRAI CỦA TED, Bobby, mười hai tuổi, không bị tử nạn, nhưng bà thư ký không biết điều đó. Bà được thông báo có một tai nạn, một tai nạn khủng khiếp ở phía trước bưu điện; cậu bé O'Hare và cậu bé Makkavala tử nạn. Bobby bị thương rất nặng và được đưa đến London, bằng xe cứu thương, ngay lập tức. Phải mất gần bốn giờ để đến đó, bởi vì cơn bão tuyết. Ted và Greta theo sau trong xe của họ.

Họ ngồi trong phòng chờ của Bệnh Viện Victoria. Ted nhận thấy bà nữ hoàng già, bà góa phụ khó tính, trong một cửa sổ kính màu. Như một vị thánh, và một vị không hài lòng. Anh giả sử, đó là đối thủ của tượng thạch cao Thánh Giuse họ có trong bệnh viện khác, mở rộng hai tay ra sẵn sàng để lật đổ vào người bạn. Một người xấu không thua gì người kia. Anh nghĩ sẽ nói với Frances. Khi một cái gì đó làm cho anh buồn cười hay nổi giận – có những cái với cả hai trạng thái này, và xảy ra cùng một lúc - anh nghĩ sẽ nói với Frances. Điều đó dường như đã làm anh hài lòng, trong khi một người đàn ông khác có thể được hài lòng bằng cách viết một lá thư cho biên tập viên.

Anh nghĩ gọi điện thoại cho cô, không phải để nói với cô về Nữ Hoàng Victoria, không phải bây giờ, nhưng để cho cô biết chuyện gì đã xảy ra, rằng anh đang ở London. Anh cũng đã không nói với cô, là anh sẽ không thể gặp cô vào tối thứ tư. Anh đã định sẽ nói với cô sau đó. Sau đó. Bây giờ nó không quan trọng. Tất cả mọi thứ đã thay đổi. Và anh không thể gọi cho cô từ đây; các điện thoại đều ở một nơi dễ thấy trong phòng chờ.

Greta nói cô nhận thấy có một phòng ăn, hoặc một dấu hiệu có mũi tên chỉ hướng một phòng ăn. Đó là sau chín giờ, và họ chưa ăn tối.

“Mình phải ăn,” Greta nói, không nhất thiết nói riêng với Ted, nhưng nói ra từ những nguyên tắc chung của cô. Có lẽ tại thời điểm này cô muốn nói tiếng Phần Lan. Cô không nói tiếng Phần Lan với Ted. Anh chỉ biết một vài chữ, đã lớn lên trong một gia đình mà tiếng Anh luôn được nhấn mạnh. Gia đình Greta thì ngược lại. Không có ai ở Hanratty để cô có thể nói tiếng Phần Lan; đó là một trong những vấn đề của cô. Hóa đơn điện thoại là hoang phí chính của họ, bởi vì Ted cảm thấy anh không có thể phản đối các cuộc nói chuyện dài với mẹ và chị em, nghe ảm đạm nhưng dường như làm cho cô ấy sống lại.

Họ chọn bánh mì thịt giăm bông và phô mai, và cà phê. Greta lấy một miếng bánh nho. Tay cô ngừng lại một phút trước khi chọn, có thể chỉ do dự về loại bánh cô muốn. Hoặc có thể cô ngại ăn bánh vào giờ này, và trước mặt chồng. Khi họ ngồi xuống Ted nảy ra ý định bây giờ là lúc để cáo lỗi, quay trở lại điện thoại, gọi Frances.

Anh nhìn khuôn mặt trắng nặng nề của Greta, đôi mắt nhợt nhạt của cô, khi cô bắt đầu ăn một cách sốt sắng, có lẽ với hi vọng. Cô ăn để dìm xuống nổi hoảng sợ, giống như anh nghĩ về Nữ Hoàng Victoria và Thánh Giuse. Anh chỉ sắp sửa cáo lỗi, và đứng lên, khi anh nhận được không biết ý tưởng từ đâu ra là nếu anh đi điện thoại cho Frances, con trai anh sẽ chết. Bằng cách không gọi điện thoại cho cô, bằng cách thậm chí không nghĩ về cô, bằng cách sẵn sàng ngăn chặn sự hiện hữu của cô trong cuộc sống của anh, anh có thể làm tăng những cơ may của Bobby, chặn đứng cái chết của con anh. Thật là cả một lũ chuyện vô lý, mê tín dị đoan, bao phủ anh khi anh không mong đợi. Và anh không thể dừng lại, không thể bỏ qua. Làm gì nếu tình trạng tồi tệ hơn sẽ đến? Làm gì nếu ý tưởng kế tiếp trình bày một trong những mặc cả điên rồ? Tin tưởng vào Thiên Chúa, Chúa Tin Lành, hứa sẽ quay trở lại nhà thờ, làm điều đó ngay tức khắc, bây giờ, và Bobby sẽ không chết. Từ bỏ Frances, hãy từ bỏ cô ấy luôn, và Bobby sẽ không chết.

Từ bỏ Frances.

Thật là ngu ngốc và không công bằng, nhưng mà thật dễ dàng, để đặt Frances một bên, nhiễm độc, và bên kia con anh bị thương, đứa con tội nghiệp bị nghiền nát mà cái nhìn, lần duy nhất cậu bé đã mở mắt ra, thể hiện một câu hỏi mù quáng, đòi lại cuộc sống mười hai tuổi của nó. Ngây thơ và hư hỏng; Bobby; Frances; thật đơn giản, thật vô lý. Một sự vô lý mạnh mẽ.

Bobby qua đời. Xương sườn bị nghiền nát, phổi bị thủng. Các bác sĩ ngạc nhiên tại sao cậu bé đã chịu đựng được đến giờ phút này. Nhưng trước nửa đêm, cậu qua đời.

Mãi về sau, Ted kể cho Frances, không những về nữ hoàng ngu ngốc nhưng về bữa ăn trong phòng ăn, về những suy nghĩ anh điện thoại cho cô, và tại sao anh đã không làm; những suy nghĩ về mặc cả; tất cả mọi chuyện. Anh không kể cho cô như một lời thú tội, nhưng như một vấn đề quan tâm, một minh chứng cho thấy tâm trí hợp lý nhất có thể suy sụp và lăn đi. Anh không tưởng tượng những gì anh đang kể với cô có thể làm khó chịu, khi anh đã, sau cùng, quyết định triệt để đứng về phía cô.

FRANCES CHỜ ĐỢI một vài phút, một mình trong phòng vật liệu, mặc quần áo, cài nút, mang giày vô, xỏ áo khoác lên. Cô không nghĩ gì hết. Cô nhìn những bộ xương. Bộ xương con người nhìn nhỏ hơn so với một người đàn ông, trong khi bộ xương con mèo nhìn to hơn, dài hơn một con mèo.

Cô đi ra khỏi trường mà không gặp ai hết. Cô vào xe. Tại sao cô đã lấy áo khoác và giày ống ra khỏi phòng treo áo, như vậy để có vẻ cô đã đi về nhà, khi bất cứ ai có thể nhìn thấy chiếc xe của cô vẫn còn đậu ở đây?

Frances lái một chiếc xe cũ, một Plymouth năm 1936. Sau khi cô đi rồi, nhiều người giữ lại trong tâm trí của họ hình ảnh của Frances ngồi sau tay lái chiếc xe bị hỏng, thử hết cái này tới cái kia (cô đã bị trễ đến một nơi nào đó) trong khi nó ho hen, khập khểnh và từ chối không nổ máy. Hoặc - như bây giờ - cửa sổ quay xuống, cô đưa đầu trần ra ngoài trong tuyết rơi, cố gắng đưa bánh xe đang quay ra khỏi nơi bị lệch, với một nét mặt nói rằng cô chưa bao giờ mong đợi chiếc xe này làm được cái gì ngoại trừ gây khó khăn và xáo trộn cho cô, nhưng cô sẽ tiếp tục không chịu thua nó đến hơi thở cuối cùng.

Sau cùng, cô cũng đã đi ra được, và lái xe xuống đồi hướng về phía đường chính. Cô không biết chuyện gì đã xảy ra cho Bobby, một tai nạn nào. Cô không có nghe họ nói cái gì, sau khi Ted bỏ cô đi. Trên con đường phố chính cửa hàng đã bật đèn sáng thật ấm. Ngựa cũng như xe dọc theo đường phố (tại thời điểm này những con đường thị trấn nhỏ không được dọn sạch), hơi thở thoải mái của mấy con ngựa tỏa ra như đám mây trong không khí lạnh. Hình như cô thấy nhiều người hơn bình thường, đang đứng xung quanh nói chuyện, hoặc không nói, chỉ không muốn tách rời nhau. Vài người bán tiệm ra bên ngoài và cũng đang đứng ở đó, trong những chiếc áo sơ mi của họ, trong tuyết. Góc bưu điện dường như bị chặn lại, và đó là hướng người ta đang nhìn.

Cô đậu phía sau cửa hàng kim khí, và chạy lên cầu thang dài bên ngoài, mà buổi sáng cô đã dùng xẻng xúc sạch tuyết và băng, và sẽ phải xúc thêm một lần nữa. Cô cảm thấy như thể cô đang chạy đến một nơi ẩn náu. Nhưng không được; Adelaide có mặt ở đó.

“Frances, có phải cô không?”

Frances cởi áo khoác ra trong hành lang phía sau, kiểm soát nút áo cánh. Cô đặt giày ống trên tấm thảm cao su.

“Tôi vừa nói với Bà. Bà không hề biết chuyện gì hết. Bà không hề nghe tiếng xe cứu thương.”

Có một giỏ quần áo giặt sạch trên bàn ăn nhà bếp, một cái áo gối cũ phủ lên để tuyết không rơi vào. Frances bước vào nhà bếp chuẩn bị để cắt ngang Adelaide nhưng biết cô không thể khi nhìn thấy mớ quần áo giặt đó. Vào những lúc Frances bận rộn nhất, gần Giáng Sinh, hay buổi biểu diễn mùa xuân, Adelaide sẽ đến và mang quần áo giặt của họ về nhà cô, và trở lại với tất cả mọi thứ ủi, tẩy trắng và hồ bột. Cô có bốn con, nhưng cô luôn giúp đỡ những người khác, nấu nướng và mua sắm cho họ, chăm sóc các trẻ sơ sinh, ra vào những căn nhà có vấn đề. Hoàn toàn rộng lượng. Hoàn toàn làm tiền.

“Xe của Fred Beecher đầy máu,” Adelaide nói, quay sang Frances. “Cốp xe của anh để mở, anh có chiếc xe đẩy em bé ở trong đó mà anh chở đến cho người chị dâu, và cốp xe của anh đầy máu. Nó đầy máu.”

“Có phải là Fred Beecher?” Frances hỏi, bởi vì cô không thể nào tránh né được nữa bây giờ, cô phải có người nói cho cô biết. “Có phải Fred Beecher đã đụng - cậu bé Makkavala không?” Cô biết tên của Bobby, tất nhiên, cô biết tên và khuôn mặt tất cả các con của Ted, nhưng cô đã để bộc lộ một sự mập mờ giả tạo khi nói về bất cứ đứa nào - về Ted nữa - để mà ngay cả bây giờ cô phải nói cậu bé Makkavala.

“Cô cũng không biết gì à?” Adelaide nói. “Cô đã ở đâu? Cô không có ở trường trung học sao? Không phải họ đã đến đó để kiếm ông ta à?”

“Tôi nghe họ có đến,” Frances nói. Cô thấy Adelaide đã pha trà. Cô rất muốn một tách, nhưng sợ chạm vào tách hoặc ấm trà, vì tay cô đang run lên. “Tôi nghe nói con trai ông đã tử nạn.”

“Không phải cậu bé đó mà là cậu bé O'Hare. Có hai cậu bé trong vụ này. Cậu bé O'Hare chết ngay lập tức. Thật khủng khiếp. Cậu bé Makkavala sẽ không sống nổi. Họ đưa nó đi London trong xe cứu thương. Nó sẽ không sống sót.”

“Ô, ô,” mẹ của Frances nói, ngồi ở bàn, cuốn sách của bà mở ra trước mặt. “Ô, ô. Hãy nghĩ đến người mẹ tội nghiệp.” Nhưng bà đã nghe tất cả một lần rồi.

“Không phải là Fred Beecher đã đụng họ, không phải như vậy chút nào,” Adelaide nói với Frances bằng một giọng như trách mắng. “Họ cột chiếc xe trượt tuyết của họ phía sau xe của anh ta. Anh ấy thậm chí không hề biết họ làm như vậy. Họ có lẽ đã cột nó vào khi anh đang chạy chậm lại ở phía trước cửa trường khi tất cả các trẻ em vừa được cho ra ngoài và lúc đó trên đồi một chiếc xe chạy tới phía sau, trượt bánh và tông vào họ. Nó đẩy xe trượt tuyết ngay dưới gầm xe của Fred.”

Bà cụ Wright phát ra một tiếng thở dài, rên rỉ.

“Họ phải được cảnh cáo. Tất cả những đứa trẻ đã được cảnh cáo và họ vẫn làm từ nhiều năm qua và nó chỉ xảy ra lại. Thật là khủng khiếp”, Adelaide cho biết, nhìn chăm chăm vào Frances như thể chờ thêm phản ứng của cô. “Tất cả những ai đã thấy đều nói rằng họ sẽ không bao giờ quên. Fred Beecher đi vào trong tuyết và nôn ra. Ngay trước bưu điện. Ồ, toàn là máu.”

“Khiếp quá,” mẹ của Frances cho biết. Quan tâm của bà đã phai mờ đi. Bà có lẽ đang suy nghĩ đến bữa ăn tối. Từ khoảng ba giờ chiều, quan tâm của bà về bữa ăn tối càng lúc càng gia tăng. Khi Frances về trễ, như tối nay, hoặc khi ai đó ghé qua vào cuối buổi chiều, nghĩ rằng, không nghi ngờ gì hết, bà sẽ vui mừng có một người đến thăm viếng, bà sẽ càng trở nên kích động hơn, nghĩ đến bữa ăn tối sẽ bị trì hoãn. Bà sẽ cố gắng tự kiểm soát, trở nên rất niềm nở, nhanh chóng trả lời, lục lọi trong trí nhớ những câu nói xã giao, xử dụng hết câu này đến câu khác, trong niềm hi vọng người khách sẽ sớm được hài lòng và ra về.

“Cô có mua sườn heo không?” Cô hỏi Frances.

Tất nhiên, Frances đã quên. Cô đã hứa làm sườn heo tẩm bột và cô không có đi mua ở hàng bán thịt, cô đã quên. “Tôi sẽ đi ngay.”

“Ồ, thôi đừng bận tâm.”

“Cô suy nghĩ quá nhiều vì vụ tai nạn,” Adelaide cho biết.

“Ở nhà đã có một nồi hầm sườn heo tối qua, đó là món cô cho vào lò với bắp xay nhuyển, và chưa bao giờ nó ngon như vậy.”

“Đúng. Frances làm món đó với bánh mì vụn.”

“Ồ, tôi cũng làm như vậy. Cách đó cũng ngon nữa. Đôi khi mình cảm thấy muốn có một sự thay đổi. Tôi thấy cha cậu bé O'Hare bước ra khỏi nhà mai táng. Thật là thê thảm nhìn anh ta. Anh trông giống như sáu mươi tuổi.”

“Nhìn cơ thể,” mẹ Frances cho biết. “Không khác nào như nhìn trứng tráng.”

“Vậy à?” Frances nói, không thể chịu nổi ý nghĩ đi trở ra đường.

“Ồ, đúng. Và tiết kiệm với phiếu giảm giá.”

“Họ có phải là ma quỷ không, phiếu giảm giá? Anh ta chưa cho thăm viếng được. Không thể nào với tất cả công việc cần phải thực hiện trên cơ thể. Anh còn chọn quan tài.”

“Ồ. Hình như vậy.”

“Không, cậu bé chưa được sửa sang lại đâu. Chắc vẫn còn nằm ở trên bàn đá.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx