sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Tai Nạn - Chương 3

Cách Adelaide diễn tả, trên bàn đá, có vẻ quá rõ ràng, quá đầy hiểu biết, tựa như cô đập một con cá ướt to lớn xuống trước mặt họ. Cô có một người chú làm trong nhà quàn, ở một thành phố khác, và cô rất tự hào về sự liên hệ này, về kiến thức nội bộ của cô. Chắc chắn là cô bắt đầu kể công việc của người chú về những người bị tai nạn, một cậu bé đã bị lột da đầu và làm thế nào chú của cô đã phục hồi vẻ bên ngoài lại, đi đến tiệm hớt tóc và lấy tóc vụn từ sọt rác, pha trộn để có được đúng màu chính xác, làm việc cả đêm. Gia đình cậu bé không thể tin cậu trông rất tự nhiên. Cả một nghệ thuật, Adelaide nói, khi họ biết công việc kinh doanh của họ như ông chú.

Frances nghĩ cô phải kể cho Ted về chuyện này. Cô thường kể với Ted những gì Adelaide đã nói. Sau khi cô nhớ lại.

“Tất nhiên, họ có thể để quan tài đóng lại nếu họ muốn”, Adelaide cho biết, sau khi giải thích một lần nữa vẻ thua kém của người nhà quàn này so với chú của cô. “Có phải đó là con trai duy nhất của Makkavala không?” Cô hỏi Frances.

“Tôi nghĩ đúng vậy.”

“Tôi cảm thấy buồn cho họ. Và họ không có người thân nào hết ở đây. Cô ta thậm chí còn không nói được tiếng Anh giỏi lắm, phải không? Tất nhiên vì gia đình O'Hare là Công Giáo, họ có bốn hoặc năm người con nữa. Cô biết, vị linh mục đến đây và đã chăm sóc cho anh, ngay cả khi anh chết.”

“Ô, ô,” mẹ Frances nói vẻ không bằng lòng. Thực sự không có nhiều sự thù nghịch với người Công Giáo trong sự phủ nhận này, đó là một cách lịch sự người Tin Lành cần phải đối xử với nhau.

“Mẹ sẽ không cần phải đi đến nhà quàn, phải không?” Một cái nhìn lo lắng, nhất quyết thể hiện trên khuôn mặt mẹ của Frances bất cứ lúc nào có một cơ hội bà có thể phải đến gần người bệnh hoặc chết. “Tên của họ là gì vậy?”

“O'Hare.”

“Ồ, đúng. Người Công Giáo.”

“Và Makkavala.”

“Mẹ không biết họ. Phải không? Họ là người nước ngoài?”

“Phần Lan. Từ Bắc Ontario.”

“Mẹ nghĩ như vậy. Nghe có vẻ nước ngoài. Mẹ không cần phải đi.”

FRANCES CẦN PHẢI đi ra ngoài một lần nữa. Cô phải đến thư viện, vào buổi tối, để lấy sách cho mẹ cô. Mỗi tuần cô đều mang về cho mẹ ba cuốn sách mới từ thư viện. Mẹ cô thích nhìn một cuốn sách hay dày. Rất nhiều để đọc trong cuốn đó, bà nói như vậy, giống như bà sẽ nói sử dụng rất nhiều một chiếc áo khoác hoặc một cái chăn. Thật vậy, cuốn sách cũng giống như một chăn lông vịt dày ấm áp mà bà có thể kéo phủ lên người, chui rúc vào. Khi bà sắp sửa đến đoạn cuối, và phần còn lại mỏng hơn và mỏng hơn, bà sẽ đếm các trang và nói, “Con có lấy cho mẹ một cuốn sách khác chưa? Ồ, có. Đây rồi. Mẹ nhớ. Đúng, mẹ vẫn còn cuốn kia sau khi xong cuốn này.”

Nhưng luôn có lúc đến khi bà đã đọc xong cuốn sách cuối cùng và phải chờ đợi trong khi Frances đi ra thư viện và mượn thêm ba cuốn. (May mắn thay, Frances có thể mượn lại cùng cuốn sách sau một thời gian ngắn, ba hoặc bốn tháng gì đó, mẹ của cô sẽ chìm đắm một lần nữa vào đó, thậm chí còn đưa ra vài chi tiết về bối cảnh và các nhân vật, như thể bà chưa bao giờ đọc qua trước đây.)

Frances sẽ nói với mẹ nghe đài phát thanh trong khi chờ đợi, nhưng mặc dù mẹ cô không bao giờ từ chối làm bất cứ điều gì được yêu cầu, đài phát thanh không có vẻ làm bà an vui. Trong khi bà không có gì để bận rộn, có thể nói như vậy, bà sẽ đi vào phòng khách và lôi ra một cuốn sách cũ khỏi kệ sách - Jacob Trung Thành hoặc Lorna Doone - và ngồi cúi xuống trên cái ghế đẩu thấp, cầm cuốn sách lên đọc. Những lần khác, bà có thể chỉ lục đục xung quanh từ phòng này sang phòng kia. Không bao giờ giở chân lên ngoại trừ bước qua một ngưỡng cửa, vịn vào bàn ghế, và mò mẫm vào các bức tường, mù vì bà đã không bật đèn lên, yếu vì bây giờ bà không bao giờ đi bộ, chế ngự bởi một sự bồn chồn sợ hãi, một loại chuyển động chậm mê sảng, mà bà có thể cảm thấy khi bà không có sách hoặc thực phẩm hoặc thuốc ngủ để xua đuổi nó đi.

Tối nay Frances tức giận mẹ cô vì bà hỏi: “Còn mấy cuốn sách thư viện của mẹ đâu?” Cô tức giận vì bà thiếu tế nhị, chỉ nghĩ đến mình, nhu nhược, sống còn, đôi chân nhỏ khốn khổ và cánh tay của bà mà da rủ xuống như một tay áo nhăn nheo. Nhưng mẹ cô không thiếu tế nhị hơn chính cô. Cô đi qua góc bưu điện mà bây giờ không có một dấu hiệu nào của tai nạn, chỉ tuyết mới, tuyết thổi trên đường từ phía nam, từ London (anh sẽ trở lại, dù chuyện gì xảy ra đi nữa anh cũng sẽ phải trở lại). Cô cảm thấy giận dữ với đứa trẻ đó, sự ngu ngốc, liều lĩnh ngu ngốc, khoe khoang, nó đã xâm phạm vào cuộc sống của những người khác, vào cuộc sống của cô. Ngay bây giờ cô không thể chịu đựng được ý nghĩ của bất cứ ai. Ví dụ ý nghĩ của Adelaide. Adelaide, trước khi cô ta về, đã theo Frances đi vào phòng ngủ nơi Frances cởi áo cánh xa ten ra, vì cô không thể mặc áo đó để nấu bữa ăn tối. Cô mở phía trước, cô cởi các nút tay áo, cô đang đứng trước Adelaide giống như cô đã đứng trước mặt Ted cách đây không lâu.

“Frances”, Adelaide thì thầm căng thẳng, “cô cảm thấy ổn chứ?”

“Có.”

“Cô không nghĩ rằng đó là giá phải trả cho cô và ông ta?”

“Cái gì?”

“Thiên Chúa trả lại anh,” Adelaide cho biết. Vẻ hứng thú, hài lòng, tự thỏa mãn tỏa sáng ở cô. Trước khi kết hôn với người em trai bướng bỉnh và ngây thơ của Frances, cô đã vui hưởng một hai năm nổi tiếng về tình dục, hoặc tai tiếng, tên của cô thường xuyên được mang ra nói giễu. Cô có dáng dấp chắc nịch của một bà mẹ, đôi mắt hơi lé. Frances không thể hiểu những gì đã đẩy cô vào một tình bạn như vậy, hoặc quan hệ, hoặc bất cứ điều gì có thể gọi được. Họ ngồi trong nhà bếp của Adelaide vào những buổi tối Clark ra ngoài huấn luyện đội khúc côn cầu cho trẻ em, cho rượu whisky của Clark vào cà phê thêm đậm đà (họ cho nước vào phần còn lại), tã phơi bên cạnh bếp lò, vài đường rầy xe lửa đồ chơi bằng kim loại rẻ tiền và con búp bê xấu xí, không có mắt, không có tay trên bàn trước mặt họ, họ đã nói chuyện về tình dục và đàn ông. Một sự giải tỏa đáng xấu hổ, một niềm đam mê tội lỗi, một sai lầm tồi tệ. Thiên Chúa đã không tham gia vào cuộc trò chuyện của Adelaide lúc đó. Cô chưa bao giờ nghe từ ngữ dương vật, thử nói nhưng không thể quen được. Một loại cuốc, cô nói. Rút ra cái cuốc, cô nói, với sự thích thú đáng lo ngại như cô nói trên bàn đá vậy.

“Cô không có vẻ ổn, tôi nói cho cô biết,” cô ta nói với Frances. “Cô trông giống như ngớ ngẩn. Cô có vẻ bệnh.”

“Cô đi về nhà đi”, Frances nói.

Cô phải làm thế nào để trả lại cho chuyện đó?

Hai người đàn ông đang treo đèn Giáng Sinh trên những cây vân sam màu xanh ở phía trước cửa bưu điện. Tại sao họ làm việc vào giờ này? Họ có lẽ đã bắt đầu trước khi tai nạn xảy ra, sau đó đã phải gián đoạn. Họ có thể đã phải dành thời gian đi uống rượu, ít nhất một trong hai người. Cal Callaghan đang gỡ rối một sợi dây nhiều đèn màu. Người đàn ông kia, Boss Creer, người có cái tên như vậy vì anh sẽ không bao giờ làm ông chủ của bất cứ cái gì, đứng đợi Cal giải quyết những khó khăn của ông ta. Boss Creer không biết đọc hay viết, nhưng ông biết làm thế nào để được thoải mái. Phía sau chiếc xe tải của họ đầy vòng hoa ô rô nhân tạo và dây màu đỏ và xanh lá cây để còn treo lên nữa. Frances, vì cô tham gia vào những buổi hòa nhạc, trình diễn và gần như tất cả mọi lễ hội công cộng của thành phố, nên biết nơi họ cất giữ những đồ trang trí năm này qua năm kia trên căn gác của Tòa Thị Sảnh, rồi bỏ quên, rồi được nhớ lại và lôi ra khi ai đó trong hội đồng thành phố nói: “A, bây giờ chúng ta nên nghĩ định sẽ làm gì cho Giáng Sinh.” Để hai kẻ ngu này tự động sắp xếp những sợi dây màu, dây đèn và treo vòng hoa, Frances thấy khinh họ thật. Không có khả năng, vòng hoa và dây đèn cũ kĩ, vẻ cực nhọc bình thường, họ làm tất cả với thứ cảm giác vô lý bắt buộc cho mùa lễ. Một lần khác, cô có thể thấy cảm động, hơi khâm phục. Cô có thể sẽ cố gắng giải thích cho Ted, vì anh không bao giờ có thể hiểu được cảm giác trung thành của cô với Hanratty. Anh nói anh có thể sống trong một thành phố, hay trong rừng, trong một loại định cư vùng biên giới mà anh đã từng ở, nhưng không ở một nơi như thế này, một nơi quá chật hẹp, chưa phát triển không có sự bù trừ của hoang dã, chật hẹp không có tính cách đa dạng của đô thị hoặc cuộc sống.

Nhưng anh đây rồi.

Cô nhớ lai cảm giác ghê tởm này đối với tất cả mọi thứ vào mùa hè cuối cùng. Ted và Greta và các con đã đi xa, trong ba tuần, lên miền Bắc Ontario để thăm người thân. Hai tuần đầu, Frances đã đi đến một ngôi nhà nghỉ hè trên hồ Huron, cùng ngôi nhà cô luôn thuê. Cô đem mẹ theo, bà ngồi đọc sách dưới cây Nhựa Thơm của Gilead. Frances cảm thấy ổn tại nơi đó. Trong ngôi nhà có một phiên bản cũ Bách Khoa Toàn Thư và cô lấy nó ra đọc đi đọc lại bài viết đã quá thời về Phần Lan. Cô nằm ở mái hiên của căn nhà vào ban đêm, lắng nghe bờ hồ và nghĩ về miền Bắc Ontario, mà cô chưa bao giờ đến. Hoang dã. Nhưng khi cô phải quay trở lại thị trấn và anh không có ở đó, cô cảm thấy rất khó chịu. Mỗi buổi sáng cô đi đến bưu điện và không có thư từ gì của anh hết. Cô sẽ đứng nhìn Tòa Thị Sảnh từ cửa sổ bưu điện, nơi đó có một hàn thử biểu lớn màu trắng ghi nhận tiến bộ của chương trình Trái Phiếu Chiến Thắng. Cô không còn có thể đặt anh ta ở miền Bắc Ontario nữa, trong nhà người thân của anh, say sưa uống rượu và ăn các bữa ăn to lớn. Anh đã đi xa. Anh có thể ở bất cứ nơi nào, bên ngoài thị trấn này; anh đã ngừng hiện hữu cho cô, ngoại trừ trong đau khổ vô lý của trí nhớ. Lúc đó, cô rất ghét tất cả mọi người; cô khó có thể đưa ra một câu trả lời dễ nghe. Cô ghét con người, cái nóng, Tòa Thị Sảnh, hàn thử biểu Trái Phiếu Chiến Thắng, vỉa hè, tòa nhà, tiếng nói. Cô sợ phải suy nghĩ về điều này sau đó, cô không muốn nghĩ làm sao các hình dạng vô hại, phong nhã của những ngôi nhà, hoặc giọng điệu dễ chịu chào hỏi có thể phụ thuộc vào sự hiện hữu của một người, mà cô không quen biết một năm trước đây, làm thế nào sự hiện diện của anh trong cùng thành phố, ngay cả khi cô không thể nhìn thấy hoặc nghe anh nói, mang đến sự cân bằng cần thiết cho chính cô.

Đêm đầu tiên anh trở lại là đêm họ đã vào trường và cọ xát dính vào sơn mới. Luc đó cô nghĩ rằng làm mà không có anh cũng có giá trị của nó, đó chỉ là giá phải trả. Cô quên cảm giác nó như thế nào, cũng giống như họ nói quên cơn đau hạ sanh em bé, từ lần này đến lần kế tiếp.

Bây giờ cô có thể nhớ. Đó chỉ là một câu chuyện kể lại, đó là một cái gì cô đã tưởng tượng, để làm khổ chính cô. Bây giờ nó sẽ là sự thật. Anh sẽ trở về Hanratty nhưng anh sẽ không trở lại với cô. Bởi vì anh đang ở với cô khi nó xảy ra anh sẽ ghét cô; ít nhất, anh sẽ ghét nghĩ về cô, bởi vì nó luôn khiến anh nghĩ về vụ tai nạn. Và giả sử bằng cách nào đó đứa trẻ sống sót, bị tê liệt. Đó cũng sẽ không tốt hơn, cho Frances. Họ sẽ muốn rời khỏi nơi này. Anh đã nói với cô là Greta không thích ở đây, đó là một trong ít điều anh đã nói với cô về Greta. Greta cô đơn, cô không cảm thấy ở nhà tai Hanratty. Bây giờ cô sẽ ít thích nó hơn bao nhiêu nữa? Những gì Frances đã tưởng tượng về mùa hè cuối cùng sẽ là hiện thực cho mùa hè này. Anh sẽ ở một nơi nào đó bên ngoài, đoàn tụ với vợ mà anh có thể đang ôm trong vòng tay ở phút này, an ủi cô, nói chuyện với cô bằng ngôn ngữ riêng của họ. Anh nói anh không nói chuyện với cô bằng tiếng Phần Lan. Frances đã hỏi anh. Cô có thể thấy anh không thích cô hỏi. Anh nói gần như anh không nói tiếng Phần Lan. Cô không tin anh.

NGUỒN GỐC CỦA bộ lac người Phần Lan và Ugric được bao phủ trong bí ẩn, Frances đã đọc. Sự phát biểu này làm cô hài lòng; cô không nghĩ một quyển bách khoa toàn thư có thể thừa nhận một điều như vậy. Người Phần Lan được gọi là Tavastians và Karelians, và họ vẫn là người dân ngoại đạo cho đến thế kỉ thứ mười ba. Họ tin vào một vị thần của không khí, một vị thần của rừng, một vị thần của nước. Frances học tên các vị thần này và làm cho Ted ngạc nhiên. Ukko. Tapio. Ahti. Anh không nghe nói đến những cái tên này. Tổ tiên anh biết không phải là những người ngoại đạo hòa bình này, những người Magyar định cư trong rừng, ở một số nơi, theo bách khoa toàn thư, họ vẫn cúng tế lễ cho ma quỉ; họ là những người chủ nghĩa xã hội, đảng cấp tiến của thế kỉ mười chín. Gia đình anh đã bị trục xuất khỏi Phần Lan. Không phải là khu rừng phía Bắc, cây thông và bạch dương, nhưng là hội trường và văn phòng báo chí của Helsinki, phòng giảng và phòng đọc sách, mà Ted đã từng được dạy để nuối tiếc. Không có nghi lễ ngoại đạo nào vấn vương trong tâm trí của anh (vô lý, anh nói, khi Frances kể với anh về tế lễ cho ma quỉ), mà về một thời điểm in ấn bí mật, phát truyền đơn trong đêm tối, biểu tình bị lên án và hình phạt danh dự. Họ biểu tình chống Thụy Điển và tuyên truyền chống người Nga. Nhưng nếu gia đình anh là Cộng Sản họ sẽ không ủng hộ Nga sao, Frances nói ngớ ngẩn, nhầm lẫn về tất cả thời điểm; anh nói về một thời kỳ trước cuộc cách mạng. Không phải là nó khác gì nhau bây giờ. Nga đã xâm chiếm Phần Lan, Phần Lan đã chính thức liên kết với Đức. Lòng trung thành của Ted không có nơi nào để hướng đến. Họ chắc chắn sẽ không hướng về Canada, nơi mà anh cho rằng ngày nay anh bị coi là kẻ thù ngoại lai và chịu sự giám sát của Cảnh Sát Hoàng Gia Canada. Frances khó có thể tin được một điều như vậy. Và anh có vẻ tự hào về nó.

Khi họ ra ngoài đi bộ vào mùa thu, trong khu rừng khô, anh đã kể với cô rất nhiều điều cô đã phải xấu hổ vì không biết; về cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha, những cuộc thanh trừng ở Nga. Cô lắng nghe, nhưng sự chú ý cứ thất thoát, trốn trong những câu hỏi và trả lời hợp lý, để bám vào một cây cột hàng rào hoặc một lỗ của con heo đất. Cô hiểu một cách đại khái. Anh tin rằng một cuộc phá sản tổng quát có thật, và cuộc chiến, thường được tin là một khủng hoảng rất lớn nhưng tạm thời, trên thực tế chỉ là một khía cạnh tự nhiên của tình trạng này. Bất cứ lúc nào cô nêu ra một khả năng hi vọng, anh đều giải thích sự sai lầm của cô, tại sao bây giờ tất cả các hệ thống bị tiêu diệt và một trận đại hồng thủy nầy sẽ kế tiếp một trận khác cho đến khi...

“Cái gì?”

“Cho đến khi tất cả bị đập bể.”

Lúc anh nói, anh có vẻ thật hài lòng. Làm sao cô có thể lập luận chống lại một cái nhìn dường như mang lại bình an và thỏa mãn cho anh?

“Tóc anh đen thật,” cô nói, xoay nhẹ tay anh.” “Tôi không biết một người Âu Châu miền Bắc nào tóc đen như vậy.”

Anh nói với cô có hai loại hình dáng người ở Phần Lan, dáng Magyar và Scandinavia, tóc đen và tóc vàng, và họ dường như không làm sao hòa nhập nhưng sống riêng biệt, thể hiện từ thế hệ này qua thế hệ kia không thay đổi, trong cùng một huyện, trong cùng một gia đình.

“Gia đình Greta là một ví dụ điển hình”, anh nói. “Greta hoàn toàn là người Scandinavia. Cô ấy có xương to, xương dài, cái đầu dài...”

“Cái gì?”

“Cái đầu dài. Cô ấy da trắng và mắt xanh và tóc vàng.”

Kế đó, Kartrud em gái của cô có làn da màu ô liu và mắt hơi xiên, tóc thật đen. Điều tương tự trong gia đình anh. Bobby giống Greta. Margaret giống anh. Ruth-Ann giống Greta.”

Frances cảm thấy vừa lắng dịu vừa tò mò nghe anh nói về Greta, về gia đình của chúng ta. Cô không bao giờ hỏi, không bao giờ nói về họ. Ban đầu, anh cũng không nói. Hai điều anh kể mà cô luôn ghi nhớ. Một là anh và Greta đã kết hôn trong khi anh vẫn còn học ở đại học, với học bổng; cô ở lại miền Bắc cùng gia đình của cô cho đến khi anh tốt nghiệp và có việc làm. Điều đó làm Frances tự hỏi nếu Greta đã có thai; có phải đó là lý do anh đã kết hôn với cô ấy? Điều kia mà anh nhắc đến - một cách nhẹ nhàng, và trong khi anh và Frances đang nói về những nơi để gặp gỡ - là anh chưa bao giờ phản bội trước đây. Frances đã luôn giả thuyết như vậy, do sự ngây thơ hoặc tự phụ của cô; cô chưa bao giờ tin một lúc cô có thể dự phần vào diễn tiến. Nhưng danh từ không chung thủy (anh thậm chí không nói không chung thủy với Greta) cho thấy một sự liên kết. Nó đặt Greta dưới ánh đèn sáng cho họ, cho thấy cô đang ngồi ở đâu đó chờ đợi; bình thản và kiên nhẫn, phong nhã, sai lầm. Nó làm cho cô ấy vinh dự; anh đã vinh dự cô ấy.

Lúc đầu, chỉ có bấy nhiêu thôi. Nhưng bây giờ trong các cuộc trò chuyện của họ nhiều cửa đang mở ra, để nhanh chóng đóng lại. Frances thoáng nhìn vào, và cô cảm thấy xót xa và mong muốn. Greta cần phải có xe để đưa Ruth-Ann đi bác sĩ; Ruth-Ann bị đau tai, bé đã khóc suốt đêm. Ted và Greta cùng dán giấy ở hành lang trước của nhà. Cả gia đình bị ốm sau khi ăn xúc xích có vấn đề. Frances bắt được nhiều hơn những cái nhìn thoáng qua. Cô cũng bắt được cái cảm lạnh của gia đình Makkavala. Cô bắt đầu cảm thấy cô sống với họ trong một sự thân mật kỳ lạ và như mộng mơ.

Cô đã đưa ra một câu hỏi.

“Tờ giấy dán tường như thế nào? Mà anh và vợ anh dán trong hành lang?”

Anh cần phải suy nghĩ.

“Nó có sọc. Sọc trắng và bạc.”

Sự lựa chọn giấy dán tường làm cho Greta có vẻ khó khăn hơn, lạnh lùng hơn, tham vọng hơn lúc cô đi ngoài đường hoặc mua sắm ở Cửa Hàng Thực Phẩm, trong những chiếc áo mềm mại, không lịch sự, bông hoa, những cái quần ca rô rộng, một băng cột tóc trên đầu. Một bà nội trợ to lớn, tóc vàng, đầy tàn nhang, một lần cô đã đụng vào tay của Frances với giỏ hàng tạp hóa và nói: “Xin lỗi.” Những chữ duy nhất Frances đã nghe từ cô ấy. Một giọng nói thật cứng, lạnh lùng và nhút nhát. Tiếng mà Ted nghe mỗi ngày trong cuộc sống của anh, cơ thể anh ngủ mỗi đêm bên cạnh. Đầu gối của Frances yếu đi và run rẩy, ở ngay trong Cửa Hàng Thực Phẩm trước kệ chất đầy những hợp thức ăn Kraft và thịt heo đậu. Chỉ đứng thật gần người phụ nữ to lớn, bí ẩn, rất ngây thơ và mạnh mẽ nầy, cũng đủ mờ tâm trí và làm cho cô run lên trong đôi giày của cô.

SÁNG THỨ BẢY Frances tìm thấy một tin nhắn trong hộp thư, yêu cầu cô để cho Ted vào nhà thờ đêm đó. Cô thật là căng thẳng suốt cả ngày như cô đã từng chờ để gặp anh lần đầu tiên, tai Quán Rượu Beattie. Cô đợi, trong bóng tối, bên cửa lớp học chủ nhật. Đó là một đêm xấu, thứ bảy, vị mục sư hoặc người gác cổng có thể sẽ có mặt ở đó, vì cả hai đã có mặt, trước đó, khi Frances chơi đàn một cách lơ đãng. Họ đã đi về, cô hi vọng họ sẽ không trở lại.

Họ thường làm tình ở đây trong bóng tối, nhưng đêm nay Frances nghĩ họ sẽ cần một cái đèn để nói chuyện. Cô dẫn đường ngay đến một lớp học chủ nhật đằng sau khán đài của ban hợp ca. Đó là một căn phòng dài, hẹp, ngột ngạt không có cửa sổ bên ngoài. Những chiếc ghế của lớp học chủ nhật đã được xếp chồng lên nhau trong một góc. Có một cái gì lạ trên bàn một giáo viên - một gạt tàn thuốc với hai điếu thuốc lá dụi tắc trong đó. Frances giơ nó lên.

“Có người nào khác cũng đến đây nữa.”

Cô phải nói cái gì ngoài vụ tai nạn, bởi vì cô chắc chắn không bao giờ cô có thể nói một điều gì đúng về chuyện đó.

“Cả một nơi hẹn hò của tình nhân,” Ted nói, làm cho cô nhẹ nhõm. “Anh sẽ không ngạc nhiên.” Anh nêu ra có thể một số cặp. Bà thư ký trường và ông hiệu trưởng. Em dâu của Frances và vị mục sư của nhà thờ này. Nhưng giọng anh buồn bả.

“Chúng ta sẽ phải lập một lịch trình.”

Họ không bận tâm lấy ghế xuống, nhưng ngồi trên sàn nhà dựa lưng vào tường, dưới một tấm hình của Chúa Giêsu đi bộ trên Biển Galilee.

“Anh chưa bao giờ có một tuần phấn đấu như vậy trong cuộc sống,” Ted nói. “Anh không biết bắt đầu từ đâu. Chúng anh trở về từ London thứ ba, và thứ tư, gia đình của Greta kéo xuống. Họ lái xe cả đêm, hai đêm. Anh không biết họ làm thế nào. Họ trưng dụng một xe cào tuyết đi trước họ trong khoảng năm mươi dặm ở một nơi nào đó. Những người phụ nữ này có khả năng làm bất cứ điều gì. Người cha chỉ là một cái bóng. Người phụ nữ là nỗi kinh hoàng. Kartrud tệ nhất. Cô ấy có tám đứa con và cô không bao giờ ngừng điều khiển các chị em và gia đình của họ và bất cứ ai khác sẽ cho phép cô. Greta chỉ vô ích đối với cô ấy.”

Anh nói rắc rối đã xảy ra ngay lập tức, về tang lễ. Ted quyết định chọn một tang lễ không tôn giáo. Anh đã nhất quyết từ lâu nếu có người trong gia đình anh qua đời, anh sẽ không liên lạc với nhà thờ. Người lo vụ mai táng không thích, nhưng đồng ý. Greta nói được. Ted viết ra một vài đoạn văn tưởng niệm anh có ý định sẽ đọc. Vậy thôi. Không có thánh ca, không có cầu nguyện. Không có gì mới về phần này hết. Họ đều biết anh cảm thấy thế nào. Greta biết. Gia đình cô ấy biết. Tuy nhiên, họ bắt đầu tiếp tục như thể đây là một sự tiết lộ mới và kinh hoàng. Họ hành động như thể chủ nghĩa vô thần chưa bao giờ được biết đến. Họ cố gắng để nói với anh là một đám tang như thế này là bất hợp pháp, là anh có thể đi tù.

“Họ mang một ông già theo với họ, mà anh chỉ giả định là ông chú hoặc anh em họ hàng gì đó. Anh chưa gặp họ hết, đó là một gia đình rất lớn. Vì vậy, sau khi anh cho biết kế hoạch lo đám tang họ giải thích với anh ông ta là vị mục sư của họ. Một vị mục sư Phần Lan của giáo phái Lutheran họ đã chở theo vượt bốn trăm dặm để đe dọa anh. Hình dạng ông cũng xấu, một ông già nghèo vẻ gian. Ông ta bị cảm lạnh. Họ lăng xăng đặt những lớp mù tạt trên người ông, ngâm chân và cố gắng chăm sóc cho ông khỏe lại để thực hiện buổi lễ. Ông cần phục vụ họ đúng nếu ông không muốn làm họ thất vọng.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx