Phần Thứ Sáu
1.
Rảnh tay được một chút với tụi băng Lép-sẹo, Lượm nghĩ ngay đến việc tìm xem Chỉ huy trưởng mặt trận khu C hiện đang bị giam ở xà lim số mấy, để có thể giúp đỡ ông.
Mất hai ngày mày mò điều tra, Lượm và các bạn trong đội mới phát hiện ra ông đã bị bọn chúng chuyển lúc ban đêm, sang dãy ca-sô âm phủ, giam ở ca-sô số sáu.
Mỗi ca-sô, gần sát mắt có một khuôn cửa rộng chừng sáu tấc vuông, cắm chấn song sắt to bằng chét tay. Những người tù bị giam trong ca-sô cứ chiều chiều lại trèo lên, thả qua khuôn cửa sổ đó ra bên ngoài cái ống bơ có buộc dây như kiểu thả gầu xuống giếng. Họ thả xuống như vậy để chờ những người tù bên ngoài đi làm cỏ-vê về thương tình rót cho họ một ít nước trong, hoặc cho một mẩu bánh, một chút thức ăn. Nhưng mười ống bơ thòng xuống cũng chỉ vài ba ống bơ kéo lên có nước, có bánh hoặc thức ăn. Tất cả tù đều trong tình trạng đói khát ghê gớm, nên bớt ra được chút nước, chút bánh để cho là chuyện hãn hữu.
Vì khuôn cửa chiều ngang quá hẹp nên người bên trong không thấy được người ở bên ngoài cho gì vào ống bơ. Thấy ống bơ nặng nặng là họ kéo lên.
Lâu nay, bọn con nít trong băng Lép-sẹo vẫn bày trò tinh nghịch: Chúng bỏ gạch vỡ, đất, cát vào ống bơ để đánh lừa những người trong ca-sô. Tệ hơn, chúng còn đánh xoáy nước, bánh trong các ống bơ trước khi họ kịp kéo lên.
Nghe thằng Lanh kể chuyện, Lượm nổi điên. Đứng giữa sân lao, Lượm nói to với các bạn, cho cả mấy đứa trong băng Lép-sẹo đang đứng gần đó nghe tiếng:
- Đồ chó! Từ giờ trở đi, hễ các cậu thấy bất kể thằng mô làm như rứa là xông vô đập chết luôn. Đập chết! Nghe chưa?
Tụi băng Lép-sẹo bảo nhau: "Mấy người bị giam trong nớ toàn Việt Minh hạng nặng. Việt Minh, Vê-cu-đê với du kích là họ bênh nhau gớm lắm. Tụi mình xớ rớ chọc vô, tụi hắn sẽ xúm lại đập chết thiệt, chớ không phải tụi hắn nói doạ mô". Một thằng bướng bỉnh, gân cổ nói: "Tau cứ chơi! Coi tụi hắn có làm chi được c… tau không?". Và chiều đó thằng này đã lén bỏ một vốc cát vào ống bơ, nhưng các bạn của Lượm không nhìn thấy. Thằng này đắc chí vênh váo kể lại với "đại ca" Lép-sẹo để khoe gan. Hắn tưởng "đại ca" sẽ cười tán thưởng và khuyến khích hắn: "Cứ làm tới nữa đi". Không ngờ Lép-sẹo quay mặt, dộng luôn cho hắn một đạp ngã sấp và chửi:
- Đồ ngu!
Trước thái độ giận dữ bất ngờ của Lép-sẹo, bọn đàn em đều sửng sốt. Chúng nhận rằng đại ca chưa lần nào tham dự vào cái trò tinh nghịch của chúng, nhưng đại ca nổi khùng nhiếc chúng là đồ ngu như lần này là lần đầu. Một ý nghĩ ngờ vực thoáng qua óc chúng: "Hay đại ca cũng bắt đầu sợ thằng móc cứt đó?"
* * *
Bốn dãy ca-sô chỉ có ba bốn khuôn cửa sổ là không có ống bơ thòng xuống. Trong số này có khuôn cửa ca-sô số sáu, nơi giam Chỉ huy trưởng.
Lượm biết rằng Chỉ huy trưởng mới vào tù, ông kiếm đâu ra được ống bơ với dây. Và điều quan trọng hơn là nó không bao giờ tưởng tượng nổi một người như Chỉ huy trưởng lại thả ống bơ xin nước, xin bánh, như những người bình thường khác. Ông là phải mang súng săn voi của Bảo Đại, đi lừng lững trong chiến hào với đôi ủng lấm bùn và giương súng bắn xe bọc thép của giặc. Đó là hình ảnh độc nhất về Chỉ huy trưởng mãi mãi gắn chặt vào trí tưởng tượng của nó. Nếu biết ông cũng hành động như những người bình thường khác, chắc nó sẽ vô cùng đau khổ. Đó là nỗi đau khổ lớn lao của những tâm hồn ngây thơ, cuồng nhiệt khi thấy thần tượng bị sụp đổ.
Nhưng với kinh nghiệm tù đầy mới học được, Lượm biết lúc này ông đang phải nằm trần trụi trên nền xi măng lở lói, hôi hám, đang đói run người và khát cháy cổ. "Ôi chao, Chỉ huy trưởng làm răng mà nuốt nổi vắt cơm tù vừa sống vừa nhão với mấy cục muối mỏ mặn chát!" Nó nghĩ vậy mà ứa nước mắt.
Nó đào óc nghĩ cách tìm ra nước trong, bánh mì để chuyển vào cho ông. Nước trong thì có thể kiếm được, nhưng bánh đào đâu ra?
Thằng Lanh thông thạo đủ mọi chuyện trong tù, nói với Lượm:
- Các anh tù đi làm ở Sở Anh-tăng-dăng, họ thường ăn cắp được những ổ bánh mì rất to. Họ cắt ra bán cho những người có tiền. Nhưng anh em mình làm chi có tiền.
Thúi reo lên:
- Tui có tiền đây! Tiền bán kẹo dạo nọ vẫn còn y nguyên mà, anh Lượm.
Nó lộn cổ áo, lôi ra mấy tờ bạc cuộn tròn đưa cho Lượm.
- Một lát bánh kha khá mà ngon ước độ mấy đồng?
- Hai đồng chứ mấy.
Lượm đếm tiền đưa cho Lanh hai đồng, nói: "Mi nói các anh bán rẻ vô nghe". Rồi đưa trả số tiền còn lại cho Thúi:
- Mi cất đi, lỡ khi có việc cần.
Lượm và các bạn chia nhau đi kiếm dây, ống bơ, xin nước trong ở các toán tù đi làm cỏ-vê về.
Việc chuyển nước và bánh vào ca-sô qua khuôn cửa tò vò không khó lắm. Bốn đứa đứng chụm lại, tay bá vai nhau kết thành bệ, công kênh Lượm đứng lên vai. Lượm với hai tay níu chấn song sắt, đu người lên. Răng nó cắn đầu sợi dây điện thoại, một đầu dây có buộc ống bơ đầy nước và miếng bánh Lanh vừa mua được. Nó áp mặt và giữa hai chấn song nhìn vào bên trong. Bên trong ca-sô tối mò, xông lên mùi hôi ngột ngạt.
Lượm nói:
- Chỉ huy trưởng! Chỉ huy trưởng!
- Ai gọi gì đấy? - Từ bên dưới vọng lên tiếng hỏi, giọng khàn khàn, yếu ớt, nhưng nó vẫn nhận ra đúng giọng Chỉ huy trưởng. Ôi, làm sao nó có thể không nhận ra cái giọng nghiêm trầm, đã nói với Đội những lời thống thiết về nghĩa vụ lớn lao của người chiến sĩ, về chiến đấu cho sự sống còn của TỔ QUỐC, trên sân chùa Từ Đàm mới ngày nào…
Lượm gần như chét đầu vào giữa hai chấn song sắt nhưng không sao có thể nhìn thấy Chỉ huy trưởng đang nằm hoặc ngồi, ở bên dưới.
- Dạ, em là Lượm ở Đội Thiếu niên trinh sát. Em chiến đấu ở mặt trận khu C. Em bị bắt sau trận Hộ Thành. Ở đây có nhiều bạn cùng tuổi em là liên lạc của du kích, bộ đội địa phương. Chúng em họp lại thành đội để bênh vực, giúp đỡ nhau.
- Các em làm như thế là rất tốt! - Tiếng Chỉ huy trưởng vọng lên.
- Chúng em kiếm được ít nước trong và bánh gửi vô anh… - Giọng Lượm nghẹn lại. Nó khẽ khàng thận trọng kéo ống bơ và lát bánh mà Thúi ở bên dưới bưng hai tay đưa cao quá đầu, lên đến sát khuôn cửa. Nó đút hai thứ qua chấn song rồi thòng xuống cho đến lúc nghe tiếng đáy lon nước chạm khẽ nền xi măng.
Trong lúc đó, Lép-sẹo và bọn đàn em hắn đứng ở góc sân đằng kia, chăm chăm nhìn lại. Lép-sẹo áo phanh ngực, điếu thuốc ngậm lệch bên mép, mắt nheo nheo nhìn Lượm đu người như con vượn vào chấn song. Hắn gầm gừ:
- Tụi ni liều mạng thật! Tụi hắn coi Một Điếu với các cha lính canh bằng nửa con mắt!
Thằng đàn em có ve mắt thì thầm với Lép-sẹo:
- Để tui chạy ra mách mấy ông lính gác, các ông vô nện tụi hắn một trận báng súng cho bõ ghét nghe? Tụi hắn đang dồn dồn nhau rứa, chạy không kịp mô!
Thằng này co giò định chạy ra cổng, Lép-sẹo bất thần túm chặt cổ áo thằng này lôi giật lại. Hắn nhổ phắt cái tàn thuốc đang ngậm, vung tay tát thằng này một tát tai ngã dúi xuống đất, rồi chửi:
- Đồ ngu!
Lượm nghe tiếng huýt gió của Ngạnh làm nhiệm vụ cảnh giới, báo tin tụi lính gác sắp sửa đi vào. Nó hổn hển hỏi gấp:
- Chỉ huy trưởng có biết bạn Vệ liên lạc hiện nay ở đâu không?
- Em Vệ cùng bị bắt với tôi. Có lẽ chúng đưa em về giam ở lao Toà Khâm.
Lượm muốn hỏi thêm có phải ông bị bắt vì có đứa phản bội chỉ điểm không? Nhưng xa xa tiếng huýt gió của Ngạnh càng vang to, thúc bách hơn. Nó vội vàng nhảy đứng xuống vai các bạn, tụt nhanh xuống đất.
Khi Mệ-Lai-tàn-tật cùng với hai tên lính tay dùi cui, tay súng đi vào đến sân lao thì Lượm và các bạn đang chơi trò nhảy cừu.
Trưa hôm sau, Lượm và các bạn trong đội lại sửa soạn nước trong và bánh mì để tiếp tế cho Chỉ huy trưởng. Nhưng khi nó trèo bám lên khuôn cửa, gọi to nhiều lần, nó mới biết xà lim trống không.
Lượm và các bạn không ngờ lon nước và lát bánh hôm qua là bữa ăn cuối cùng của Chỉ huy trưởng mặt trận khu C Phùng Đông.
Mười hai giờ đêm hôm qua, bọn mật thám Pháp đã bí mật đến xích tay ông cùng với năm người tù khác bỏ lên xe bịt bùng, chở thẳng vào Đà Nẵng.
Không dụ hàng khuất phục nổi, chúng đã hèn hạ bắn ông và năm người tù đó trên bãi biển bán đảo Sơn Trà, rồi ném xác xuống biển.
2.
Việc Chỉ huy trưởng bị đưa đi mất tích trong đêm và tin Vệ-to-đầu bị bắt cùng với Chỉ huy trưởng, có thể hiện nay đang bị giam ở lao Toà Khâm, làm Lượm bàng hoàng, choáng váng. Hai đêm liền nó nằm mơ thấy ông… Nó thấy mình cùng với cả Đội đang tập hợp trước sân chùa Từ Đàm. Chỉ huy trưởng xuống ngựa bước nhanh lên các bậc Tam quan, với đôi ủng lấm bùn đất chiến hào. Khẩu súng săn voi đeo bên vai. Cái mũ cối Tiếp Phòng Quân màu cỏ úa, quai mũ ôm vòng hai bên má và cái cằm râu mới cạo xanh biếc. Cặp mắt sâu và rất sáng, nghiêm nghị lướt nhìn cả Đội, như ông đang cân nhắc, ước lượng sức vóc và lòng can đảm của mỗi đội viên để giao nhiệm vụ…
Lượm choàng tỉnh thấy hai má mình ướt đầm nước mắt.
"… Rất có thể không phải một tháng, hai tháng mà phải mất nhiều tháng nhiều năm nữa, chúng ta mới đánh đuổi được hết bọn cướp nước bán nước, mới giải phóng được TỔ QUỐC, giải phóng thành phố thân yêu của chúng ta… Nếu thế hệ chúng tôi chưa làm xong được sứ mệnh lớn lao này, thì thế hệ các em phải nối tiếp xốc tới, hoàn thành cho bằng được…".
Lời khuyên dặn hôm nào của ông trước giờ ra trận lúc này lại vang vọng trong trí nhớ Lượm, với một ý nghĩa mới mẻ khác thường; giúp nó bình tâm trở lại nâng đỡ nó trong cuộc chiến đấu không đồng đội, không người hướng dẫn, chỉ huy.
Nó giục giã thôi thúc Lượm gắng gỏi làm tốt những việc mà chính nó tự đề ra.
Việc quan trọng nhất là hàng ngày nó cùng với các bạn trong đội, kiếm nước trong đổ vào các ống bơ của các anh bị giam trong hai dãy "ca-sô âm phủ" thòng xuống. Xe nước vừa về là bọn trẻ đã có mặt quanh hố nước để giành múc nước trong nhưng vì tranh giành quá hỗn loạn nên dù nước múc được trước cũng đục ngầu, khăng khẳng mùi bùn, mùi rác. Dù chính hàng ngày đều phải uống thứ nước đó, có khi còn đục bẩn hơn, nhưng phải rót cho các anh, Lượm và các bạn đều thấy khổ tâm.
Muốn kiếm được nước trong, nhất thiết phải đi làm cỏ-vê. Lượm bàn với các bạn, chọn ra bốn đứa cùng với Lượm nữa là năm, sức vóc hơn cả, tìm cách chen bừa vào các toán tù đang sắp hàng trên sân lao, đợi xe các công sở đến chở đi. Nhưng lần nào Lượm và các bạn cũng bị gạt lại. Các công sở không chịu nhận tù con nít đi làm cỏ-vê.
* * *
Một buổi sáng tù đi làm cỏ-vê đã vãn hết, trong sân lao chỉ còn lại tù con nít, mấy người già yếu, vài anh tù mới vào hôm qua, chưa có công sở nào lấy đi làm.
Không có việc gì, tù con nít, người già yếu kéo ra đứng chen chúc sau khuôn cửa sắt đóng chặt của lớp tường trong, nhìn ra cổng chính. Trên nóc cổng chính có cây cột cờ ngắn, ngã chếch ra đường.
Buổi sáng, một tiểu đội lính ngục do viên đội hoặc tên cai điều khiển, súng vác vai, hô ắc-ê đi qua hai cánh cổng chính mở rộng tập họp thành hàng ngang trên đường, làm lễ kéo cờ. Những người tù không được đi làm cỏ-vê thường đứng chực ở đây, chờ bọn lính mở cổng ra kéo cờ, sẽ nhìn khúc đường phố lác đác có người qua lại, dù chỉ mươi phút. Bọn tù con nít bị giam giữ lâu ngày giữa hai lớp tường cao vòi vọi nhìn ra đường phố với ánh mắt háo hức, thèm khát trông thật tội nghiệp!
Sáng nào có Một Điếu đứng trong sân nhìn ra, viên đội, tên cai điều khiến lính làm lễ kéo cờ rất hùng dũng, oai vệ. Tiếng hô "Gác- đờ-bu! Pờ-rê-dăng-tê! Ứ!" nghe rất dõng dạc, đứng tận sân lao bên trong cũng nghe tiếng. Nhưng sáng nào vắng mặt Một Điếu, bọn lính ngục đều làm quấy quá cho xong chuyện. Chúng kéo ra chỉ bốn năm đứa như đi dạo mát, súng vác ngả nghiêng. Chúng kéo phăng cờ lên, không hô hiếc gì hết, rồi đi sang bên kia lề đường hút thuốc, ăn quà. Sáng hôm đó, Mệ-Lai-tàn-tật điều khiển việc kéo cờ. Mệ-Lai-tàn-tật giao cho một tên kéo cờ, còn hắn và những tên kia xúm lại quanh mấy gánh hàng quà, bánh canh, xôi bắp, bún bò… nói cười toe toét.
Lá cờ tam tài vừa kéo lên lưng chừng cột, anh tù điên đứng sát bên Lượm, hai tay nắm chấn song sắt cửa lay lay, rồi bất ngờ kêu toáng lên:
- Ông Một Điếu ơi là ông Một Điếu ơi! Ông ra mà coi quân lính của ông kéo cờ Đại Pháp mà như kéo tù vô xà lim! Không Pờ-rê-dăng-tê, không ứ, không ó cứt chi hết a!
Tụi lính ngục hoảng hồn, đang nhai xôi phải nhổ xôi, dụi thuốc, vứt tô bún đang ăn dở, chạy vội sang đường tập họp, và kéo cờ thật nhanh lên ngọn. Mệ-Lai-tàn-tật vừa sợ vừa cáu.
- Tổ cha thằng điên! - Hắn chửi và cúi nhặt nửa viên gạch, thẳng tay nhắm đầu anh tù điên mà ném.
Viên gạch va vào chấn song kêu "coong!" và dội bật trở ra. Vừa lúc đó Một Điếu từ trong nhà đi ra, hỏi:
- Cái gì? Cái gì?
Anh tù điên ôm đầu mếu máo, lu loa nói với Một Điếu bằng thứ tiếng Tây bồi hổ lốn quen thuộc của anh:
- Mông dạch nằng! Luỷ - Anh chỉ vào Mệ-Lai - kéo lơ đờ-ra-pô phăng-xe - anh làm điệu bộ kéo cờ - còn luỷ kéo pờ-ri-son-ni-ê vô xà lim. Nông gác-đờ-bu, nông Pờ-rê-dăng-tê, nông ứ! - Anh chụp tay Lượm làm điệu bộ kéo tù - Moa ráp-po mông dạch-nằng - Luỷ lăng-xê moa viên gạch - anh chỉ viên gạch - moa cát-xê la-tết - Anh ôm đầu nhăn nhó khóc hu hu như bị viên gạch ném trúng đầu.
Một Điếu nhận ra Lượm, liền hỏi:
- Bé con, đúng như vậy không?
- Thưa ông quan hai, đúng như vậy!
Một Điếu quay lại nhìn Mệ- Lai đang đứng chết điếng, mặt cắt không còn giọt máu.
- Đồ con lợn! - Một Điếu gầm lên. Hắn bước lại giật phắt cái lon cai trên ống tay áo Mệ-Lai-tàn-tật, vung roi quất tới tấp lên vai, lên lưng. Vừa quất vừa chửi:
- Đồ súc vật nhơ bẩn! Đồ súc vật nhơ bẩn!
Mệ-Lai-tàn-tật cứ phải đứng gác- đờ- bu mà chịu đòn, miệng lắp bắp van lạy:
- Mông dạch-nằng! Pạc-đon-nê moa!…
Nếu lúc đó không có một chiếc xe Jeep phanh rít đỗ xịch trước cổng lao, thì chắc viên cai ngục này sẽ bị đánh cho đến kỳ ngã gục. Chiếc xe do một tên lính da đen lái. Hai tên Pháp xuống xe, bước qua cổng lao, tên lính đeo tiểu liên "mát" và viên đội đeo súng lục. Chúng chào Một Điếu và đưa giấy tờ gì đó, Lượm tò mò lắng nghe viên đội Tây báo cáo với Một Điếu. Nó được biết chúng ở một công sở có tên là Poste Militaire (bưu điện quân sự), cần xin ba người làm cỏ-vê.
Viên quản người Việt, phó đề lao, mở cánh cửa sắt bước vào, chọn ba người tù lớn tuổi, dẫn ra ngoài cho viên đội Tây. Viên đội hỏi:
- Trong ba người, có người nào biết tiếng Pháp không?
Viên quản hỏi lại, cả ba lắc đầu.
Lượm liên thò cánh tay qua cổng sắt, nói to:
- Thưa ông đội, tôi biết tiếng Pháp!
- Mày nói tiếng Pháp khá không? - Viên đội bước đến gần Lượm hỏi.
- Tôi nói không được đúng mẹo lắm.
Viên đội nhún vai:
- Thế là mày hơn tao. Tao không biết một tiếng Việt nào.
Cánh cửa sắt mở ra. Viên đội gạt lại một trong ba người và kéo Lượm thay vào đó. Y quay lại hỏi viên quản phó đề lao:
- Ông đồng ý chứ?
- Đồng ý - Viên quản cười, bắt tay viên đội.
- Chúng ta đi thôi! - Viên đội hất đầu rất điệu với Lượm và chỉ ra xe.
Sự may mắn quá bất ngờ làm cho Lượm vui mừng đến nghẹn thở. Nó chỉ kịp quay lại ngoắc ngoắc tay với các bạn đứng chen chúc đằng sau cánh cửa sắt và đi gần như chạy ra chỗ chiếc xe Jeep đang đỗ. Nó thấy tim mình đập thình thịch trong lồng ngực. Nó lo sợ viên đội tây, thằng Một Điếu và cả tụi lính ngục nữa sẽ đổi ý, giữ nó lại vì chúng chợt nhớ ra: thằng tù con nít này đã từng hai lần liều lĩnh vượt tù…
3.
Sở Poste Militaire (gọi tắt là sở Pốt) đóng ở dãy nhà một tầng còn sót lại trong khu vực Trung bộ phủ cũ. Hầu hết những ngôi nhà kiên cố trong khu vực đã bị quân ta đánh sập thành những đống gạch vụn, trước khi rút khỏi Huế.
Đằng sau sở Pốt, cách một khu vườn rộng mọc lút cỏ dại, là ngôi nhà hai tầng rộng thênh thang của một công sở khác cũng của bọn nhà binh Pháp, có tên là Coopérative Militaire (cửa hàng nhu yếu phẩm quân đội). Sở này cũng có một toán tù lao Thừa Phủ hàng ngày đến làm cỏ-vê. Toán tù gọi tắt công sở này là sở "Cốp".
Ở sở Pốt chỉ có thư từ, giấy má, những gói bưu phẩm lớn nhỏ xếp thành dãy trên các giá gỗ kê dọc sát tường. Trong khi đó bên sở Cốp, các gian buồng chất cao đến trần nhà những hòm đồ hộp, bánh kẹo, rượu, thuốc lá và nhiều hàng hoá vật dụng khác trông đến ngốt cả mắt. Xe ô tô lớn nhỏ ra vào rầm rập suốt ngày, mua hàng, chở hàng đến nhập kho… Công việc chính của toán tù làm cỏ-vê ở sở Cốp là xếp hàng hoá lên xe, chuyển hàng hoá trên xe xếp vào các kho.
Làm cỏ-vê sở Cốp hết sức nặng nhọc và thường xảy ra tai nạn. Vì các hòm hàng hoá nặng hàng tạ, hàng nửa tạ, chỉ cần sơ ý một chút là hòm rơi, lăn đè nát tay, nát chân. Nhưng đó chưa phải là điều khổ sở nhất của anh em tù.
Hôm đầu tiên bước vào sở làm cả toán tù hoa mắt vì của ngon vật lạ xếp như núi quanh mình. Anh nào cũng hí hửng, chuyến này chắc vớ bở. Họ hy vọng sẽ lấy cắp được đồ hộp, bánh kẹo. Nhưng chỉ sau một ngày họ đã biết mình lầm. Bọn Tây làm ở sở "Cốp" đều là tụi ác ôn, cô hồn, đánh đập tù tàn bạo không thua gì những tụi chuyên nghề tra tấn ở các Sở mật thám An ninh. Hung dữ nhất là một tên đội Tây, anh em tù gọi là Đội-lùn. Đội-lùn người thấp nhưng rất to ngang nên ngó gần như vuông. Mặt hắn tròn to như cái đĩa tây, bóng loáng, râu ria cạo nhẵn thín, cặp mắt của loài thú dữ ăn thịt người. Hắn có sức khoẻ khủng khiếp của tên đô vật hoặc cử tạ hạng nặng. Một lần hắn bắt gặp một người tù ăn mấy miếng bánh bích quy rơi ra từ cái hòm vỡ. Hắn lẳng lặng túm hai cổ chân anh ta, nhấc bổng lên như nhấc con gà, dộng đầu anh vào cái hòm gỗ, máu mồm, máu mũi anh ộc ra như xối, mấy miếng bánh vừa nuốt trào ra miệng cùng với máu.
Mỗi buổi chiều, trước khi lên ô tô về lao, hắn bắt tù xếp hàng ngang, cởi hết quần áo để kiểm soát. Chỉ cần tìm thấy một miếng bánh, một cái kẹo, hắn cũng đánh cho máu chảy tràn mặt.
Đi làm cả tháng trời mà chưa người tù nào ăn cắp nổi cái kẹo. Chân giẫm xéo lên đồ hộp, bánh, kẹo, trong lúc thắt ruột thắt gan vì đói, quả là một cực hình.
Đội-lùn có con chó béc-giê to bằng con bê nhỡ, lông xám như lông chó sói và cũng thấp lùn như hắn. Hắn gọi con chó là Rếch. Con Rếch không rời hắn một bước và là một tên tay sai vô cùng đắc lực trong việc hành hạ, đôn đốc, kiểm soát tù nhân. Đứng từ xa, Đội-lùn nhìn thấy một anh tù nào đó trốn việc, làm việc uể oải, hoặc lấy cắp một thứ gì đó, hắn chỉ cần chỉ tay huýt lên một tiếng là con Rếch lao vút, xô ngã anh ta xuống đất và cắn xé tả tơi. Có anh tù khiếp đảm con chó đến phát điên.
Sở Pốt cũng như sở Cốp, quan và lính làm việc đều là bọn Pháp, không có tên lính nguỵ nào. Nhưng bọn sở Pốt, tuy là lính tráng nhưng đều có dáng công chức bộ diện tử tế, lịch sự. Chúng không chửi mắng, đánh đập tù ngay cả tên lính gác cũng vậy, mặc dù tên này có bản mặt của tên găng-tơ giải nghệ. Hắn nói với Lượm:
- Tao không thích đối xử với mày như bọn kia - Hắn hất hàm trỏ sang bọn sở Cốp - Làm xong công việc tụi mày có thể được nghỉ ngơi. Chỉ yêu cầu tụi mày không được tìm cách chạy trốn. Nếu chúng mày chạy trốn, tao buộc cái này phải lên tiếng - Hắn vỗ vỗ bàn tay lông lá vào báng khẩu tiểu liên "mát" nhún vai nói thêm - Đừng làm cho nó phải nổi giận!
Lượm phiên dịch lại cho hai người lớn tuổi cùng đi làm với nó.
Tên đội đến lấy tù đi làm tên là Buy-va, phụ trách văn thư của sở. Hắn giao việc hàng ngày cho ba người tù. Hai người lớn gánh nước ngoài bến sông Hương đổ đầy hai cái bể xi măng phía sau khu nhà bếp. Lượm quét tước làm vệ sinh khu nhà ở, nhà làm việc và thông ngôn.
Giám đốc sở tên là I-tai, đóng lon quan hai.
Quan hai I-tai đã đứng tuổi, người cao, gầy, lưng gù gù, đầu hói, đeo kính cận. I-tai có dáng dấp ông giáo trường làng hơn là sĩ quan quân đội viễn chinh. Y có vợ người Việt, một mụ me Tây béo phục phịch. Hai vợ chồng ở một gian phòng lớn cuối dãy nhà làm việc.
Hôm đầu tiên đến sở, quan hai I-tai hỏi Lượm:
- Tại sao em bị bắt?
- Người ta tình nghi tôi là liên lạc của Việt Minh… Nhưng không phải.
I-tai nhún vai:
- Nếu đúng là liên lạc của Việt Minh cũng không sao. Ở Pháp, trong trận đại chiến vừa qua, cũng có nhiều thiếu niên lứa tuổi em là liên lạc của quân du kích.
Buổi trưa, y cho ba người tù một ổ mì lớn. Và cũng trong ngày hôm đó, ba người tìm được trong đống rác sau khu nhà bếp, ba cái thùng vỏ đồ hộp, đựng nước sông Hương mang về nhà lao.
@by txiuqw4