sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 1: Món Quà Của Cia

QUYỂN THƯỢNG

Lời chú thích quan trọng của tác giả:

Như mọi lần, tác giả trân trọng nhắc lại tới bạn đọc thân mến rằng, tuy dựa vào thực tế địa lý và thời sự, những nhân vật và tình tiết mà cuốn tiểu thuyết này chứa đựng, chỉ là sản phẩm của tưởng tượng. Mục đích duy nhất của người viết là mua vui cho bạn đọc, bởi vậy, nếu trong muôn một, có sự gần gặn hoặc trùng hợp với sự việc xảy ra ngoài đời, đó chỉ là ngẫu nhiên, ngoài ý muốn và trách nhiệm của tác giả.

NGƯỜI THỨ TÁM

1

Món quà của CIA

Môna nhắm nghiền mắt, trống ngực đập liên hồi. Nàng có cảm giác như mười ngón tay của nàng bị tê bại, vì mạch máu bị chặn nghẹt.

Một cái vòng sắt bọc cao su đen sì siết chặt cánh tay mảnh khảnh của nàng ở gần vai. Bàn tay nàng xòe ra, đặt ngay ngắn trên thành ghế. Nàng ngồi yên không được phép cựa quậy. Đột nhiên, nàng thấy ngứa mũi. Rồi toàn thân ngứa ran, hàng trăm con kiến vô hình bò lúc nhúc trên da thịt, khiến nàng cần gãi. Tuу mới 5 phút, nàng tưởng như 5 giờ đồng hồ dài giằng dặc.

Một con muỗi quái ác đậu nghênh ngang trên má nàng. Cơn ngứa tăng lên cực độ, nàng muốn nhấc tay lên đuổi con muỗi bướng bỉnh và lợi dụng, song tiếng nói trầm trầm của người đàn ông mặc áo choàng trắng lại cất lên:

- Yêu cầu bà nín thở. Nín thở.

Không biết người ấy đã bắt nàng nín thở đến mấy chục lần. Nàng cũng không biết cực hình khoa học này còn kéo dài đến bao giờ. Hồi nãy, nàng được dẫn vào một tòa nhà rộng mênh mông, tường sơn đen gớm ghiếc, cửa bọc thép dầy 10 li, quân nhân bồng tiểu liên và chó bẹt-giê lưỡi dài lê thê đứng gác, gần Công trường Đỏ.

Hai thiếu phụ mặc bờ-lu mời nàng vào thang máy, lên từng cao nhất. Đặc biệt là thang máy được đóng, mở bên ngoài, nên sau khi cửa sắt khép lại nàng rùng mình ớn lạnh. Thủ đô Mạc Tư Khoa đang trở rét, tuyết trắng bắt đầu rơi lả tả. Tuy nhiên, Môna ớn lạnh vì thang máy sơn đen, đóng kín như bưng không khác sà lim của tử tội.

Qua một hành lang dài vô tận, được trải nệm dầy ngăn tiếng động, nàng được đưa vào một căn phòng trắng toát. Đồ đạc trong phòng gồm vẻn vẹn một cái ghế bành sơn trắng, giữa bốn bức tường bê tông sơn trắng, một màu trắng xa lạ và quạnh quẽ.

Môna được mời ngồi xuống ghế. Một người đàn ông tóc hoa râm, đeo kính cận thị gọng vàng lễ phép chào nàng. Môna quay lưng lại một cái máy hình chữ nhật sơn trắng, trông giống máy ghi âm lớn, bên trên la liệt đồng hồ, và những cây kim nhúng vào mực chạy thoăn thoắt trên cuộn giấy tròn mở từ từ trước mặt.

Người mặc bờ-lu tự giới thiệu:

- Thưa bà, tôi là Ivan. Rất hân hạnh được gặp bà. Hồi bác sĩ phụ trách phòng thí nghiệm ở đây, tôi đã có dịp đến thăm, và trò chuyện nhiều lần. Đáng tiếc... Vâng, bác sĩ H. quả là một kỳ tài khoa học có một không hai trên thế giới.

Ivan ngừng bặt. Lời nói vô tình của hắn đã khơi lại đống tro tàn dĩ vãng trong lòng người quả phụ trẻ đẹp, chan chứa nhựa sống. Môna cắn chặt môi cho giọt nước mắt khỏi trào ra.

Trong khoảnh khắc, nàng bỗng nhớ lại là đàn bà góa. Chồng nàng, bác sĩ H. là nhà bác học nổi tiếng, từng đóng góp nhiều vào công cuộc phát minh tân tiến của Nga Xô. Bác sĩ H. dạy khoa vật lý tại trường đại học khoa học Mạc Tư Khoa, và nàng là sinh viên chăm chỉ, ngoan ngoãn, và đầy triển vọng.

Bác sĩ H. nổi tiếng đến nỗi người ta không đám kêu tên thật mà chỉ cung kính gọi là H., tức là hy-đrô, nghĩa là khinh khí, thứ hơi nhẹ nhất (1). Cái tên hy-đrô rất đúng vì thân hình ông gầy ốm và nhẹ như bông, tưởng như gió thổi nhẹ là ngã.

Định mạng trớ trêu khiến nàng gặp bác sĩ H. Mặc dầu đã 55 tuổi, ông vẫn sống độc thân, suốt ngày đêm cặm cụi trong phòng thí nghiệm, quên cả ăn ngủ. Trong khi ấy, Môna mới 25 tuổi xuân hơ hớ, vẻ mặt đẹp dị thường, thân hình căng cứng như trái bóng. Không hiểu sao nàng có cảm tình đặc biệt với bác sĩ H., và bỏ rơi hàng chục sinh viên trẻ măng, cường tráng, nhã nhặn để chạy theo một ông già gấp đôi tuổi.

Thất vọng, bạn đồng học gọi nàng là R., tên tắt của một thứ hơi nặng hơn hy-đrô một trăm lần (2) để trêu tức. Họ cho rằng nàng R. sẽ làm bác sĩ H. tan xương nát thịt. Lời đùa bỡn biến thành sự thật: bác sĩ H. bỗng cảm thấy rạo rực trước sắc đẹp quyến rũ của nàng, và cô bé sinh viên nhí nhảnh nhảy lên làm vợ vị giáo sư lão thành. Rồi bác sĩ H từ trần.

Nàng R. đã giết bác sĩ H. Theo các y sĩ, ông chết vì bệnh tim, song dư luận cay nghiệt lại đổ tội cho nàng. Họ bảo rằng bác sĩ H. chết sau tuần trăng mật quá dài, và quá cuồng nhiệt trong căn nhà nên thơ ở ngoại ô Mạc Tư Khoa. Môna đành nằm lì trong phòng. Nàng biết rõ căn bệnh của chồng, nhưng không thể nào bào chữa, vì một người đàn bà nẩy nở cực độ như nàng được hóa công nặn ra cho những thanh niên lực sĩ, không phải cho ông già lọm khọm như bác sĩ H. thưởng thức.

Thật ra, nàng không yêu bác sĩ H. Nàng kính phục ông thì đúng hơn. Vả lại, trong thời gian chung sống, nàng được ông coi như bạn, như con, không hoàn toàn như vợ. Cho đến nay, nàng vẫn chưa hiểu tại sao nhận lời làm vợ bác sĩ H. một khi nàng đã có người yêu, một thanh niên đĩnh ngộ, tài ba, hiện sống ở ngoài bức màn sắt. Chàng là mối tình đầu tiên, cũng là mối tình bất diệt của nàng.

Chồng chết, nàng bỏ về miền quê nghỉ ngơi đinh ninh không trở lên Mạc Tư Khoa nữa. Đột nhiên, 2 ngày trước, một chiếc ZIS dài nhoằng đậu xịch trước nhà. Bước vào là một đại tá KGB, cơ quan mật vụ Xô Viết. Trung ương KGB ra lệnh cho nàng đáp phi cơ lập tức về Mạc Tư Khoa, tiếp tục công việc bỏ dở trong phòng thí nghiệm.

Phát minh của chồng nàng nằm trong phạm vi quân sự bí mật. Nàng là cộng sự viên thân tín và đắc lực của bác sĩ H., lại là một bộ óc phi phàm về khoa học nên chính phủ Xô Viết ủy thác cho nàng nghiên cứu và sắp xếp lại hồ sơ phát minh của bác sĩ H.

- Yêu cầu bà nín hơi thở. Nín hơi thở.

Lại giọng nói đều đều như ru ngủ của Ivan. Hai phút sau, Môna thở dài, giọng mệt nhọc:

- Xin lỗi, tôi mỏi quá rồi.

Ivan nói:

- Bà cố gắng lát nữa, một lát nữa thôi. Gần xong rồi, làm cái này thường mệt, nhưng không sao cả. Bà mới làm có nửa giờ. Bà coi, nhiều người phải đeo máy suốt ngày, hoặc đôi khi hai, ba ngày chưa xong.

Môna, giọng sửng sốt:

- Làm gì đến hai, ba ngày, hả bác sĩ?

Ivan cười:

- Vâng, vì việc sử dụng máy khám phá nói dối này rất tế nhị và khó khăn. Hơi biến đổi một chút là phải làm lại ngay. Thứ nhất, phải có sự thỏa thuận của người muốn làm. Nếu không sẽ hoàn toàn vô ích. Nguyên tắc của máy này rất giản dị: nó được chế ra để đo áp lực máu, và áp lực ngoài da. Người ta nhận thấy mỗi khi suy nghĩ đề nói dối, áp lực máu và hạch bồ hôi ngoài da biến đổi.

Hẳn bà đã để ý thấy tôi đặt ra nhiều câu hỏi vô nghĩa, gần như vô lý. Chẳng hạn: bà có phải tên là Môna không? Bà 27 tuổi phải không? Bà sinh trường ở Thượng Hải, cha người Nga, mẹ người Trung Hoa, gia nhập quốc tịch Liên Xô không? Dĩ nhiên, bà đã trả lời: có. Rồi tôi hỏi bà: Bà theo đạo Hồi phải không? Bà biết lái phi cơ phản lực phải không? Bà đã trả lời không, vì tôi biết rõ bà không theo tôn giáo nào, bà cũng không biết lái máy bay.

Những câu hỏi này được nêu lên với mục đích đo áp lực máu và hạch bồ hồi khi bà đáp có và không. Căn cứ vào tiêu chuẩn đạt được, tôi sẽ đặt ra những câu hỏi khác để xem bà nói thật hay nói dối. Chẳng hạn câu hỏi: Bà yêu bác sĩ H. không? Bà trung thành với Liên bang Xô Viết không?

Môna hỏi:

- Chắc ông nghi ngờ tôi. Tôi thú thật chưa hiểu nguyên nhân của sự nghi ngờ ấy. Tôi không đáng được tin cậy, phải không ông?

Ivan thở dài:

- Bà lầm rồi. Tôi chỉ tuân lệnh trên. Từ nhiều năm nay, tôi có cảm tình sâu xa với bà. Không riêng tôi, toàn thể giáo sư và sinh viên trường đại học khoa học đều có cảm tình sâu xa với bà. Vả lại, thưa bà, toàn thể nhân viên tình báo đều phải đeo máy nói dối. Không ai được đặc miễn, kể cả sĩ quan cấp tá.

Môna tái mặt:

- Máy nói tôi ra sao? Tôi không nói dối. Từ nhỏ đến lớn, tôi ít khi nói dối. Tuy nhiên, tôi khó thể trả lời rõ ràng những câu hỏi do ông nêu ra, nhất là câu hỏi liên quan đến tình cảm. Ngay cả lòng tôi cũng chưa biết tôi yêu bác sĩ H. hay không, thì cái máy vô tri giác của ông không tài nào biết được.

Ivan thở dài não nuột hơn:

- Tôi phải nghiên cứu một ngày mới có thể trả lời dứt khoát. Tuy nhiên, ngay bây giờ tôi có thể kết luận là lòng bà không hoàn toàn hướng về bác sĩ H. Thưa bà, đó là dĩ nhiên. Đẹp như tiên nga, bà không thể là sở hữu của một người, phương chi người ấy là ông cụ già, gần đất xa trời. Ngày xưa, tôi đã thương thầm, nhớ trộm bà. Bà lấy chồng làm tôi ốm nặng trong ba tháng. Ba tháng trường đau khổ. Ba tháng trường tương tư.

Môna lẳng lặng ngồi nghe, mặt thản nhiên. Trong đời, nàng đã nghe hàng trăm người đàn ông si tình kể lể tâm sự với nàng, và nàng đã dửng dưng. Tuy nhiên, Ivan là y sĩ cao cấp của Smerch (3). Cuộc thí nghiệm này sẽ quyết định cho đời nàng. Cách đây nửa giờ, nàng đã nói dối. Nói dối là chưa yêu ai, ngoài bác sĩ H.

Ivan nhìn thẳng vào mắt nàng - cặp mắt rộng và trong vắt như biển Địa Trung Hải mùa xuân - giọng tha thiết:

- Xin bà tin ở tôi. Tôi sẽ báo cáo với thượng cấp là buổi thử hôm nay hoàn toàn mỹ mãn. Mỗi khi thời tiết thay đổi, máy này thường sai. Bà lại là người Á Đông, trầm tĩnh hơn người phương Tây. Máy khám phá nói dối được сhế ra cho dân tộc phương Tây, mới được KGB dùng từ một năm nay (4). Chắc bà hiểu lý do tôi bênh vực bà. Thưa bà...

Ivan nín bặt. Nhìn thoáng tia mắt của gã đàn ông, nàng biết hắn đang thèm muốn ghê gớm. Hắn trạc 45, cái tuổi sung sức của nam giới. Nàng nghe bác sĩ H. nói nhiều về Ivan: một quá khứ sôi nổi, một gia đình lạnh lẽo, bên người vợ xấu xí, điêu ngoa và ghen tuông.

Môna là đệ tử trung thành của tiểu thuyết trinh thám. Nàng đã quen mánh khóe gợi tình của các vai nữ trong truyện. Vả lại, Ivan cũng là một nguồn an ủi say sưa, với cái miệng đa tình, đôi vai tròn lẳn và cử chỉ nhã nhặn. Từ lâu, Môna sống ẩn dật như trong tu viện. Nàng cảm thấy tâm hồn rào rạt.

Ivan nắm gọn bàn tay mũm mĩm và trắng muốt của nàng. Nàng nghe rõ hơi thở gấp gáp và nóng bỏng của gã đàn ông đứng tuổi. Phản ứng rồn rập này nàng đã thấy ở chồng nàng đêm tân hôn trên bờ biển Hắc Hải, hai người tắt đèn nằm hưởng hạnh phúc trong bóng tối êm mát.

Nàng nhoẻn miệng cười. Bộ ngực 95 phân đung đưa trên eo nhỏ xíu 55 phân, sau bộ xiêm áo bằng ni-lông, màu cặn rượu vang, may khít người nàng.

Ivan tiến sát lại. Mùi rượu vốt-ka quạt vào mũi nàng. Những sợi râu cạo chưa nhẵn cọ vào da thịt mềm mại của Môna. Nàng nhắm mắt lại, cánh mũi nở phồng.

lvan hôn thật lâu trên cặp môi hé mở. Đột nhiên, nàng ghét Ivan thậm tệ, Nàng muốn tát vào mặt hắn, song nàng nén lại. Cái hôn đằm thắm trở thành cực hình. Nàng bỗng nhớ đến Chàng. Ivan vật nàng xuống. Ngọn đèn nê-ông sáng quắc phụt tắt.

oOo

Môna nhăn mặt, uống thêm ly rượu đầy ắp. Nàng đã uống phần ba chai vốt-ka mà vẫn rét run, mặc dầu lò sưởi vẫn chạy đều, mặc dầu áo lông trên người nàng bằng chinchilla (5), thứ lông đắt tiền nhất thế giới, do Điện Cẩm Linh thưởng cho bác sĩ H. sau một phát minh kỳ diệu.

Đứng bên, Lisa nhìn nàng bằng cặp mắt trìu mến, như bà mẹ nhìn con gái rượu. Lisa là hầu gái thân tín của nàng.

Môna quay lại nói:

- Khổ quá, tôi chết mất.

Lisa đưa ngón tay lên miệng:

- Bà đừng nói nhảm. Người ta nghe được thì khốn.

Nghe người tớ gái nhắc, nàng chợt nhớ ra đang sống ở Mạc Tư Khoa, thủ phủ Liên Bang Xô Viết. Mỗi bước chân mỗi góc tường, mỗi lỗ khóa đều núp sẵn nhiều con mắt, nhiều vành tai mật vụ, thu trộm lời nói hoặc cử chỉ hớ hênh. Trong thời gian chung sống với nàng, bác sĩ H luôn luôn dặn nàng gìn giữ lời ăn, tiếng nói. Thấy nàng nhăn mặt, bác sĩ thường nói:

- Anh không muốn em đi Tây Bá Lợi Á...

Suốt ngày, Lisa túc trực bên nàng, thái độ dè dặt của chồng làm nàng bất mãn. Song Lisa khuyên nhủ:

- Bác sĩ nói đúng. Bà nên kín miệng thì hơn.

Từ ngày yêu bác sĩ H. nàng đã thấy Lisa. Người hầu gái không lấy gì làm đẹp. 50 tuổi, mắt đeo kính cận thị, hai cái răng vàng trong miệng, da dẻ mốc meo, Lisa sống độc thân là phải. Nếu là một con sen nhí nhảnh, xinh xắn và căng cứng, Môna đã thận trọng với chồng, nhưng sự có mặt của Lisa làm nàng yên tâm hoàn toàn.

Vả lại, Lisa coi nàng như người thân, như một thần tượng. Nàng muốn gì, người hầu gái trung thành và tháo vát cũng chiều chuộng bằng được. Bác sĩ H. quên không nói cho vợ biết là thuê người tớ gái ở đâu. Môna cũng quên không hỏi chồng.

Hồi bác sĩ H. từ trần. Môna thức trắng đêm bên cửa sổ nhìn ra vườn, tuyết rơi lả tả. Nàng mất ngủ khỏng phải vì nhớ chồng mà vì tiếc nuối tuổi xuân lỡ dỡ của mình. Ba giờ sáng. Cái đồng hồ quả lắc ở phòng bên chậm rãi điểm giờ. Lisa rón rén đẩy cửa bước vào. Dưới ánh đèn đêm, Lisa già hẳn, mái tóc bạc bỗng trắng xóa như tuyết. Cảm thấy ái ngại, Môna cất tiếng:

- Khuya rồi, bà chưa đi ngủ ư?

Lisa tiến lại gần giường:

- Thua bà, tôi muốn thưa với bà một chuyện quan trọng. Vô cùng quan trọng.

Nàng giật mình:

- Chuyện về bác sĩ H. ư?

Lisa lắc đầu:

- Thưa bà, không. Đây là một câu chuyện riêng. Từ lâu lắm, tỏi giữ chặt trong lòng.

Nói đoạn, người hầu gái khép chặt cửa sổ. Môna kinh ngạc:

- Bà làm tôi ngạt thở mất.

Không đáp, Lisa rút trong túi tạp-dề ra một phong bì màu vàng. Mấy tấm ảnh cỡ nhỏ rơi tung tóe xuống giường. Nhặt lên, Môna suýt kêu lên một tiếng sửng sốt.

Bức thứ nhất là ảnh một đứa bé gái trạc 5 tuổi, đang nô đùa với con ngựa gỗ gẫy một tai và cụt đuôi trên thềm ngôi nhà cổ. Phía sau là một cải bể nuôi cá vàng, cá lượn tung tăng giữa đám rong biển. Đứa bé ngây thơ này là Môna, và căn nhà xưa này là tổ ấm của gia đình nàng ở ngoại ô thành phố Thượng Hải hai chục năm về trước.

Môna không tài nào quên được con ngựa gỗ gẫy tai và cụt đuôi ấy. Vì mẹ nàng đích thân mua cho nàng đề ăn mừng sinh nhật. Một hôm, giận mẹ, cô bé Môna lấy dao gọt tai và đuôi con ngựa gỗ. Mẹ hỏi thì Môna đáp:

- Con phải làm thế để mẹ thương con mãi. Khi nào mẹ ghét con, mẹ sẽ nhớ đến con ngựa gỗ.

Mẹ nàng cười xòa:

- Mẹ ghét con sao được.

Mẹ nàng làm bạn với một người Nga. Hai mẹ con sống bên nhau, hàng tháng cha nàng mới đến thăm một lần. Cô bé Môna còn nhỏ nên không thể biết được tình cảnh của người vợ làm lẽ. Thương con, mẹ nàng dành dụm tiền nong mua cho nàng một lô cá vàng xinh đẹp. Suốt ngày, nàng quấn quít bên mẹ, bên con ngựa gỗ và bên bể cá vàng.

Năm nàng lên 8, tai biến thảm khốc xảy ra. Mẹ nàng thiệt mạng trong một vụ hỏa hoạn kinh khủng. Cha nàng đến nhận nàng mang về nuôi. Thì ra cha nàng là một kỹ sư Xô Viết, giữ chức Cố vấn trong một xí nghiệp ở Thượng Hải. Sáu năm sau, Môna trở thành kỳ tài về toán học. Nàng đem lòng yêu một thanh niên người Mỹ, con trai duy nhất của một viên chức ngoại giao.

Тuу nhiên, nàng không lấy được chàng, mặc dầu chàng yêu nàng tha thiết. Rồi chàng đi biệt tích. Nàng theo cha về Mạc Tư Khoa tiếp tục học hành. Thời gian qua, nàng trở thành bà bác sĩ H.

Giờ đây, nàng được thấy ảnh chàng. Trong ảnh, chàng mĩm cười ý nhị và duyên dáng. Bàng hoàng, nàng hỏi Lisa:

- Trời ơi, bà lấy những ảnh này ở đâu?

Người tớ gái ra hiệu cho nàng nín lặng. Đoạn lật bức ảnh lại. Ở bề trái, Môna đọc được như sau:

“Em Môna yêu quí của anh.

Từ ngày xa em, anh không ngừng cầu nguyện đêm ngày cho hai đứa mình được xum họp. Giờ đoàn tụ đã tới. Em hãy nghe lời Lisa, hoàn toàn phó thác mạng sống cho Lisa. Hôn em”.

Nàng không lầm được. Chàng đã ký tên ở dưới. Lối viết bay bướm của chàng, nàng đã thuộc từng cái móc, từng dấu phết. Người hầu gái nhìn chủ bằng cặp mắt bí mật. Môna định cất hai bức ảnh, nhưng Lisa xua tay:

- Bà đừng làm thế, nguy hiếm lắm. Để tôi giữ giùm bà, tiện hơn.

Nàng nắm bàn tay răn reo của Lisa:

- Lisa giúp tôi đi. Tôi đợi chàng gần 10 năm nay. Vì chàng, tôi ráng sống. Lisa đã mang lại sự sống cho tôi.

Lisa vuốt tóc nàng, âu yếm:

- Bà yên tâm, tôi đang bố trí cho bà tái ngộ với người yêu của bà. Từ phút này, bà phải thận trọng, tuyệt đối thận trọng. Sở KGB biết được bà có liên lạc với ngoại quốc thì khốn. Chàng lại là công dân Mỹ. Bà và tôi sẽ bị lưu đày tới trại giam lạnh lẽo ở Tây Bá Lợi Á đến chết.

Nghe nhắc đến Tây Bá Lợi Á, nàng rùng mình lo sợ. Giọng nàng run run:

- Bao giờ tôi được gặp chàng?

Lisa đáp:

- Bà chớ nôn nóng. Để tôi lo liệu. Trước hết bà phải trở về Mạc Tư Khoa. Bà phải trở về phòng thí nghiệm của bác sĩ H. Rồi tôi sẽ đưa bà ra khỏi biên giới.

Môna hỏi gặng:

- Bà là ai?

Lisa mỉm cười:

- Tôi là Lisa, hầu gái trung thành của bà.

- Không. Bà trá hình làm hầu gái.

Người tớ gái vẫn mỉm cười, hiền từ:

- Mỗi người có phận sự riêng, bà đừng hỏi nữa. Tôi chỉ có quyền trả lời một câu thôi: tôi là bạn thân của bà và của ý trung nhân của bà.

Lisa kín miệng là đúng. Vì làm nghề lạ lùng như Lisa, không kín miệng là chết. Có lẽ Môna không bao giờ biết được người hầu gái ngũ tuần khoan thai và khả ải kia là một trong những nữ nhân viên ưu tú của sở Tình báo Mỹ CIA trên đất Nga. Nàng cũng không bao giờ biết được hai cái răng vàng óng ánh trong miệng Lisa là đồ giả. Cái răng ở hàm dưới chứa sẵn một chất độc cực mạnh, xy-a-nuya, đủ giết người trong vòng 5 giây đồng hồ ngắn ngủi. Còn cái răng ở hàm trên là một máy phát tuyến tí hon, chỉ được dùng trong trường hợp khẩn cấp…

... Chuỗi kỷ niệm lần lượt mở ra trong trí Môna. Nàng trao ly cho Lisa:

- Xin bà ly nữa.

Lisa đặt tay lên vai chủ:

- Thưa bà, tôi rót đến ly thứ tư rồi. Bà đừng uống nữa say đấy.

Môna thở dài, giọt nước mắt lăn trên gò má:

- Tôi đang cần say... Bà cho tôi uống nữa đi. Mai kia…

Người tớ gái vội bịt miệng nàng lại. Nàng ngồi khựng người, mặt tái mét. Nàng định nói như sau:

- Mai kia... gặp chàng, và sang Mỹ tôi sẽ không say rượu như đêm nay nữa.

Chuông điện thoại reo trên bàn. Mặt sáng rực, Môna áp ống nghe vào tai. Ở đầu giây là một giọng nói đàn ông quen thuộc: Ivan. Hắn cười hềnh hệch, trong điện thoại:

- Xong rồi. Thiếu tướng đã chấp thuận.

Môna mừng rơn:

- Cám ơn Ivan ngàn lần.

Lisa lừ mắt ra hiệu. Hiểu ý, Môna nói tiếp:

- Tối nay anh rảnh không? Lisa làm món cotletki pojarski (6) ngon lắm. Ngoài ra, còn món koulebiaka dành riêng cho anh (7). Em mới mua được mấy chai kvass (8) hạng nhất.

Ivan rú lên trong máy:

- Trời, được ăn sang trọng như vậy thì chết tôi cũng bằng lòng.

Thật ra, Ivan không phải là gã đàn ông tham ăn. Chức vụ cao cấp trong Phản gián Smerch cho phép hắn tiêu xài đế vương. Chẳng qua, hắn muốn được gần nàng.

Nàng cũng muốn gần hắn để chóng được rời Mạc Tư Khoa.

Nàng gác điện thoại, òa lên khóc trong sung sướng. Người quản gia âu yếm hỏi:

- Bao giờ, thưa bà?

Nàng nghẹn ngào:

- Trong tuần tới.

Lisa nói:

- Từ phút này, bà phải thận trọng hơn nữa. Tôi sẽ lên đường với bà.

- Tôi sợ lắm.

Bà ráng lên. Vì vậy, bà mới phải chinh phục Ivan. Nhờ hắn, bà và tôi sẽ thoát khỏi nơi này.

- Tôi xấu hổ một cách lạ lùng.

- Nếu bà còn chú trọng tiểu tiết, việc lớn sẽ chẳng bao giờ thành. Ý trung nhân của bà đang chờ bà bên kia đại dương. Bà chỉ cần chịu đựng một vài tuần lễ nữa.

- Vâng, tôi xin nghe lời bà. Bây giờ, bà muốn tôi làm gì?

- Muốn bà sửa soạn thật lộng lẫy. Tôi sẽ xuống bếp làm cơm thật thịnh soạn.

- Tôi chịu ơn bà quá nhiều.

- Ồ, bà đừng nghĩ quẫn. Rồi đây, bà sẽ biết. Nhân loại sẽ phải tri ân bà.

Như cái máy, Môna lại bàn trang điểm. Từ ngày rời ghế đại học, lên xe hoa, nàng không còn cái thú trang điểm trẻ trung như xưa nữa. Lâu lắm, nàng không cầm lại thỏi son, và chai nước hoa Chanel số 5 quen thuộc. Ngồi trước gương, gỡ lại tóc, nàng giật mình. Sầu muộn đã làm nàng đẹp dội lên.

Nàng đẹp già dặn, quyến rũ hơn thời con gái. Thảo nào Ivan sẵn sàng thay đổi kết quả của máy khám phá nối dối!

Bên ngoài, tuyết trắng vẫn rơi lả tả...

oOo

3 giờ sáng.

Lisa tung mền, nhỏm dậy. Ở phòng bên, Môna ngủ say từ nửa đêm. Sau bữa ăn, nàng trò chuyện thân mật với Ivan trong phòng khách cửa đóng kín mít. Muốn cho Ivan tự do, Lisa đã lánh xuống bếp. Gần 12 giờ, hắn mới chịu ra về.

Môna tiễn hắn ra cửa, rồi vội vàng trở vào giường, úp mặt xuống đệm khóc nức nở. Lisa dịu dàng bế nàng lên, thay quần áo cho nàng, kéo chăn che đến cổ rồi rót vốt-ka cho nàng uống, sau khi bỏ vào ly một viên thuốc ngủ cực mạnh.

Tiếng khóc thút thít im dần. 5 phút sau, Môna ngủ li bì. Lisa ngồi yên trong bóng tối của ngôi nhà rộng rãi, nghe tiếng động chung quanh, Mạc Tư Khoa ban đêm, nhất là đêm đông, còn quạnh quẽ hơn Bắc cực. Trong bóng tối, Lisa cử động nhanh nhẹn như người đeo kính hồng ngoại tuyến.

Lisa đi vào bếp. Sở mật vụ KGB của Nga Xô gồm hàng vạn nhân viên, song không thể nào khám phá ra cái bếp của nữ bác học Môna lại giấu một điện đài tối tân, được dùng để chuyển về Hoa Thịnh Đốn những bức điện tối mật. Nhưng hiện nay Lisa chưa cần tới điện đài.

Trong nhà, hoàn toàn im lặng. Lisa mở hé cửa sổ trên lầu, nhìn qua khu vườn tối đen. Bên kia đường là tòa buyn-đinh 4 từng mới hoàn thành, cửa toàn kính. Lisa lắng tai nghe trong 15 phút. Ngoài tiếng tuyết rơi, Lisa không nghe tiếng động nào nữa.

Giây phút trọng đại đã tới. Lisa rút trong túi ra một cái ống nhỏ, bề ngoài giả làm thỏi son. Cái ống bằng đồng này là một loại súng đặc biệt, do ban kỹ thuật CIA chế tạo cho Lisa. Vặn một đầu ra, người ta thấy cái đồng hồ nhỏ xíu, ghi số từ 10 đến 250. Lisa bấm nhẹ nút đỏ: cây kim từ số dê-rô từ từ chạy tới số 50. Nghĩa là khẩu súng được điều chỉnh tầm bắn trong vòng 50 thước.

Lisa đã tính toán kỹ lưỡng từ nhiều tuần trước Khoảng cách từ bao lơn đến cửa sổ đối điện của tòa buyn-đinh vừa đúng 40 thước, cửa sổ hình chữ nhật ở lầu 3 là phòng ngủ của viên phụ tá tùy viên thương mãi sứ quán Ai Cập tại Mạc Tư Khoa.

Lisa nâng thỏi sáp môi lên ngang mặt. Phật một tiếng nhẹ, viên đạn nhỏ xíu từ nòng súng vọt ra, bay vào đêm tối. Là nhà thiện xạ. Lisa không thể bắn ra ngoài. Viên đạn chạm ô kính sẽ lóe ra hàng trăm chấm đỏ li ti.

Người hầu gái mỉm nụ cười khoái trá. Bao tháng ngày chờ đợi trên lãnh thổ Xô viết không phải vô ích. Sáng mai, sở gián điệp CIA ở Hoa Thịnh Đốn sẽ biết tin.

Lisa không biết ai sẽ báo tin. Viên phụ tá tùy viên thương mãi hay vợ ông ta? Hay là người hầu gái? Lisa thầm phục sự bố trí khôn ngoan và kín đáo của trung ương CIA. Nhân viên ngoại giao Tây phương bị canh gác cẩn mật, CIA bèn dùng nhân viên Ai Cập. Nhân viên này không quen Lisa, cũng không hiểu nội dung của mật hiệu. Hễ thấy khung cửa sổ lấm chấm sơn đỏ, người ấy phải đánh điện cho một người bạn ở Ai Cập, chúc mừng sinh nhật. Từ Ai Cập, tin này được chuyển ngay tới tổng hành doanh CIA ở thị trấn Langley, cách Bạch Cung và Ngũ giác đài 20 phút đồng hồ xe hơi.

Tổng hành doanh CIA là một công thự tối tân, lớn vào bậc nhì ở Hoa Thịnh Đốn, đứng sau Ngũ giác đài, tức là Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ. Choán một diện tích mênh mông trên 9 mẫu tây, khu CIA cao 8 từng ngạo nghễ sau rừng cây xanh biếc.

Trị giá 46 triệu đôla, tòa nhà Vĩ đại này được gắn máy điều hòa khí hậu, và chứa những hồ sơ bí mật nhất thế giới.

Sáng hôm ấy, tổng hành doanh CIA vẫn náo nhiệt như thường lệ, song ai được hân hạnh vào văn phòng ông tổng giám đốc, một căn phòng lớn, đóng mở bằng điện, sẽ chứng kiến một sự im lặng khác lạ.

Ông Sì-mit (9) ngồi trầm ngâm sau cái bàn lớn đầy ắp hồ sơ, và hàng chục cái nút. Ông bấm nút màu trắng. Một giọng nói khàn khàn nổi lên qua máy khuếch âm:

- Thưa ông, tôi đây.

Ông Sì-mít hỏi:

- Đã thi hành kế hoạch EZ-17 chưa?

EZ-17 là kế hoạch phóng lên không gian một vệ tinh Samốt (10) đặc biệt.

Giọng khàn khàn đáp:

- Thưa, vì thời tiết xấu nên chậm mất 6 giờ.

Ông Sì-mit nhăn mặt:

- Vào giờ này, nó bay qua mục tiêu chưa?

- Thưa rồi. Nó đã bay qua Mạc Tư Khoa tới vòng thứ 3.

- Cám ơn ông. Còn thông cáo báo chí?

- Thưa, đúng theo chỉ thị. Bản thông cáo vừa gửi cho báo chí loan tin vắn tắt rằng Hoa Kỳ phóng lên khí quyển một vệ tinh Tirốt (11) để thăm dò thời tiết.

Ông Sì-mit bấm nút màu vàng. Giọng ông vang trong phòng:

- Vệ tinh Samốt chuyển tin nào từ Mạc Tư Khоа về chưa?

- Thưa, vừa nhận được cách đây 15 phút. Phòng Mật mã đang dịch. Trong 10 phút, tôi xin mang lên trình.

Ông tổng giám đốc CIA khoan thai hút một điếu xi gà thơm ngát. Hệ thống truyền tin của ông đã hoạt động không sai một li. Lisa báo tin cho tòa nhà đối diện. Hai giờ sau, hộp thư ở Ai Cập nhận được điện mừng sinh nhật. Sứ quán Hoa Kỳ ở Ai Cập điện thẳng về Hoa Thịnh Đốn.

Ám biệu bằng mực đỏ của Lisa có nghĩa là “công việc đã chuẩn bị xong, xin Trung ương liên lạc vô tuyến”. Lisa, người hầu gái kiêm nhân viên CIA được trang bị một điện đài kỳ dị. Kỳ dị vì nó chỉ chạy được sau khi nhận lệnh vô tuyến điều khiển từ trên không gian do vệ tinh truyền xuống.

Lisa liên lạc với vệ tinh bằng một kỹ thuật mới: thông tin với luồng sóng lên thẳng. Kỹ thuật này làm cho guồng máy tằm đài của KGB và Smerch hoàn toàn bất lực.

Đúng 12 phút sau, chuông trên bàn ông Sì-mit kêu rè rè. Đó là tiếng chuông báo hiệu người lạ đến trước cửa phòng. Ông Sì-mit bấm nút xanh: hình ảnh người lạ hiện trên khung máy vô tuyến truyền hình. Nút đỏ: cánh cửa thép nặng nề dạt ra nhẹ nhàng.

Nhân viên phụ tá DD/P (12) trịnh trọng bước vào, mang theo bức điện của Lisa vừa được dịch xong. Trên miệng ông Sì-mit nở nụ cười sung sướng. Đọc hết bức điện, ông Sì-mit bấm nút màu đen, ra lệnh cho tổng đài gọi vô tuyến điện thoại đặc biệt (13) cho ông Hoàng ở Sài Gòn.

Từ Mạc Tư Khoa, nội vụ được chuyển tới Hoa Thịnh Đốn.Và từ Hoa Thịnh Đốn vượt trùng dương sang Việt Nam, tới văn phòng của ông Hoàng, giám đốc Mật vụ Việt Nam.

oOo

Tiếng máy điều hòa khí hậu reo lên một âm thanh buồn ngủ. Trong căn phòng không cửa sổ gần trường bay Tân Sơn Nhất (14), ông Hoàng đi đi lại lại, nét mặt đăm chiêu.

Tôn trọng sự suy nghĩ của ông tổng giám đốc, Nguyên Hương lẳng lặng đợi lệnh, không nói một lời. Nàng là bí thư của ông Hoàng. Nửa giờ trước, ông Hoàng gọi nàng vào, dặn mang theo bút chì và cuốn sổ tay để ghi tốc ký. Nàng ngồi ngay ngắn trên ghế bành bọc da đỏ đồ sộ - cái ghế Văn Bình thường ngồi - đặt quyển sổ lên đùi, sửa soạn ghi chép, song chờ mãi không thấy ông Hoàng lên tiếng.

Từ mấy tháng nay, tâm tính của ông Hoàng gần như hoàn toàn đổi khác. Bản chất ông vẫn lầm lì như thường lệ, tuy nhiên trong quá khứ thỉnh thoảng ông còn nhoẻn miệng cười và thốt ra một tiếng bông đùa vui vẻ. Giờ đây, miệng ông luôn luôn mím chặt, cặp mắt ưu tư và ngơ ngác sau làn kính trắng dày cộm.

Là lãnh tụ một tổ chức điệp báo quan trọng, được toàn thế giới khâm phục và sợ hãi, ông Hoàng không được quyền sống dưới sự chi phối của tình cảm riêng. Trước mắt nhân viên, ông cố giữ thái độ bình thản, song mỗi khi cửa phòng đóng lại, một mình với đống hồ sơ cao ngất, và dãy diện thoại đủ màu, ông lại bâng khuâng đốt xì-gà, thần trí phiêu lạc đâu đâu. Nhất là những đêm vắng lặng, bên ngoài mưa rơi tầm tã, ông không tài nào chợp mắt.

Cuộc đời của ông tổng giám đốc đã mất một phần sinh thú từ ngày Văn Bình đột nhiên bỏ Sở, sau chuyến công tác buồn thảm tại Hồng Kông. Ba mỹ nhân yêu chàng đều chết một lượt, cái tang ghê gớm ấy đã làm Văn Bình, con người có trái tim và khối óc bằng sắt, biến thành kẻ thất tình, không thuốc nào chữa khỏi.

Trong quá khứ, nhiều lần bất mãn, Văn Bình xin từ chức. Song chàng chỉ hăm dọa, rồi đâu hoàn đấy, chàng lại trở về, vui say với công tác hiềm nghèo. Lần nầy, sau một phút điên cuồng đau đớn, chàng điện về Sài gòn xin nghỉ vĩnh viễn, rồi lên máy bay đi biệt tích.

Trên mặt Nguyên Hương, người ta cũng không còn thấy vẻ nhí nhành và nũng nịu như xưa. Mặc dầu nàng vẫn xinh đẹp, vẫn khêu gợi như dạo nào Văn Bình còn là con bướm đa tình của Sở Mật vụ, mà bí hiệu Z.28 làm rung động các cơ quan điệp báo trên toàn thế giới!

Tuy nhiên, trong sự xinh đẹp và khêu gợi ấy đã phản phất một vẻ trầm buồn ra riết. Nhân viên trong Sở không lạ gì mối tình thơ mộng giữa nàng và Văn Bình. Nàng đem lòng yêu Văn Bình từ lâu, từ hồi nàng còn là thiếu nữ chưa đến hai mươi, mớ tóc đuôi ngựa mềm mại vắt vẻo trên cái gáy trắng như ngó sen, đôi môi cong cớn đỏ chót luôn luôn hé mở, chờ vị hoàng tử của ái tình cúi xuống hôn lần đầu.

Vì sự cần thiết nghề nghiệp, Nguyên Hương chưa thể thành hôn với Văn Bình. Nhưng nàng không chán nản. Nàng bình tâm chờ đợi. Dầu phải đợi đến già, nàng vẫn đợi. Nàng vẫn đợi, tuy biết chàng nặng số đào hoa, đến đâu cũng đánh rơi một chút tình yêu.

Dầu sao, chàng cũng đi rồi. Chàng đi đâu nàng không biết. Bức điện do đệ tam tham vụ Hoàng Dung của lãnh sự quán Việt Nam tại Hồng Kông gửi về là tin tức cuối cùng nàng nhận được về chàng (15). Từ sáu tháng nay, sau tháng dài đằng đẵng như sáu năm trong lao thất, ngày nào đến văn phòng, việc đầu tiên của nàng cũng là lục lọi chồng thư từ và điện tín. Nàng hy vọng chàng viết thư cho nàng. Hoặc ít ra chàng gửi cho nàng một tấm bưu thiếp. Nàng biết chàng bỏ đi vì tuyệt vọng. Tuyệt vọng vì ba đóa hoa hồng tuyệt sắc bị đoản mệnh thảm thương ở Cảng Thơm trong cuộc đụng độ kinh hồn với gián điệp Trung Cộng và RU Xô Viết.

Từ sáu tháng nay, chàng vẫn tuyệt vô âm tín. Tuy vậy, nàng không giận, không ghen chàng. Nàng linh tính sớm muộn chàng sẽ trở về. Nàng biết chàng yêu hàng ngàn người đàn bà trên thế giới, nhưng chưa yêu ai bằng nàng. Nàng có cảm tường là ông Hoàng theo dõi cuộc phiêu lưu thất vọng của Văn Binh một cách kín đáo, nhưng vì kính trọng sự đau khổ chính đáng của người bạn vong niên quí mến, ông không tiết lộ hiện chàng lang thang ở đâu. Có lẻ, cũng như nàng, ông Hoàng tiên đoán chàng sẽ trở về. Một ngày kia, chàng sẽ trở về. Với giòng máu lãng tử trong người, lấy dao súng, mưu lược và tử thần làm bạn, Văn Bình không thể sống ẩn dật trong xó rừng bí mật.

- Nguyên Hương?

Tiếng gọi của ông Hoàng làm nàng giật mình, suýt đánh rơi bút chì xuống đất. Nàng đáp như máy:

- Dạ.

Ông Hoàng lẩm bẩm:

- CIA vừa tặng ta một món quà hi hữu. Một món quà lạ lùng... Kế hoạch của ta sắp thành công. Duy còn thiếu một điều...

Nguyên Hương thở dài thiểu nảo:

- Thưa, vì thiếu “anh ấy” phải không?

“Anh ấy”, tức là Văn Bình, Z.28, con cưng của Sở. Ông Hoàng bùi ngùi, nhìn lên cái tủ kê sát tường: chai rượu buốc bông, cạn một phần ba, thứ rượu Văn Bình thích nhất, vẫn dựa lưng vào bịch thuốc Salem màu xanh lá cây, sực nức mùi bạc hà quen thuộc. Mỗi khi Văn Bình bước vào, nụ cười ngạo nghễ và hoang toàng nở trên môi, cặp mắt tóe lửa ái ân và giết chóc, ông Hoàng thường thân chinh lấy chai rượu và bịch thuốc đặt ngay ngắn trên bàn giấy, và thân chinh mời chàng thưởng thức. Cách đây không lau, chàng uống một hơi hết phần ba chai rượu. Trước khi từ biệt, chàng mỉm cười với ông tổng giám đốc:

- Còn bao nhiêu, lần sau tôi sẽ uống hết.

Mùi huýt-ky, mùi bạc hà thơm ngát còn tỏa trong phòng. Ông Hoàng nhấc mục kính, giọng trầm trầm:

- Ừ.

Nguyên Hương hỏi gặng:

- Thưa, hiện giờ Văn Bình ở đâu?

Luồng mắt ông Hoàng đượm vẻ xa xăm. Trong một tích tắc đồng hồ, ông hồi tưởng lại phút đầu tiên ông gặp Văn Bình. Khi ấy, chàng là điệp viện thượng thặng của OSS dọc ngang vùng vẫy ở Âu châu.

Trước ngày hồi hương, nhận chức tổng giám đốc điệp báo, ông Hoàng đáp máy bay qua Ý, nơi chôn nhao cắt rốn của Maria, người vợ đầu tiên, người đã giúp ông đắc lực trong nghề gián điệp. Tình cờ ông gặp Văn Bình trong một ristorante sang trọng (16) ở La Mã.

Nghệ thuật xài tiền của Văn Bình làm ông giật mình. Hoàng tử ăn chơi xứ ngàn một đêm lẽ cũng tiêu ngông đến như chàng là cùng. Lúc chàng kéo ghế ngồi xuống, mọi con mắt đều nhìn lại, bàng hoàng như bị điện giật.

Riêng điếu xì gà ngất ngưởng trên miệng chàng đã trị giá 8 đô la. Loại xì gà PVI (17) chỉ bậc đế vương, hoặc tỉ phú mới dám hút. Chàng hút được vài hơi rồi vất. Đôi giày bằng da cá sấu Mỹ của chàng cũng trên 150 đô la (18), nghĩa là sang nhất thế giới. Chưa hết: bộ âu phục của chàng bằng len Shatusa (19), màu xám pha nâu, dệt bằng lông cổ một loại cừu cái Ấn Độ phải may tới 1.500 đô la.

Ngồi bên chàng là một thiếu nữ trẻ măng đeo hạt soàn óng ánh. Ai cũng tưởng chàng là đệ tử của trụy lạc. Ông Hoàng cũng không ngờ là điệp viên OSS lỗi lạc, được quý hơn vàng, và giỏi võ có một không hai trên hoàn vũ.

Chàng nói tiếng Ý thao thao bất tuyệt, nên ông Hoàng không biết chàng là người nước nào. Tuy nhiên, căn cứ vào cách chọn món ăn, chàng phải là tay thành thạo. Ý là thiên đường của mì, món ăn quốc hồn quốc túy của người Ý là mì, đủ loại mì sào, mì nước, mì trứng fettucine, mì bọc tôm thịt cappelletti ngon hơn hoành thánh hảo hạng, mì cuốn cannelloni, mì khoai bắp gnochi...

Đĩa mì của Văn Bình được nấu theo lối aldente, nghĩa là vừa chín. Chàng ăn đúng mốt La Mã, nghĩa là không dùng tỏi, cà chua và ô-liu như người dân phía nam, hoặc du khách chưa quen. Trên bàn, rượu bày la liệt. Riêng rượu vang trắng màu vàng nhạt Verdicchio đắt tiền, Văn Bình đã uống đến chai thứ 5, và chàng còn ngoắt tay gọi thêm nữa. Chàng ăn như hổ, và uống như hũ chìm, tuy nhiên không hề say sưa.

Đột nhiên, biến cố xảy ra. Một chiếc xe hơi lớn đậu xịch trước cửa, một toán người mặt đầy thẹo, mặc com-lê đen, thắt cà vạt trắng- chắc là đảng viên Mafia (20) - ập vào. Thấy họ, thiếu nữ ngồi bên Văn Bình thét lên.

Họ gồm 6 người. Người nào cũng to lớn như hộ pháp. Hai người xốc nách thiếu nữ kéo ra xe. Bốn người khác vây quanh Văn Bình. Khách ăn đều sợ xanh mặt. Văn Bình vẫn thản nhiên uống rượu, miệng cười một cách khinh bạc.

Trái đấm đầu tiên vèo vào mặt chàng. Họ tấn công chàng bằng quả đấm sắt và dao nhọn. Không thèm đứng dậy, chàng vung tay gạt. Hai khối thịt khổng lồ ngã nhào xuống đất. Số còn lại ùa tới, chàng lại vung tay lần nữa. Trong vòng hai phút, 6 gã hộ pháp bò lê, bò càng trên đất. Văn Bình khệnh khạng đứng dậy, ôm từng đứa, ném ra đường như đứa trẻ chơi bóng. Xong xuôi chàng kéo ghế mời cô bạn gái ngồi xuống, tiếp tục ăn uống, như không có chuyện gì xảy ra.

Vụ xung đột kỳ lạ trong ristorante được các báo đăng lên trang nhất, kèm theo hình Văn Bình, ông Hoàng hỏi Tòa Đại sứ Mỹ thì được biết chàng là con hùm sám đa tình của OSS, và 6 hộ pháp là vệ sĩ của một nhà tỉ phú được lệnh đến bắt cô con gái rượu trốn nhà theo trai, đồng thời cho gã sở khanh một bài học bươu đầu, sứt trán.

Một tuần sau, ông Hoàng gặp viên chỉ huy OSS, xin cho Văn Bình hồi hương. Dường như Văn Bình có tiền duyên với ông Hoàng nên sau câu chuyện tâm tình, và ly rượu khai vị, chàng vui vẻ nhận lời, bất chấp sự phản kháng của OSS. Chàng từ bỏ quốc tịch Thụy Sĩ và theo ông Hoàng về Việt Nam. Trong thời gian đầu tiên, ông Hoàng đưa chàng khắp thế giới, đến đâu cũng để lại hành động kinh thiên động địa.

Thời gian qua... Văn Bình đã bỏ đi… Hơn một lần, chàng đã vào sinh ra tử cứu ông khỏi chết. Hơn một lần, ông đã vào sinh ra tử cứu chàng khỏi chết. Văn Bình là phân nửa đời ông. Ông hiểu chàng hơn ai hết. Cái chết đột ngột của Y-von, Bét-ty và Nancy ở Hồng Kông làm chàng tê dại. Chàng cần đi xa một thời gian để hàn gắn vết thương lòng…

Cặp mắt ươn ướt, ông Hoàng lắc đầu:

- Không biết.

Nguyên Hương lặng thinh. Nàng biết ông tổng giám đốc nói dối. Lát sau, ông Hoàng nói:

- Lẽ rа, công tác này phải giao cho Văn Bình. Văn Bình đi vắng, tôi đành phải nhờ Lê Diệp.

Nguyên Hương kinh ngạc:

- Cử Lê Diệp đi, lấy ai phụ trách an ninh tại tổng hành doanh?

Nàng nói đúng. Về tài ba, Lê Diệp không thua Văn Bình bao nhiêu, song chàng là linh hồn của bộ máy an ninh. Chàng theo ông Hoàng như bóng với hình, khắp nơi trên thế giới. Tại trụ sở, chàng giữ trọng trách bảo vệ tính mạng của ông tổng giám đốc, và các cộng sự viên thân tín. Nhờ Lê Diệp, nhiều âm mưu phá hoại và ám sát của địch bị thất bại.

Ông Hoàng nói:

- Tôi sẽ triệu hồi Triệu Dung về Sài Gòn.

Triệu Dung, bí danh Anh Cả, là lãnh tụ Phong trào Yêu nước ở phía Bắc vĩ tuyến 17, điệp viên cao cấp nhất của Sở được kính phục về đức độ và tài năng, và là bạn thân của Văn Bình trong hàng ngũ OSS.

Nghe nhắc đến Triệu Dung. Nguyên Hương biết ông Hoàng tự dối lòng, hoặc đang e ấp một kế hoạch bí mật. Triệu Dung rất giỏi, song chưa sánh kịp Văn Bình. Mặt khác, chàng không thề rời Bắc Việt, nơi ông Hoàng đã tổ chức được một hệ thống điệp báo đắc lực và to lớn.

Một giọt lệ rưng rưng trên mắt Nguyên Hương. Thoáng thấy, ỏng Hoàng giả vờ quay mặt, bật lửa châm xì gà Ha van. Nàng vội cười lú lấp:

- Thưa, ông nói đúng.

Ông Hoàng lật một hồ sơ trên bàn:

- Cô tiếp xúc được với Thu Thu chưa?

Nàng đáp:

- Thưa rồi.

- Bao giờ cô ấy trình diện?

- Nội đêm nay.

- Thôi được.

Trước khi ra ngoài, Nguyên Hương còn nói:

- Thưa, đã 3 giờ chiều mà ông chưa dùng điểm tâm.

Ly cà phê sữa nguội lạnh còn nguyên trên cái khay nhựa, cạnh mẩu bánh mì khô khan, và rắn như đá. Từ nhiều năm nay, ông Hoàng vẫn sống cuộc đời đạm bạc. Người ta thuật lại là ông không thiết đến ăn uống từ ngày bà Maria bị địch hạ sát tại thủ đô ánh sáng Ba Lê. Sự bỏ đi đột ngột của Văn Bình càng làm ông sao lãng ăn uống.

Lẳng lặng, ông tổng giám đốc ngồi xuống bàn giấy. Chờ cánh cửa điện đóng lại, ông lục ngăn kéo lấy ra một bức ảnh toàn thân, kiểu 18x24.

Người trong ảnh là một nhà sư đầu cạo nhẵn thín, khoác cà sa rộng thùng thình. Nhà sư trạc trên 30 tuổi. Cái miệng mím lại, song người ta vẫn có thể đoán ra hàm răng rất đẹp, và đôi môi đặc biệt này khó thể được tạo hóa nặn ra để đọc kinh sám hối trước tượng Phật. Đôi môi đa tình của người trong hình chỉ có thể dành riêng cho đàn bà.

Đôi mắt lại đa tình một cách lạ lùng. Thoạt nhìn, người ta có cảm giác như trong mắt có chất thép lạnh lẽo, và tàn bạo, nhưng càng nhìn cảng thấy tỏa rộng một hơi ấm dịu dàng và tha thiết.

Nhà sư đang dựa lưng vào cây bồ đề, cành lá xanh um, phóng tầm mắt nhìn ra xa. Ông Hoàng nhún vai:

- Hừ, Z.28 đi tu!

Đoạn, ông cất ảnh vào hồ sơ. Chuông điện thoại trên bàn reo nhè nhẹ.

(1) Hy-đrô, được tìm ra năm 1766 bởi Henry Ca¬vendish (Anh Quốc) chỉ nhẹ bằng 1/14 không khí, 90% sự vật trong vũ trụ là hy-đrô.

(2) R là chữ tắt của Radon, chất đồng vị Em 222 của hơi Emanation, do nhà bác học Đức quốc Frie¬drich Ernest Dorn khám phá ra năm 1900. Hơi R. nặng hơn hy-đrô 111,5 lần. Hơi này còn được gọi là hơi Nilon.

(3) Smerch là cơ quan Phản gián điệp Xô Viết, nằm trong Mật vụ KGB.

(4) Máy khám phá nói dối là Polygraphe hoặc machine à détecter le mensonge, hiện được dùnq trong các sở tình báo, đặc biệt là CIA. Cơ quan tình báo Mỹ ở Việt Nam đang dùng một loại máy nhỏ xách tay ở ngoài mặt trận.

(5) Năm 1954, một cái lông chinchilla trị giá từ 36 đến 175 đô la. Một áo lông kết 150 bộ chinchilla lại phải mua tới 27.000 đô la. Năm 1958, có áo chinchilla ở Hoa Kỳ bán trên 65.000 đô la. Tuy nhiên, cái áo lông đắt nhất thế giới là của bà Evita Peron (Vợ cựu Tổng thống Á Căn Đình) màu xanh da trời, mua tại Ba Lê.

(6) Cotletki pojarski: thịt gà thái nhỏ hoặc sườn bê bò con.

(7) koulebiaka: nem bằng thịt hoặc cá.

(8) Kvass: một loại la ve Nga khá ngon.

(9) Giới gián điệp quốc tế thường gọi ông Tổng Giám đốc С1A là ông Sì-mit. Ônq Sì-mit hiện nay là Richard Helms.

(10) Hoa Kỳ có 4 loại vệ tinh Samos. Loại 1 mang máy ảnh riêng truyền hình xuống mặt đất. Loại 2 chụp ảnh đặc biệt, và rửa ảnh luôn trên không gian. Loại 3 mang cả máy truyền hình lẫn máy ảnh. Loại 4 chở những dụng cụ điện tử “nghe trộm”, có thề nghe được radar, và điện thoại dưới đất.

(11) Vệ tinh Tiros được phóng lên năm 1960 chở theo máy truyền hình chụp mây trong không gian, có nhiệm vụ thăm dò và tiên đoán thời tiết.

(12) DD/P là Deputy Director for Plans, Phó Giám đốc Phụ trách Kế hoạch, tức là giám đốc Đặc vụ của CIA, chuyên các hoạt động tối mật. Trước đây là ông Richard Helms, hiện nay là ông Desmond Filz Gerald. Theo tạp chí Esquire, ông Fitz Gerald là linh hồn của nhiều vụ xảy ra ở Cộng hòa Saint-Domingue và Việt Nam. Chung quanh ông Sì- mit có 4 cộng sự viên cao cấp, trong số đó còn có ông Albert D.Wheelon, bác sĩ vật lý, và ônq Sherman Kent..,

(13) Loại vô tuyến điện thoại này được gọi là scrambler. Tuy là vô tuyến điện thoại, người ngoài không thể nghe được. Hiện nay, tòa Đại sứ Hoa Kỳ liên lạc về Hoa Thịnh Đốn bằng vô luyến điện thoại siêu tần số crambler.

(14) Bộ truyện này được viết trong khi ông Hoàng đóng trụ sở gần trường bay Tân Sơn Nhất. Về thứ tự thời gian, nó xảy ra sau truyện Bí mật Hồng Kông. Sau này, ông Hoàng dời trụ sở về Công ty Điện tử, một buyn đinh tối tân ở đại lộ Nguyễn Huệ, gần bờ sông Sài Gòn.

(15) Câu truyện này được tường thuật đầy đủ trong bộ tiểu thuyết Bí mật Hồng Kông (quyển thượng, và quyển hạ) đã xuất bản.

(16) Ristorante: tiệm ăn ngon, đắt tiền. Tiệm ăn ở Ý chia làm 3 loại: ristorante trattoria (giản dị và rẻ hơn), rostieccia (rẻ tiền), và osteria (quán nhậu bình dân).

(17) Đây là xì gà dài hơn 20 phân, nghĩa là dài nhất thế giới do công ty Partagas Visible Immensas ở La Havane, Cuba, chế tạo. Loại xì-gà PVI được dùng để biếu còn dài gấp đôi. Tuy nhiên, xì gà thật sự dài nhất thế giới, hút đúng 600 giờ mới hết, được triển lãm năm 1936 tại viện bảo tàng xì gà Buende ở Đức Quốc.

(18) Đôi giày của Văn Bình được đóng tại hãng Field and Flint, tại Brockton, tiểu banq Massachusetts Hoa Kỳ, bằng da cá sấu con.

(19) Loại len này còn được gọi là Shahtoosh. Giá bán lại cửa hàng Neiman-Marcus, ở Dallas, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ là 22,50 đô la một mét (Anh) vuông.

(20) Mafia là một hội kín phát xuất từ đảo Sicile, Ý Đại Lợi, có chi nhánh tại Châu Âu và Hoa Kỳ. Dưới thời nhà độc tài Mussolini, Hội bị đàn áp. Sau Đại chiến Thứ hai, Hội bành trướng mạnh mẽ và dính dấp vào nhiều vụ buôn lậu, gián điệp, giết người…


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx