sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Đi Vào Cõi Thơ

cover

Tác giả: Bùi Giáng

Thể loại: Tùy Bút

Tình trạng: Đã hoành thành

Tuệ Sỹ là một vị sư. Ông viết văn nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u …

Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông:

Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy

Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi

Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt.

Tôi đề nghị với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghiệu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết:

Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy

Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi

Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ

Trí Hải đa tàm trúc loạn ty

Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.

Nhưng có ai ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm? Một bài thơ “Không đề” của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ:

Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ.

Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang

Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ

Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn…

Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ.

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở

Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan

Cười với nắng một ngày sao chóng thế

Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng

Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ

Bụi đường dài gót mỏi đi quanh

Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ

Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn.

Tôi hoảng vía đề nghị: Đại sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho. Nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn.

Ông đáp: - Để về hỏi lại cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng.

Đôi mắt ướt tuổi vàng

Cung trời

Hội cũ

Xin viết xuống giòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì? - Cung trời hội cũ. Một hội đạp thanh? Một hội nao nức? - “Giờ nao nức của một thời trẻ dại?”.

Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ…

Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Đầy đủ hết mọi yếu tố bát ngát: một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ xao xuyến, một tuổi vàng long lanh… Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện tại.

Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi điều “phải nói” với mọi người “muốn nghe”, với riêng mình “không thiết chi chuyện nói”.

Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường đó. Họ nói rất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay là chẳng nghe.

Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng có chi giống lối vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả - par manque de justice interne.

Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa một đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô bạo.

Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du: - “Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam, kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng (……..) Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế?”.

Ông vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm trong cõi mộng thần di, hồn dịch!

Vua đã ban cho chan hòa mưa móc, ơn Thánh Đế đã dồi dào với Liệp Hộ như thế, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn cứ như thả mộng chạy lang thang về chân trời hướng khác.

Đáp: Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu.

Đôi mắt ướt tuổi vàng

Cung trời hội cũ.

Đôi mắt ướt? Đôi mắt của ai? Vì sao ướt? Vì lệ trào, hay vì quá long lanh?

Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng niệm cho thơ.

Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ.

Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng?

Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang…

Áo nào màu xanh? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối?

Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng có về Sài Gòn tới chùa viếng ông, đem quà cho ông một đôi giép riêng biệt, một tấm khăn quàng riêng tây.

Đôi mắt ướt tuổi vàng

Cung trời hội cũ

Áo màu xanh

Không xanh mãi

Trên đồi hoang

Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ. Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn.

Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ?

Mình là thân bồ tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ? Dám gác bỏ kệ kinh? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn?

Phải có nhìn thấy gương mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở

Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan

Cười với nắng một ngày sao chóng thế

Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng.

Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa.

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở

Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan

Ta tưởng như nghe ra “cao cách điệu” bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzsche.

Thi nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn? Ngồi trên một đỉnh đá? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải?

Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm tình dừng sững tại giữa tuế nguyệt phiêu du:

Cười với nắng một ngày sao chóng thế

Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng

Một tiếng “buồn chăng” lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tân thanh đoạn trường:

Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân

Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ

Bụi đường dài gót mỏi đi quanh

Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi:

Đếm tóc bạc

Tuổi đời

Chưa

Đủ

Bụi đường dài

Gót

Mỏi

Đi

Quanh

Tiết điệu cũng rời rạc như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ? Một tuổi Xuân chưa vừa? Một tuổi vàng sớm chấm dứt? Một tuổi “đá” sớm giã từ mọi yêu thương?

Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ

Suối nguồn xa

Ngược nước

Xuôi ngàn…

Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đêm lữ thứ khép mình trong bốn bức tường vôi nhạt nhòa ủ rũ ngục tù.

Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ từ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.

*

Trương Cam Vũ

Trương Cam Vũ là người thy sỹ đã dịch Truyện Kiều ra Hán Thi.

Bản dịch đạt tới mức tối đa của tinh thể Hoa Thi. Chúng tôi đã bàn nhiều trong tập Mùa Xuân Trong Thi Ca. Ở đây không tiện nói nhiều.

*

René Crayssac

René Crayssac là thy sỹ Pháp đã đem Truyện Kiều dịch ra thơ Pháp.

Bản dịch huyền diệu ở chỗ: Ông đã đòi hỏi ở Pháp Ngữ một thể điệu nào Pháp Ngữ vốn không có, và đùng một cái, Nguyễn Du trong bản Pháp mang đầy rẫy tinh thể Cựu Hy Lạp Homère.

Sự tình này được đề cập tới trong tập Mùa Xuân Trong Thi Ca. Ở đây không tiện nói nhiều.

*

Huy Cận

Hồn lưu lạc chưa hề thờ một chúa

Yêu một người ta dâng cả tình thương

Câu thơ đó dường như là cái chìa khóa mở đường vào cung thành Lửa Thiêng.

Huy Cận chẳng khi nào trực tiếp nói tới tình yêu một cách quay quắt sôi cuồng như Xuân Diệu, hoặc tràn lan ra như Nguyễn Bính.

Huy Cận kín đáo ngậm ngùi. Và thỉnh thoảng vài lời chân thành thăm thẳm của ông bỗng xô nguồn thơ tình yêu kia vào một cõi thống thiết cổ kim chưa từng có.

Bóng đêm tỏa không lấp niềm thương nhớ

Tình đi mau sầu ở lại lâu dài

Ta đã để hồn tan trong tiếng thở

Kêu gọi người đưa tiễn nỗi tàn phai

Bốn câu đơn giản thiết tha đôn hậu thượng thừa như thế, chính là vùng khí hậu riêng biệt để toàn thể cuốn Đoạn Trường Tân Thanh Nguyễn Du đi về ngưng tụ hết mọi màu hương vang bóng.

Huy Cận là người đồng quận Nguyễn Du - Hà Tĩnh. Sông núi non nước kia đẹp dị thường. Và con người đất nước kia sống lận đận làm ăn cày cấy cũng cực nhọc dị thường. Giữa phong cảnh và con người từ đó liên miên có một cuộc đối thoại thiết tha không lời, về một nỗi bất khả tư nghì. Tình yêu sẽ đưa con người ta tới một cõi xót xa, là căn bản cho một cuộc phát nguyện từ bi, gây dựng nên những thiên tài vô song của Hồng Lĩnh.

Chỉ những thiên tài Hồng Lĩnh mới thành tựu một cuộc Trùng Phục dị thường giữa vũ trụ trời mây phong cảnh.

Phong cảnh trong thơ Huy Cận là một loại phong cảnh đã khiến con người mở những cuộc “Lữ” huyền hoặc của Dịch Kinh. Khổng Tử đã chu du theo một cuộc Lữ dị thường Homère Hy Lạp, mà con người ngày nay không thể nào quan niệm được ra.

Xa nhau mười mấy tỉnh dài

Mơ màng suốt xứ đêm ngày nhớ nhung

Tâm tình một nẻo quê chung

Người về cố quận muôn trùng ta đi.

Nguyễn Du đã làm Liệp Hộ. Huy Cận đã đi muôn trùng. Mặc dù các ông có thể ngồi im lìm giữa một triều đình, các ông vẫn cứ thành tựu cuộc “Lữ” như thường, nơi một triều đình khác, riêng ở một góc trời miêu cương mạc ngoại.

Trông vời trời biển mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đàng ruổi rong.

Dừng cương nghỉ ngựa non cao

Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon

Đi rồi khuất ngựa sau non

Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu.

Tiếng nhỏ thưa tràng đạc đó bàng bạc tịch liêu trong Lửa Thiêng cũng như suốt Đoạn Trường Tân Thanh, là khởi từ một duyên do uyên nguyên thăm thẳm, mà bấy lâu ta không ngờ tới, nên thường ngạc nhiên tự hỏi vì lẽ gì thơ Huy Cận lại đạt tới hai chóp đỉnh huyền diệu nhất ở hai cõi chênh vênh: thơ phong cảnh của ông không ai đi kịp; thơ tình yêu của ông khiến mọi thiên hạ đầu hàng.

Tình yêu và lữ thứ, lữ thứ và không gian, đó là những gì quyết định hết nguồn thơ Lửa Thiêng. Bao nhiêu màu quan san ly biệt bàng bạc trong Truyện Kiều, bỗng nhiên về quy tụ tinh hoa trong một bài “Thuyền Đi” của Huy Cận.

Trăng lên trong lúc đang chiều

Gió về trong lúc ngọn triều mới lên

Thuyền đi sông nước ưu phiền

Buồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơi

Sang đêm thuyền đã xa vời

Người ra cửa biển nghe hơi lạnh lùng

Canh khuya tạnh vắng bên cồn

Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang

Thuyền người đi một tuần trăng

Sầu ta theo nước trường giang lững lờ

Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ

Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau.

Lời thơ đi phiêu phiêu, tuyệt nhiên không thấy dấu vết một chút kỹ thuật nào còn vướng sót. Tưởng như không còn một chút cố gắng tìm lời lựa ý gì hết cả. Nguồn thơ ngập tràn dâng lên nhẹ nhẹ, len lõi thấm nhuần mọi ngôn ngữ ly biệt Nguyễn Du và toàn thể Đông Phương Lữ Thứ, Tây Phương Lang Thang.

Các bạn thử thong dong hình dung lại cái khối Đường Thi Vương Duy, Lý Bạch, Thôi Hiệu, Thôi Hộ, Cao Thích, Sầm Tham, Apollinaire, xem thử có một cái gì lọt ngoài vòng lục bát Huy Cận kia chăng.

Chúng ta quen thói ngóng chạy theo đuôi mọi thứ trào lưu chủ nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào cả để thể hội rằng lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển ba bảy sông hồ.

Cái thói học đòi vá víu thông thái đã âm thầm giết chết mất máu me thân thể chúng ta. Hết chạy theo đuôi ông Camus, tới chạy theo đít bà Simone Weil, rồi xô ùa chạy theo giò cẳng ông Krishnamur-ti. Nghĩ rằng cũng đáng tủi cho cái kiếp con người. Nhục cho cái phận con ngợm.

Đó chính là cái lõi của lai rai thượng thừa, của bê bối tối hậu. Tới bao giờ mới chịu đi về giũ áo đười ươi? Hỡi những thằng trung niên thy sỹ, và hỡi những đứa chẳng thi sỹ trung niên. Cái trò ma quái lóc lăn nọ, kể cũng đáng tởm hơn cuộc dập dìu mà Tú Bà đã bố trí cho Nuồng Thúy xưa kia.

Cái tinh thần nô lệ không tự biết mình nô lệ, cái tinh thần ấy nó thấm nhập tủy xương chúng ta đến độ nào, mà mỗi phen chúng ta kêu gào tự do, đòi hỏi tự tại, gào thét tự tôn - càng mỗi phen cho thấy hiện thị lù lù cái linh hồn đĩ điếm.

Chúng ta thà chui vào một cái hang dế đen ngòm, một cái hang chim đen ngộm, một cái hang chuột đen thui, cam lòng thờ phượng Brigitte, sùng phụng Bardot, chui đầu vào tà xiêm Monroe để nằm ngủ, hơn là phải đi thức tỉnh tự do trong cái bầu khí hậu gớm guốc kia.

Nghĩ cũng kỳ dị thật. Người Việt Nam vốn là người thơ mộng thy sỹ nhất thế giới (Chỉ riêng cái màu da vàng Việt Nam thôi cũng đã thơ mộng hơn mọi màu da đen trắng) thì người Việt Nam lại chẳng bao giờ đọc thơ Việt Nam, lại luôn luôn đem trút hết cõi lòng thơ mồng của mình cho những thứ sách vở thổ lốn tạp pí lù ở đâu đâu. Lại chạy đi si mê những da trắng Marilyn những da đen phi châu chiêm bao bờ cỏ. Làm bao nhiêu thơ mộng lại đem gán hết cho châu chấu chuồn chuồn. Ẩn ngữ gì mà đoạn trường ra như thế. Lâu lâu lại còn ca ngợi tài hoa ông Kút Xếp, tài liệu ông Vương Dương Minh.

Thôi thì thôi cũng chìu lòng

Cũng cho nghỉ nghị trong vòng lai rai.

Huy Cận cũng đã có phen gián tiếp giải oan cho mọi người lưu lạc:

Hỡi Thượng Đế! Tôi cúi đầu trả lại

Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang

Sầu đã chín xin người thôi hãy hái

Nhận tôi đi dù địa ngục thiên đường…

Huy Cận nói cái lời gì bao la như thế? - Nhận tôi đi dù địa ngục thiên đường?

Đáp: Huy Cận đã khai tỏ cái chỗ u ẩn nhất trong ngôn ngữ Jesus Christ.

Và đọc Huy Cận, chư vị Bồ Tát ắt phải gật đầu với Long Thọ Bồ Tát mà rằng:

“Chư Phật vô lượng phương tiện lực, chư pháp vô quyết định hướng; vị độ chúng sinh, hoặc thuyết nhứt thiết thực, hoặc thuyết nhứt thiết bất thực, hoặc thuyết nhứt thiết thực bất thực, hoặc thuyết phi thực phi bất thực…” (Xem Sương Bình Nguyên, trang 490).

Cũng vì lẽ đó, nên lần giở Dịch Kinh, chúng ta đọc lại ngôn ngữ thi ca của Khổng Tử:

“Hữu thiên địa, nhiên hậu vận vật sinh yên, doanh thiên địa chi nhàn giả. Duy vạn vật, cố thụ chi dĩ Truân. Truân giả doanh dã. Truân giả vật chi thủy sinh dã. Vật sinh tất Mông, cố thụ chỉ dĩ Mông. Mông giả Mông dã. Vật chi trĩ dã, vật trĩ bất khả bất dưỡng dã. Cố thụ chi dĩ Nhu. Nhu giả ẩm thực chi đạo dã… Ẩm thực tất hữu Tụng. Cố thụ chi dĩ Tụng. Tụng tất hữu chúng khởi. Cố thụ chi dĩ Sư… vân vân vân vân vân vân…”

Từ cõi Vô Ngôn của Bồ Tát tới cõi Vô Ngôn của Khổng Tử chúng ta trở lại với Kiều, Lửa Thiêng, sẽ nhận ra một chân lý mà không có sách vở học giả ru rú nào có thể chỉ vẽ ra. Phusis sơ nguyên Hy Lạp cũng lại lập lòe hiện thị một cách phong nhiêu dị thường trong hai câu mở đầu bài “Thuyền Đi”:

Trăng lên trong lúc đang chiều

Gió về trong lúc ngọn triều mới lên.

Thuyền đi

Thuyền đi là nước đi, thời gian đi, hay đời người đi? biệt ly, nói tóm lại?

Nhưng tại sao bài thơ “Thuyền đi” của Huy Cận lại xa vắng mênh mông hơn bất cứ một bài thơ ly biệt nào xưa nay? Nó tiềm ẩn những tố chất gì như thế?

Trăng lên trong lúc đang chiều

Gió về trong lúc ngọn triều mới lên

Thuyền đi sông nước ưu phiền

Buồm treo ráng đỏ dong miền viễn khơi

Sang đêm thuyền đã xa vời

Người ra cửa biển nghe hơi lạnh buồn

Canh khuya tạnh vắng bên cồn

Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang

Thuyền người đi một tuần trăng

Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ

Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ

Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau

Bài thơ mười hai câu cả thảy. Mười hai câu lục bát Huy Cận trông giống như một cung thành Đông Á, một chùa chiền Á Đông, một tượng vân thạch, hoặc đồng đen Đông Phương đang nhô lên nhìn sang khối Sơ Nguyên Hy Lạp.

Trăng lên trong lúc đang chiều

Gió về trong lúc ngọn triều mới lên

Một cái gì bỗng dưng về giữa hai câu thơ, một cái gì đồ sộ, bất tuyệt, vô thủy vô chung về trong một lúc? Phải là Thời Gian của Vĩnh Viễn về trì ngự trong Phusis Mở Phơi? Về trong một lúc? Là về trong một Sát Na của Viên Mãn Viên Dung cho âm dương tịch hạp? Cuộc Nảy Nở của Càn Khôn đang phơi mở thịnh triều trì ngự trong tiếng “trăng lên, triều lên”. Tươi thắm của Sơ Khai hiển hiện trong những tiếng “gió về trong lúc, trăng lên, đang chiều…”

Hai câu thơ đong đưa kỳ ảo dìu Thiên Nhiên về giữa lòng vạn vật để thành tựu cái mà người xưa đã thể nghiệm thiên hình vạn trạng qua những tiếng Vĩnh Thể và Tồn Lưu, Thời Gian và Thời Thể. Một cái gì nhiệm màu cũng song trùng về trong những tiếng “là là” nhịp điệu của Nguyễn Du.

Thanh minh trong tiết tháng ba

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh

Trong bài thơ Huy Cận, cuộc Lễ Hội ấy đang hiễn hiện trong cảnh trời là nơi chốn của Phùng Ngộ trong chia ly. Một cuộc hôn phối dị thường mà Khổng Tử xưa kia cũng đã từng thể nghiệm qua cuộc Lữ.

Thiên Nhiên rộng rãi đang lên lời giục giã người lên đường lữ thứ để thành tựu cuộc Trùng Phục Quy Hồi trong mỗi bước chân đi.

Trăng lên trong lúc đang chiều

Gió về trong lúc ngọn triều mới lên

Thuyền đi sông nước ưu phiền

Buồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơi

Ra đi như thế là kết hợp vũ trụ vào trong nhịp lưu ly của tại thể mình. Dìu tồn lưu về để mở phơi ra và đón nhận lấy. Cái ân huệ vô ngần kia đòi hỏi những cuộc ra đi, từ giã cõi miền đóng kín quanh quẩn trong nếp quen thuộc nhân tuần. - “Lữ chi thời nghĩa đại hỹ tai!”.

Cái nghĩa thời của cuộc Lữ to lắm lắm thay!

Nỗi ưu phiền của sông nước kia là một niềm kỳ vọng, một niềm chúc phúc lên đường.

Sang đêm thuyền đã xa rồi

Người ra cửa biển nghe hơi lạnh lùng

Thế thì các cuộc đi kia đã khiến cho sự hiện diện của kẻ đi càng bát ngát thêm trong cơn khiếm diện.

Kẻ đi và toàn thể cái khối gì đang đi?

Và do đó một cõi mênh mông nào đang phát hiện tinh thể? Cõi thái hư tịch mịch? Cõi sầu bi siêu thoát?

Canh khuya tạnh vắng bên cồn

Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang

Thuyền người đi một tuần trăng

Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ

Có cuộc đi trong một tuần trăng thời thể, mới có theo về trong một xứ sở của bỉ ngạn chon von. Thời gian được thời thể hóa. Thời thể được thể nghiệm trong Mnemosyne Ký Ức lưu tồn. Nó giữ lại một cái gì trường lưu hằng cửu mà con người vong thể ngày nay chẳng thể nào thể hội được nữa. Chạy theo đuôi danh từ lí nhí, đem phân chia cắt xén thời gian ra làm khoảnh khắc tủn mủn, rồi chối bỏ lung tung chẳng còn rõ mình đang tham dự vào cái cuộc nhảy múa ma trơi nào thiểu não.

Thuyền người đi một tuần trăng

Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ

Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ

Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau

Cuộc ra đi như thế trở thành cuộc lên đường lữ thứ tìm lại tinh thể mình. - Hãy trở thành… Nhà ngươi là gì, hãy trở thành cái ấy. “Deviens ce que tu es” - Té ra con người phải đi một cuộc mười lăm năm, rồi ra mới nhận chân được tinh thể mình nằm tiềm ẩn trong cung đàn ban sơ bạc mệnh: và từ đó? - phát nguyện đại từ bi?

Đức Khổng còn khổng lồ nói lên sự đó một cách đơn sơ ẩn mật vô ngần:

“Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên, doanh thiên địa chi nhàn giả, vạn vật, duy cố thụ chi dĩ Truân… Truân giả doanh dã. Truân giả vạn vật chi thủy sinh dã. Vật sinh tất Mông, cố thụ chi dĩ Mông…”

Bấy lâu chúng ta quen nghĩ rằng Huy Cận chỉ là nhà thơ có cảm giác bén nhạy và tài hoa riêng biệt trong phép tả cảnh tả tình sầu. Nhưng thật ra Huy Cận là khối óc vĩ đại đạt tới một cõi tư tưởng bát ngát nên tự nhiên như nhiên, lời thơ ông đi vào trong phong cảnh bao la, dội vào đáy thẳm thiên nhiên, và gửi lại cho ta những dư vang bất tận. Khối óc kia cũng là thông tuệ của tâm thể thiên tài.

Chết

Chân quấn quít rồi đến ngày nghỉ bước

Miệng trao lời rồi đến buổi làm thinh

Thân có đôi chờ lúc ngủ một mình

Không bạn lứa cũng không mền ấm nóng

Tai dưới đất để nghe chừng tiếng sống

Ở trên đời - đầu ấy ngửng lên cao

Sẽ nằm im! Ôi đau đớn chừng nào

Thân bay nhảy giam trong mồ nhỏ tí

Một dáng điệu suốt trăm nghìn thế kỷ

Ngày sẽ về gió sẽ mát hoa tươi

Muôn trai tơ đi hái vạn môi cười

Làn nắng ấm vào khua trong lá sắc

Nhưng mắt đóng trong đêm câm dằng dặc

Còn biết gì đất ở trên kia

Bướm bay chi! Tay nhậy đã chia lìa

Tình gọi đó nhưng lòng thôi bắt mộng

Bỏ chung chạ để nằm khô một bóng

Chẳng ai vào an ủi nắm bàn tay

Khổ bao nhiêu cho một kẻ hằng ngày

Tìm thế giới để làm khuây lẻ chiếc.

Huy Cận tặng Thần Chết một bài thơ cảm động. Nói là tặng Thần Chết nhưng cũng là dâng cho Cuộc Sống. Cuộc Sống ôi! Hình dạng của Thần Chết đã ra như thế thì Thánh Sống nghĩ sao?

Ắt nghĩ rằng: nên kiệt tận miên bạc bình sinh để sống cho đậm đà thơ mộng. Vì không làm thế, thì cái sống sẽ giống tợ tợ như cái chết.

Cái chết trông dị dạng quá. Mà hằng ngày vô tình ta sống theo lối chết đó. Tuy không đến nỗi căm căm gớm guốc như thế, nhưng cũng tai hại điêu linh gần bằng. Chúng ta dường như quên mất rằng mỗi người chỉ có một cuộc sống thật xinh, và cuộc sống đó rất có thể bị những thứ tai hại trong hồn ta làm cho méo mó đi. Và meo mốc tử khí bám đầy rẫy cái hình hài cuộc sống.

Tiếc sao! Tiếc sao! Một sự sống quá đơn sơ, chúng ta cứ đời đời quên bẵng.

Xin một lần thử thong dong nhìn lại rõ bộ mặt cái chết, để hỏi lại linh hồn mình nên nhớ lại chuyện chi.

Thì từ đó rất có thể rằng cái chết hãi hùng sẽ là một cơ hội huy hoàng cho cái sống thành tựu được tinh hoa. Ta sẽ nhìn các em, các em sẽ nhìn con chim, con cá. Con cá sẽ nhìn con giế con giun… Mọi mọi sinh vật sẽ mọi mọi nhìn nhau bằng một nhãn quan khác hẳn. Và cõi đời từ đó sẽ đúng là đời cõi của yêu thương.

Đức Phật ôi! Chính Ngài đã có cái dụng tâm giống như chàng Huy Cận. Ngài đã đem những não nùng sinh lão bệnh tử ra nói lên cho kiếp phù du thể hội cái nghĩa não nùng, là phát nguyện bi tâm để dìu tồn sinh về bỉ ngạn…

Cái chết được thể nghiệm sâu xa sẽ trở thành cái khả năng vô thượng của con người mang một cái sống phù du. Đó là lý do (do lý) đã khiến ông Heidegger đem cái chết mà thiết lập căn cơ cho cái sống của Dasein. Và gọi rằng: con người ta là một sinh - thể - cho - tử - diệt.

Tinh thể của con người là: sinh - thể - cho - tử - vong?

Thì tử diệt tử vong chính là Tặng Vật vô ngần cho Sinh Thể. Sinh Thể sẽ ôm cái Tặng Vật vô ngần đó mà đi khắp mặt biển dâu lảo đảo.

Em quốc sắc, em thiên hương, em hoàng hậu, em nữ chúa, em giai nhân da vàng, em mọi nào da trắng, em mọi nào da đen…

Thảy thảy mọi mọi em em cùng chia nhau cái món quà kỳ ảo. Thì can chi các em lại bảo rằng cái da vàng thơ mộng hơn cái da đen? Cái da trắng văn minh hơn cái da đỏ?

Buổi hội trần gian sẽ từ đó mà mất vui. Thế giới mất ân tình. Cõi đời mất đời cõi. Thì lễ hội mất đi cái gọi là. Là gì? Ban sơ xuân xanh ngày đó, ông Nguyễn Du đã bảo rằng:

Thanh minh trong tiết tháng ba

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh

Hội đạp thanh mất đi cái ý nghĩa vô ngần của thanh đạp, một phen thanh đạp trở thành đạp thành, phá lũy, theo thể điệu Caligula. Ấy cũng chỉ vì đăm đăm riêng nghĩ tới hội là đạp thanh, mà bỏ quên cái tình riêng của lễ là tảo mộ…

Ai chết đó? Nhạc sầu chi lắm thế?

Kèn đám ma? Hay ấy tiếng yêu thương

Của cuộc đời…

Tiếng đau thương đó của cuộc đời dội vào cuộc sống, thì cuộc sống đổi hình thay dạng…

Tôi nhớ lại ngày tháng chuyển dịch

Những thay hình đổi dạng mở phơi

Trong ly nước mộng tuyệt vời

Mối sầu dao động nỗi đời giao thoa

(Apollinaire)

Cuộc sống thay đổi hình dạng theo thể thái sầu bi ngậm ngùi đó trong tâm hồn người ta. Cũng có thể nó đổi dạng theo lối tuyệt vô hy vọng, hoặc điên cuồng, hoặc rồ dại. Nhưng cuối cùng, phải nên dìu nó về thể thái thanh thản khiêm tòng… Cạo đầu sạch sẽ đi tu? Đi làm đạo sỹ? Hay tiếp tục làm thy sỹ phiêu bồng? Làm nhà thương mãi đi buôn? Kỹ nghệ gia? Làm gì thì làm, cũng hơn là làm Caligula vậy.

Ngày còn đi học, hai bài thơ “Chết”, “Nhạc sầu” của Huy Cận đã gây chấn động dị thường cho tôi. Tôi bỏ học, chẳng thiết chi sách vở. Chạy về quê làm thằng chăn bò. Bao nhiêu thơ làm ra, tôi âm thầm tặng hết cho chuồn chuồn châu chấu!

Thế cũng là một cách chịu chơi với Thần Chết vậy. Nghe tin Marilyn Monroe lìa đời, tôi buồn bã suốt mấy tháng. Phải chi bình sinh nàng có đọc thơ Huy Cận, ắt nàng chẳng nên giận phận gì mà vội ngang tàn tính mệnh như thế.

Bây giờ tôi xin chậm rãi chép bài “Nhạc Sầu” ra tặng nàng. Mong rằng ở dưới suối vàng nàng hãy bỏ chút thì giờ đọc giải trí cho vui.

Nhạc sầu

Ai chết đó! Nhạc buồn chi lắm thế

Chiều mồ côi đời rét mướt ngoài đường

Phố đìu hiu màu đá cũ lên sương

Sương hay chính bụi phai tàn lả tả

Từng tiếng lệ ấy mộng sầu úa lá

Chim vui đâu? Cây đã gẫy vài cành

Ôi chiều buồn! Sao nắng quá mong manh

Môi tái nhạt nào cười mà héo vậy

Ai chết đó! Trục xoay và bánh đẩy

Xe tang đi về tận thế giới nào

Chiều đông tàn lạnh xuống tự trời cao

Không lửa ấm chắc hồn buồn lắm đó

Thê lương vậy mà ai đành lìa bỏ

Trần gian sao? Đây thành phố đang quen

Nhưng chốc rồi nẻo vắng đã xa miền

Đường sá lạ thôi lạnh lùng biết mấy

Và ngựa ôi đi nhịp đằm chớ nhảy

Kẻo thân đau chưa quên nệm giường đời

Ai đi đưa, xin đưa đến tận nơi

Chớ quay lại nửa đường mà làm tủi

Người đã chết. Một vài ba đầu cuối

Dăm bảy lòng thương tiếc đến bên mồ

Để cho hồn khi sắp xuống hư vô

Còn được thấy trên mặt người ấm áp

Hình dáng cuộc đời từ đây xa tắp

Xe tang đi xin đường chớ ghập ghềnh

Không gian ơi xin hẹp bớt mông mênh

Áo não quá trời buổi chiều vĩnh biệt

Và ngươi nữa tiếng gió buồn thê thiết

Xin lặng giùm cho nhẹ bớt cô đơn

Hàng cờ đen như bóng quạ chập chờn

Báo tin xấu dẫn hồn người đã xế

Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế

Kèn đám ma hay ấy tiếng đau thương

Của cuộc đời? Ai rút tự trong xương

Tiếng nức nở gởi gió dường quạnh quẽ

Sầu chi lắm trời ơi chiều tận thế…

(Huy Cận)

Nhưng cố nhiên, chép xong rồi thì nên xếp giấy lại, ra đường phố dạo một phen rong chơi. Để nhìn lại đậm đà những tà áo phấp phới. Chẳng nên đăm chiêu dằng dặc. Chẳng nên o bế cái chết. Kéo dây dưa cuộc tình duyên với Tử Thần, là điều tối kị. Nó có tính ăn hiếp. Ta lân la chơi đùa với nó, thì nó rút mòn xương tủy ta.

Bây giờ nên ngâm chơi vài vần “Tặng Em Mười Sáu” của Huy Cận:

Tặng em mười sáu

Em mười sáu xuân lang vừa độ tốt

Trời trong sáng sông trôi vui chim lảnh lót

Để tay ngời nối lại với tay anh

Anh thấy mơ hồ huyền diệu mong manh

Một giải lụa quấn qua hồn đây đó

Nỗi vui cũ ngày nay anh lại có

Thêu đời hồng anh nói ít lời hoa

Em ca lừng cho bốn phía sinh ca

Đem dâng tặng mặt trời muôn thuở mới

Hãy đẹp giọng khúc huy hoàng vời vợi

Nhạc tưng bừng tuôn chảy tự hồn vui

Thuyền du dương anh cầm lái em mui

Chèo một nhịp hò khoan cùng vũ trụ

Em mười sáu ấy hoa đời đương nụ

Nở xuân quang anh vừa quá hai mươi

Ta nối tay tròn kết một vòng tươi

Mà vẫn lấy cuộc đời. Em có thấy

Trong máu thắm dòng vui luôn tiếp chảy

Suối hân hoan cuồn cuộn sóng dương hòa

Làm nụ cười cho vạn vật muôn hoa

Em! Nào ta hát bài Thiên Cổ Lạc

(Huy Cận)

Nguồn thơ vui nhất của Việt Nam nằm trong Huy Cận. Mà nguồn thơ buồn nhất Việt Nam cũng là nơi Huy Cận. Sự đó không còn chi đáng nên ngạc nhiên.

Huy Cận đã sống trọn vẹn với linh hồn mình, vì thế ông sống trọn linh hồn nhân gian. Nguồn thơ ông chảy khắp mặt buồn vui của nhân thế.

Từ Nguyễn Du đến chúng ta bây giờ, chỉ có một Huy Cận mà thôi. Một Quang Dũng mà thôi. Một J. Leiba, Kiên Giang, Hồ Dzếnh mà thôi.

Và mọi mọi chúng ta cũng từ đó mà mọi mọi được có một nguồn thơ duy nhất của ta ta mọi mọi mà thôi.

Ta còn bận tâm chi nữa về câu chuyện xếp loại, định nguồn, nhận riêng khuynh hướng?

Huy Cận có làm văn nghệ văn ngừng gì đâu. Thi sĩ chân chính cổ kim có một ai chịu thiết lập trường trại gì đâu. Họ vào cuộc Lễ Hội Trần Gian cũng đơn sơ như con chim về Mùa Xuân ca hót. Đến từ xứ lạ? Xứ quen? Xứ xa xuôi vô ngần thân thuộc? Ngứa cổ hát chơi? Khi gió nắng vào reo um khóm lá? Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời? Chim ngậm suối đậu trên cành bịn rịn? Kêu tự nhiên nào biết bởi sao ca? Tiếng to nhỏ chẳng xui chùm trái chín? Khúc huy hoàng không giúp nở bông hoa?

Họ đơn sơ hồn nhiên như thế. Sao ta lại cầu kỳ buộc họ phải cầu kỳ gay cấn như ta? Họ có đòi hỏi chi đâu? Họ chẳng bao giờ tranh giành địa vị? Chẳng bao giờ chịu làm thần tượng. Chỉ xin vào cuộc Hội Hoa Đăng, ca một lời cho Hoa Đăng xán lạn. Cho mọi người cùng yến tiệc giữa Hoa Đăng…

Khi ta đến các ngươi đà đến cả

Có Thiên Nhiên Suối Chị với Rừng Anh

Cỏ vạn dại đã quen chiều óng ả

Liễu thiên thu từng thuộc lối buông mành

Thơ Huy Cận dịu dàng như thế đốt cháy bỏng máu me ta bởi ông đơn giản ca ngâm. Ông chân thành khiêu vũ. Đừng ai nỡ đem gán bừa cho họ những gì họ chẳng hề có bận tâm. Bao phen chúng ta từng tàn nhẫn một cách quá vô tình. Và vì thế, họ đành quay lưng trốn chạy. Kêu gọi buổi chiều về bên mình để tâm sự cô đơn:

Chiều ơi hãy xuống thăm ta với

Thiên hạ lìa xa đời trống không

Nắng xế ngậm ngùi bên mái cũ

Đìu hiu bên phố nhớ bên lòng

Thiên hạ lìa xa? Thiên hạ vẫn ngồi đó. Vẫn làm thơ tặng nhau. Nhưng cũng bằng gấp mấy quan san trong gang tấc. Vì đã tuyệt dòng chân thành tương ứng. Mỗi người mỗi đánh lạc mất linh hồn tinh thể mình, và mỗi mỗi đầy đọa nhau dằng dặc…

Đã mấy năm rồi thơ nở hoa

Trang vui cũng lúc lệ buồn nhòa

Giòng đời cũng nặng sầu lưu thủy

Tóc nặng sầu tư gió thổi tà

Chiều ơi gặp gỡ đã đòi cơn

Sương lạnh dồn thêm lệ tủi hờn

Một buổi xưa kia phòng vắng bạn

Đó ngày quen biết với cô đơn

Buổi hoàng hôn dị thường nào xưa kia Nguyễn Du đã nhìn và tâm sự? Buổi hoàng hôn nhân loại. Ngày tận thế đó chăng? Không có lẽ như thế. Vì lời thơ thân thiết vẫn như âm thầm báo hiệu một bình minh sắp mọc trong hoang liêu:

Có lúc xa người bởi quá yêu

Than ôi sông núi lại buồn nhiều

Mây xa lạc gió bên trời vắng

Đời bạt lòng ta lại gặp chiều.

*

Nguyễn Du

Nguyễn Du cũng như Camus, lúc nào linh hồn ông nói đúng tiếng nói của hồn ông, thì lời thơ biến ra làm thơ phong cảnh.

Điều nên lưu tâm là: phong cảnh Nguyễn Du tuyệt nhiên không liên can chi tới loại thơ phong cảnh của bọn chuyên môn tả thực.

Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.

(Xem Mùa Thu trong Thi Ca)

*

Hồ Xuân Hương

Lối tả cảnh của Hồ Xuân Hương nhằm vào chỗ: phá vỡ tinh thể của phong cảnh đi, cưỡng bức thiên nhiên, để giúp vạn vật hiện lại nguyên hình trong tinh thể thiên nhiên phusis thiết cốt.

Đối với cảnh là vậy. Đối với người cũng vậy. Bà táo bạo gan liền lỳ lợm như những Sade, Lautréa-mont.

*

Ngoạ Long Sinh

Là một thiên tài thy sỹ thâm cảnh rằng ngôn ngữ Trung Hoa không còn sinh lực nữa để bước một bước khổng lồ thi ca ngôn ngữ Việt Nam, Pháp, Đức, Anh.

Nên ông xô ùa nguồn thơ Trung Hoa vào văn chương vũ hiệp.

Vì lý do đó, nên ban sơ sách vũ hiệp của ông không được hưởng ứng chan hòa như sách của Kim Dung. Nhưng một phen đã kiên nhẫn theo dõi ông một thời gian, ắt sẽ thấy tâm tình cháy bỏng.

Trong sách ông không có những loại tên hề Shakespeare. Nhưng có những ngôn từ “hề ngầm”. Cũng đốt cháy bỏng linh hồn ta như thế.

Sách của ông còn mở ra một khoảng vắng lặng để cho Dịch Kinh tương ứng với Phật Giáo và thành tựu một bước đường tối hậu cho sử lịch Đông Phương.

*

Rimbaud

Mỗi phen muốn nói tới thơ Rimbaud, thì lập thời ta gác bút bình luận, nắm lấy ngọn bút tái tạo thi ca.

Để làm gì như thế?

Để có thể cho hai làn sóng bành bái cùng song song dâng lên, đập vỡ vào nhau cho hiện ra một tinh thể nào khác.

Với Nguyễn Du, Huy Cận, Hồ Dzếnh, Quang Dũng, ta vẫn thường sử dụng phép “cưỡng bức” kia.

Nhưng cái âm thanh riêng biệt thoát từ hai triều sóng tuôn ra, âm thanh đó sẽ ngân lên như thế nào, và dội vào đâu để vọng lại?

Cuối cùng đành phải quay sang cuộc làm thơ vịnh sách vũ hiệp.

*

Paul Eluard

Là thiên tài riêng biệt Tây Phương đích đáng là hóa thân của Đức Khổng.

Khổng Tử đi vào mê cung hiện đại, Khổng Tử biến làm Paul Eluard, René Char, Albert Camus, hoặc André Gide.

Như Lai biến làm Saint John Perse, Walt Whit-man, Dylan Thomas.

Trang Tử biến làm Jean Paul Sartre.

Nguyễn Du bước hụt một bước, ắt có thể biến thành Simone Weil.

*

Mai Vân Thu

Mai Vân Thu rất ít làm thơ. Nhưng mỗi bài thơ của cô mang tính chất riêng biệt - là tính chất không tuổi không tên. Không ai rõ đó là xao xuyến hay vui tươi, buồn rầu hay hoan lạc. Thơ của cô xóa hết mọi biên giới trong bảy mối tình cảm của con người. Độc giả thử đọc một bài sau đây:

Ra Đời

Hoa đắm đuối lìa cành rớt xuống

Mùa xuân xanh thu muộn hai hàng

Song song từ giã lên đàng

Cơn mưa chếnh choáng ngựa vàng ướt lưng

Màu thấm thoát xưa từng đã luống

Hương gây ngô cuồn cuộn quen rồi

Đường trường điểm gạch tô vôi

Non trùng điệp giục ra đời ai đi.

*

Trần Cũ Một

Tôi thích mấy bài thơ đơn giản sau đây của Trần Cũ Một.

Nếp áo

Đã phai nếp áo sông hồ

Chuyện vàng đá cũng nếp xô đi rồi

Âm thanh ray rứt nửa đời

Thoảng dư hương ấy về nơi vong tình

Ngủ yên hằng cửu nín thinh

Càng xa vó ngựa trường đình năm nào.

Buông rơi

Chắc gì cố quận còn nghe

Mưa xuân thấm thoát bờ tre giậu vàng

Hai bàn tay nắm một hàng

Cỏ thơm ký ức muộn màng chim kêu.

Vân hoa

Môi vàng nửa giọt máu hoa

Dấu in hằng cửu đã xa mây vàng

Trang hồng rứt bỏ từng trang

Mùa xuân cố quận nhớ nàng không tên.

*

Vương Quốc Quyên

Vương Quốc Quyên làm thơ nhiều, nhưng chẳng chịu in ra sách. Cô vốn người Đà Nẵng. Chỉ thỉnh thoảng gửi cho tôi vài bài “Ngẫu Hứng”. Cô bảo rằng bài nào cũng ngẫu nhiên làm khoảng năm giờ sáng, làm xong vài bài thì buông bút, lo việc tảo tần, bếp núc…

Chim kêu

Nửa tiếng chim kêu lạc giọng rồi

Đồng hoang chừ cỏ lấp hai nơi

Chữ nghiêng trang giấy đêm về sáng

Gà gáy biên cương tiếng lộn lời

Nửa tiếng chim kêu nào thánh thót

Một đời quang gánh đất chia đôi

Đò giang xuôi ngược đêm trì hoãn

Nam bắc mù sương một mảnh trời.

Mưa nắng

Ngày chan chứa lục hồng thưa rậm

Giữa đêm tăm quỳ bẩm thiên tiên

Tôi nay mất cõi quên miền

Tản cư năm tháng trận phiền dây dưa

Tình phố xá cuộc mua cơn bán

Đứa con thơ khóc khản cổ rồi

Chim bay mất bóng lưng trời

Quỳ xin tiên nữ một lời cuối sương.

*

Tiêu Quỳnh

Cô người Thừa Thiên, nhưng gốc gác vốn là Hà Tĩnh. Chép ra đây vài bài để độc giả thưởng thức chút khí hậu của hai vùng đất thơ mộng nhất Việt Nam.

Tao phùng

Tao phùng bến nước đầu hoa

Xuân đi như mộng trái đà sang thu

Vườn xuân ghi chữ sa mù

Một vùng giếng ngọc giọt từ từ ngân.

Biệt ly

Biệt ly đầy rẫy can trường

Quan san nhuộm bóng vô thường nước mây

Não nùng khăn đỏ choàng vai

Nào xin một lúc nào hai ba hàng.

Đọc sách

Đọc trang khung cửa của người

Xuê xoang ngộ hội còn vui hội hè

Đường tơ bích lục sắt se

Mưa xuân sớm dứt nắng hè vội sang.

Bắc Nam hai ngả lộn đường

Đông Tây trùng ngộ phi thường âm thanh

Dẫu sao nguồn cũ sao đành

Mấy lòng hạ tứ đã thành chiêm bao?

Ngủ gục

Chạnh ngủ gục một phen buồn bã

Sầu khổ ôi em ạ em ôi

Đêm nay tờ mộng rách rồi

Máu me bồi phụng rã rời xãu xương

Đường phía trước còn vương hoa phấn?

Nẻo phía sau từng trận tan hoang

Tâm thành thể lệ hỗn mang

Ngủ vùi tái điệp nghe tràng giang đi.

*

Lục Vân Bình

Bài thơ sau của Lục Vân Bình tình cờ tôi đọc được. Không rõ thi sĩ này ở đâu.

Ngày xế

Ngày xế đi qua xóm nhẹ nhàng

Chuông chùa vọng tiếng gọi đa mang

Ai về kết áo vàng tơ cỏ

Phương trượng từ đàm có hỏi han

Chung nhật thiết tha gào tiếng cuối

Mây trời bỗng loãng mất dư vang

Mai kìa chìm tắt giòng thơ suối

Mạch động âm thầm hết thở than.

*

Xuân Diệu

Dường như thuở bấy giờ ông linh cảm rằng ngày mai chỉ còn đau khổ và tan nát trên mặt đất quê hương, nên trong tiếng thơ thanh xuân của ông, ông đã dốc hết ra một lần tất cả niềm vui và nỗi buồn của thời đại.

Gửi hương cho gió

Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm

Đem gửi hương cho gió phụ phàng

Mất một đời thơm trong kẽ núi

Không người du tử đến nhằm hang

Hoa ngỡ đem hương gửi gió kiều

Là truyền tin thắm gọi tình yêu

Song le hoa đợi càng thêm tủi

Gió mặc hồn hương nhạt với chiều

Tản mác phương ngàn lạc gió câm

Dưới rừng hương đẹp chẳng tri âm

Trên rừng hoa đẹp rơi trên đá

Lặng lẽ hoàng hôn phủ bước thầm

Tình yêu muôn thuở vẫn là hương

Biết mấy lòng thơm mở giữa đường

Đã mất tình yêu trong gió rủi

Không người thấu rõ đến nguồn thương

Thiên hạ vô tình nhận ước mơ

Nhận rồi không hiểu mộng và thơ

Người si muôn kiếp là hoa núi

Uổng nhụy lòng tươi tặng khách hờ.

(Xuân Diệu)

Xuân Diệu có chỗ đặc biệt là: ông nói tới niềm bi đát tồn sinh, ông nói rốt ráo cùng cực, mà vẫn ẩn ẩn một chút mỉm cười mát mẻ. Những hình tượng ông vẽ ra bay múa rộn ràng khiến cho thảm kịch trở thành một ân huệ mưa móc. Nỗi đời gay cấn biến làm màu sắc phiêu du. Đoạn trường trở thành mùi hương rớt hột.

Người thi sĩ vốn tiềm tàng một chứa chất một tư lự hoằng viễn của những linh hồn thượng đạt, nên ngôn ngữ quay cuồng đủ hướng vẫn qui về thể thái phiêu nhiên niêm hoa vi tiếu của Khổng Tử điềm đạm trang nghiêm; niêm hoa vi tiếu của Như Lai heo hút man mác; niêm hoa vi tiếu của Long Thọ Bồ Tát và Heidegger đi bước nghiêm mật trừu tượng trong ngôn ngữ quẩn quẩn quanh quanh thoáng hiện thoáng ẩn: niêm hoa vi tiếu của Huy Cận suốt bình sinh thốt tiếng ngậm ngùi; niêm hoa vi tiếu của Trang Tử “mộ tứ nhi triêu tam, triêu tứ nhi mộ tam”. Niêm hoa vi tiếu của Xuân Diệu “lòng tôi đó một vườn hoa cháy nắng, xin lòng người mở cửa ngó lòng tôi”…

Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm

Đem gửi hương cho gió phũ phàng

Mất một đời thơm trong kẽ núi

Không người du tử đến nhằm hang

Trong kẽ núi? Là nơi chốn của những hang hốc ngổn ngang um tùm cỏ mọc. Hương hoa mất cả một đời thơm trong kẽ núi. Nghĩa là gió phũ phàng không đem hương hoa về đồng nội thôn làng thôn ổ, cho nhân gian tiếp đón. Gió phụ phàng đẩy hương vào trong kẽ núi tối om om, lạnh căm căm, chịu đọa đày trong quạnh hiu tù ngục. Một đời thơm mất đi trong kẽ núi đá đờ đẫn ra như thế, thì kể cũng đà thiểu não lắm thay. Còn khốn đốn hơn tình cảnh Thuý Kiều lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh. Bởi vì lênh đênh là trôi dạt. Trôi dạt thì còn dịp được tấp vào bờ. Hoặc còn mong lưu ly thì được gặp bàn tay tế độ của Thúc, của Từ… Mà cho dẫu không gặp bàn tay nào cả, thì riêng cái việc được lưu ly cũng là thơ mộng. Có chìm, có nổi, có dìu dặt, có nhấp nhô.

Còn như? Còn như cái sự tình mất một đời thơm trong kẽ núi, là cái sự tình ngột ngạt, không khác chi bị vùi chôn trong nấm mồ, chẳng khác chi cái nhà mồ Siêu Hình Học Âu Châu đã chôn vùi sấp ngửa Nerval Hölderlin.

Bị vùi chôn ngột thở, hy vọng có người du tử nào ngẫu nhiên đi nhằm hang trúng hố, mà cứu ra? Nhưng núi non thì trùng trùng điệp điệp, hang hố thì hàng triệu ngổn ngang, nằm ù lỳ trong tịch mịch.

Hy vọng được cứu thoát là hy vọng của tuyệt vô hy vọng.

Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm

Đem gửi hương cho gió phụ phàng

Biết bao hoa đẹp? Hoa đẹp của rừng thẳm rừng thiêng? Loại hoa đó không giống loại hoa của phồn hoa son phấn. Loại hoa đó u nùng như rừng thẳm âm u. Loại hoa đó mọc từ uyên nguyên vũ trụ. Từ giữa lòng tịch hạp của càn khôn.

Nó tin cậy đem ký thác tinh thể nó cho gió. Thấy gió phiêu bồng chịu chơi, nó hân hoan gửi hương cho gió. Thì đùng một cái, vừa gửi đi, thoắt thấy mình chết đắm. Tại sao gió không mang nó đi tỏa ra man mác bốn chân trời chân mây tứ hải. Gió lại chơi khăm đưa nó vào trong kẽ núi bịt bùng. Cái tiếng phụ phàng chọi lại đem gửi. Chọi một cách kịch liệt. Đem gửi? Đem ra mà gửi? Là tin cậy mới đem ra. Gửi đi là kỳ vọng.

Bốn câu tiếp chậm rãi nói ra sự tình trớ trêu cắc cớ:

Hoa ngỡ đem hương gửi gió kiều

Lá truyền tin thắm gọi tình yêu

Song le hoa đợi càng thêm tủi

Gió mặc hồn hương nhạt với chiều…

Mọi tiếng không một tiếng nào không nói ra cớ sự ảo não. Hoa bản chất vốn là phù du. Đợi nhiều như thế thì còn gì tinh thể của hoa:

Gió mặc hồn hương nhạt với chiều

Chiều là hoàng hôn. Hoàng hôn là đêm tối. Đêm tối là dặm khuya ngất tạnh mù khơi. Ngất tạnh mù khơi là câm nín. Không một âm thanh tương ứng vọng lại suốt rừng cao, lũng thấp, cồn bãi lè tè.

Tản mác phương ngàn lạc gió câm

Dưới rừng hương đẹp chẳng tri âm

Trên rừng hoa đẹp rơi trên đá

Lặng lẽ hoàng hôn phủ bước thầm

Gió câm? Gió sao lại câm? Nó câm bởi vì nó điếc. Nó không nghe cái lời. Nếu nó có nghe cái lời thì ắt nó không điếc. Nó không điếc thì ắt nó không câm. Nó không câm ắt nó thốt lời đáp.

Nhưng sự tình trái hẳn. Dưới rừng cũng như trên rừng, hai ngả đều lạnh giá câm nín cả hai.

Dưới rừng hương đẹp chẳng tri âm

Trên rừng hoa đẹp rơi trên đá

Nếu rơi trên đất còn khả dĩ gọi là. Mà nếu rơi được trên giòng khe thì càng may mắn hơn nữa. Nhưng hoa đẹp rơi trên đá? Rơi trên đá thì còn ra cái thể thống gì?

Thì cũng tỷ như cô Marceline rơi rụng cái hồng nhan mình trên cái hình hài anh chàng Michel (L’Immoraliste).

Hoặc cái chú Jan chạm phải cái phũ phàng cứng rắn của cô em gái Martha. Hoặc cái cứng nuồng Caesonia Seiphion vấp phải cái khối Caligula sa mạc.

Sa mạc phát tiết anh hoa ra ngoài một phen thì sự tình đi tới chỗ trầm trọng bất khả vãn hồi.

Jésus Christ phải lên Calvaire, song song với hai tên trộm cướp…

Tình yêu muôn thuở vẫn là hương

Biết mấy lòng thơm mở giữa đường

Đã mất tình yêu trong gió rủi…

Cái trận gió rủi kia đã đem tai họa đến cho gia đình Nguyễn Trãi. Đã xô Nguyễn Du về giữa triều đình Gia Long. Đó là nơi chốn phát tiết tiếng thơ xưa kia:

Kim cổ vô cùng giang mạc mạc.

Và:

Chắc chi thiên hạ đời nay

Mà đem non nước làm rầy chiêm bao

Và:

Người đâu tá? Quê nhà chưa tỏ

Tuổi bao nhiêu? tên họ là chi?

Đã sinh cùng nước cùng thì

Cùng ta không biệt mà ly bao giờ?

Không biệt mà ly có nghĩa là: mất hết mọi tương ứng thông cảm. Xô bồ chém giết nhau đủ lối. Thì như thế cõi đời không còn là cõi sống của con người ta. Lúc Jésus Christ nói với Ponce Pilate: “Vương quốc ta không phải là cõi đời này” thì ý Ngài muốn nói gì như thế?

Nói xong câu đó, thì Ngài im lặng. Ponce Pilate hỏi: “Bọn chúng lên án Ngài lan tràn như thế, Ngài nghĩ sao?” Jésus Christ vẫn im lặng.

Ấy bởi vì câu nói trên của Ngài đã là lời đáp cho mọi câu hỏi rồi. Ngài không phải là con dân của non nước này, thì luật lệ của non nước này sao có thể lên án Ngài. Ngài chỉ ghé lại viếng chơi giây lát, ôn tồn tâm sự phút giây, rồi phiêu nhiên nhi khứ, như đã phiêu nhiên như lai…

Mọi oan nghiệt trần gian thế là được gột rửa sạch sẽ vệ sinh.

Trong trận lặng lẽ kia của Ngài, chẳng còn ai giết ai, chẳng còn ai anh hùng hữu hận…

Ngài đã đóng xong vai trò của thân thể ở trong cuộc hý trường hư vô kim cổ vô cùng giang mạc mạc.

Bài thơ của Xuân Diệu không có nói ra như thế. Lời thơ Nguyễn Trãi cũng không. Nhưng nó đã bao hàm tất cả những gì chuẩn bị cho linh hồn con người ta thể hội sự tình kia, trong cái thể điệu thi ca hiu hiu hắt hắt. Nó nói chuyện hoa rừng mà không phải chuyện hoa rừng. Nó nói chuyện người thơ, mà không hẳn là chuyện người thơ. Nó nói một đường để người ta nghe một ngả. Nó nói chuyện bà la mật để người ta thấy bỉ ngạn là thử biên. Mà thử biên cũng có thể là vô biên vô tế. Vô biên vô tế cũng có thể là hư vô mà cũng có thể là không phải là hư vô. Non nước ta không phải ở cõi đời này nhưng vì sao ta lại về đây và gieo Phúc Âm vào cho non nước? Gieo vào cho non nước, mà vẫn biết trước rằng non nước chẳng nghe ra. Non nước chẳng nghe ra thì công gieo là công uổng. Công uổng là luống công lao. Thế tại sao lại bận lòng gieo rắc? Bận lòng gieo rắc mà lòng dạ vẫn chẳng bận tâm. Chẳng bận tâm sao có sự đoạn trường. Sao có sự vụ đoạn trường tân thanh? Đã có đoạn trường tân thanh sao còn gọi là góp nhặt lời quê mua vui một vài trống canh cũng được? Mua vui chơi một cuộc sao còn thở than “bất tri tam bách dư niên hậu?”.

Nêu câu hỏi lai rai ráo riết như thế rốt cuộc ta chạm phải cái gì? Ấy là lời thơ hắt hiu đồng Bương Cấn:

Bao giờ ta gặp em lần nữa

Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa

Đã hết sắc màu chinh chiến cũ

Còn có bao giờ em nhớ ta?

Triệt ngộ cái lẽ ẩn mật trong nếp gấp thi ca, từ đó về sau chẳng bao giờ ta còn dám trách chúa Jésus mâu thuẫn. Tại sao lúc Ngài bảo là non nước này chẳng phai non nước của Ngài, rồi lúc lâm biệt, ngài lại thở than: “Hỡi Thượng Đế! Vì sao Người bỏ rơi con!”. (Xem Trăng Châu Thổ).

*

Chế Lan Viên

Một tinh thần quân bình sáng suốt, lại cứ nói mãi chuyện điên. Yêu đời vô lượng lại nói toàn là chuyện yêu ma.

Làm sao không than khóc yêu ma một phen đã yêu đời quá nặng, và cõi đời đang bị phá vỡ tràn lan?

Người Chàm đã diệt vong, cũng như người Troyens đã diệt vong, người da đỏ đã diệt vong. Người người kẻ kẻ mọi mọi da da đã diệt vong, và tiếp tục xô ùa nhau vào diệt vong. Thì kẻ yêu đời chỉ còn biết gọi: - Thần chết ạ, lại gần đây đối mặt! Trao bàn tay cho ta nắm bên miền…

*

Nguyễn Trãi

Nghĩ tới Nguyễn Trãi, không còn can đảm đâu viết nên một lời gì cả. Nguyễn Du đã vì Nguyễn Trãi mà dựng một tòa tân thanh lặng lẽ. Thy sỹ đời sau cũng vì Nguyễn Trãi mà tiếp tục làm thơ không lời. Thảm kịch nhà Nguyễn Trãi dựng lên nước mắt mọi người toàn khối bất công oan nghiệt con người phải nai lưng ra gánh vác.

Còn đâu chỗ để nêu ra vấn đề Chiến Tranh hay Hòa Bình?

Chiến tranh cũng thế!

Hòa bình cũng thôi…

Chắc chi dâu biển nỗi đời

Mà đem non nước làm lời non sông…

*

Nguyên Sa

Có lẽ ông Nguyên Sa nhãn giới rộng rãi, nhìn xuôi ngược quá tỏ rõ ngọn ngành dâu biển, nên lời thơ của ông trở thành nửa thực, nửa rỡn, nửa thâm thiết, nửa hững hờ. Và có một sức quyến rũ khác hẳn mọi lối thơ xưa nay.

Cả thơ, cả văn của ông, đều có như là một loại thần dược của thiên nhiên trao gửi cho trần gian bối rối. Kẻ chán đời quá độ, nên đọc thơ ông. Ấy là để nhận chân một mối thong dong tự tại của kẻ thượng đạt, mặc dù kẻ thượng đạt kia trong cuộc sống vẫn có thể lầm lỗi nhiều ít.

*

Đỗ Long Vân

Đỗ Long Vân không làm thơ, nhưng lại là kẻ có tâm hồn thơ sâu đậm thâm thiết rộng rãi hơn bất cứ kẻ thi sĩ nào.

Trường hợp ông cũng như trường hợp Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh… mang tâm hồn thi sĩ dấn mình vào cuộc biên khảo ngậm ngùi.

*

Nhất Hạnh

Nhất Hạnh có nguồn thơ chứa chan. Chúng ta không hiểu vì lẽ gì nguồn thơ đó lại không đủ sức ngăn cản ông, khiến ông hì hục hiện đại hóa Phật Giáo Uyên Nguyên.

Trường hợp Nhất Hạnh là trường hợp một thi sỹ thiên tài bị vướng phải cạm bẫy của triết học Tây Phương.

Nhưng riêng gì Thượng Tọa Nhất Hạnh lâm vào trường hợp bi thiết đó? Còn nhiều kẻ khác. Và ngay cả một thiên tài Nhượng Tống cũng không thoát khỏi ma lực của tinh thần khoa học đời nay.

*

Trần Trọng Kim

Trần Trọng Kim cũng là một thiên tài thi sỹ. Ông dịch thơ Đường không đạt tới cái độ tài hoa của Tản Đà, nhưng trong mạch ngầm lại thâm hậu hơn Tản Đà.

Tản Đà bị tẩu hỏa nhập ma. Trần Trọng Kim lại là người duy nhất trong thế kỷ này, giữ vững được tâm hồn trong niềm tịch nhiên bất động giữa mọi phong ba.

Tản Đà chú giải Truyện Kiều một cách thô thiển lệch lạc quá. Trái lại Trần Trọng Kim có những ghi chú hoằng đại âm thầm.

*

Chu Mạnh Trinh

Bài “Tựa” Truyện Kiều của Chu Mạnh Trinh viết bằng Hán ngữ, quả thật đầy đủ thâm hậu và thừa dư tài hoa để xô Hán ngữ uyên nguyên đi thêm một bước đặc biệt.

Lời cổ kính mà tân kỳ. Bằng một cánh phấp phới, ông bay vút một cơn. Lý Bạch phải sững sờ. Trái lại, “Chinh Phụ Ngâm Khúc” bằng Hán ngữ của Đặng Trần Côn, ắt chẳng khiến một thiên tài Trung Hoa nào chịu sửng sốt.

*

Thanh Tâm Tuyền

Thanh Tâm Tuyền như một vị tướng lãnh gan lì, sử dụng một loại võ công chỉ riêng một mình ông đạt tới quai nhai cảnh giới.

Mọi kẻ về sau học tập võ công ấy đều thất bại.

Công lực thâm hậu, Thanh Tâm Tuyền lại còn trẻ quá, do đó, ông bước đi trên trận địa một cách quá ngang nhiên, chả bao giờ ông bận tâm tới những môn võ công khác của những đối thủ, bất kể chúng là thiên tài hay là chẳng.

*

Thế Phong

Thế Phong hùng hậu ngang tàng, bướng bỉnh, khó tính. Bài thơ đi ào ào, lúc chan hoà tâm sự, lúc cộc lốc phiêu nhiên.

Thơ cảm động vô cùng, mà cũng lắm phen khiến người ta cười bật ra tiếng.

Thơ ông Thế Phong là chỗ kết tụ của một tâm hồn tế nhị khôn hàn và một nỗi gàn bướng không tả. Ông làm giàu cho thi ca hiện đại không phải ít.

*

J. Leiba

Trong J. Leiba có một Từ Hải thời xưa yêu Thúy Kiều, lại có một Đạo sỹ giũ áo tơ tình, đi theo cánh hạc, mà vẫn ngoảnh đầu nhìn mãi phồn hoa thơ mộng ở phía sau.

Đúng là một loại Thanh Tùng Tử chịu chơi:

Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá

Lệ lòng mong cạn chốn am Không

Cửa thiền một đóng, duyên trần dứt

Quên hết người quen chốn bụi hồng

Nói thì có vẻ như dứt khoát lắm. Đắc đạo lắm. Nhưng thử hỏi: - Một loại Từ Hải mà đi tu, thì tu sao trót? Làm sao gột rửa cho xong trong máu me mình, cái hình ảnh em Thúy một phen kia.

Con dẫu trần tâm đã sạch rồi

Lòng từ vương một chút thương ai

Một câu thơ như thế quả là thừa sức xô ùa hết thảy mọi thi ca kim cổ đông tây đi mất hết.

Con dẫu trần tâm đã sạch rồi

Lòng từ vương một chút thương ai

Thương ai? Thương bằng lòng từ? Vương một chút?

Một chút kia mang toàn khối tình và tự và đạo và tôi và giáo và lý và phù sinh hư ảo trên trang hải phiêu bồng.

J. Leiba ắt đã có diễm phúc gặp một người yêu dịu dàng. Người yêu có lẽ mệnh bạc? Nhưng vì thuở nàng còn tồn tại bình sinh, chàng vì cớ gì đã đi xa nàng như thế? - Quyết lòng dứt áo ra đi? Thanh gươm yên ngựa lên đường ruổi rong?

Chúng ta chẳng rõ gì hết về J. Leiba. Ông chỉ gửi lại trong thơ mấy lời chân thành bi thiết nhất của một can tràng hy hữu như một niềm bí mật ngàn xưa…

Đã thế thì tôi đi cứ đi

Ta cùng hồng kiếp có vương gì

Một cười trả lại người thiên hạ

Cả tấm thân này lẫn mộng kia

… Đâu đấy mồ thu tiếng dế than

Lòng ta xao xuyến ngựa lên đàng

Hồ ly mấy bóng lan bờ cỏ

Đêm tối tìm về ngủ mả hoang.

*

Bùi Như Sơn

Ông không làm thơ nhiều, vì tính ông ham chơi chẳng thiết chi chuyện thơ thẩn.

Thỉnh thoảng ông gieo vài vần ghẹo ông Nguyễn Du. Đọc phải bật cười ra tiếng.

Gọi là gặp gỡ giữa đường

Họa là người dưới suối vàng quên nhau

Trở về chân lệch gót sau

Trâm đầu lọt giữa tư trào hoang mang

Gia đình ông xưa kia bị thảm họa vì kháng chiến. Mấy mươi người chỉ còn sống sót dăm ba. Thuở bấy giờ ông chỉ là một thằng bé mười một tuổi đầu. Từ đó, đối với ông đoạn trường nhân gian là chuyện cố kỳ nhiên. Chả phải nhọc lòng nghĩ tới nữa.

Một trái bom rơi trúng miệng hầm

Đã đành sự thể lạnh căm căm

Một mình ra đứng đầu khe núi

Quên mất thân mình một với trăm

Bài thơ nào của ông cũng chỉ có bốn câu. Cưới vợ, ông cũng chỉ tặng vợ có bốn câu. Hỏng thi, ông cũng chỉ có bốn câu vịnh cuộc:

Lăn lóc trường thi một trận rồi

Rụng rơi từ một tới hai nơi

Ra người thiên hạ cười chi thế

Tớ chẳng vui lòng cuộc chịu chơi

Nhớ lại thuở nhỏ đi câu cá ở bờ khe, ông viết:

Cá đi nguồn suối xa rồi

Buông câu tuổi dại mộng ngồi phồn hoa

Tình đi như gió giang hà

Nằm nghe giấc ngủ chan hòa tử sinh

Ông trao tôi một xấp giấy gồm hai chục bài. Mỗi bài bốn câu. Ông bảo:

“Các hạ chậm chậm mà đọc. Tháng sau ta sẽ trao thêm cho nhà ngươi một bài bốn câu nữa cho đủ bộ”.

*

Phạm Quang Bình

Phạm Quang Bình mười sáu tuổi. Nhưng vẻ mặt trông như đứa bé mới lên năm. Phạm Quang Bình là em ruột Phạm Đình Liên, một nhân vật phong nhã tài hoa đủ điệu, nhưng lại chẳng hề làm thơ, chỉ vùi đầu đọc truyện vũ hiệp quanh năm.

Phạm Quang Bình trái lại. Có năng khiếu đặc biệt phi thường toán học mà lại thích làm thơ.

Mẹ cha vất vả quanh năm

Con làm thơ mộng như tằm ăn dâu

Mai sau con sẽ bạc đầu

Mẹ cha đừng có đau sầu vì con

Đúng là một hồn thơ thanh bạch phỉ phong.

Học hành chữ nghĩa bao dong

Thương thầy nhớ bạn còn mong yêu người

Người đi lặng bóng chân trời

Quê hương phố hội còn nơi tâm tình

Đêm nay bài vở rập rình

Mùi hương phảng phất tiền trình cuối năm

Tôi chắc học sinh nào cũng phải vừa lòng với tâm sự đó của bạn thiếu niên. Nghĩ cũng lạ. Thơ vốn hồn nhiên như thế mà sao người ta cứ chạy tìm thơ ở đâu đâu.

Phố chiều tà áo thướt tha

Chân đi đếm nhịp tuổi già hơn tên

Mẹ cha chờ đợi xui nên

Cơn chiều chuộng bỗng về bên mơ màng.

Tuổi trẻ vốn làm thơ tươi sáng như thế nếu không bị những gò bó chương trình cản lối.

Tựu trường mở lớp học ra

Chị em ghé hội hè hoa thanh bình

Tháng năm đoản lộ trường đình

Dĩ nhiên mộng tưởng còn trình diện kia

Chợ chiều vang bóng về khuya

Sầu dâng lãng đãng về chia tâm hồn

Lan hương hai chị hao mòn

Nửa lo học tập nửa còn lo thi

Chúng tôi mong ngày sau sẽ còn được đọc những bài thơ như thế của đầu xanh.

*

Nhượng Tống

Bản dịch “Tây Sương Ký” của Nhượng Tống thật là phi phàm.

Xin trích ra đây vài đoạn hiu hắt:

Non xanh chẳng nể nang nhau

Rừng xanh thôi cũng ra mầu khẩy trêu

Mịt mùng sương bạc khói chiều

Người đi ta biết trông theo lối nào

Lên xe mà dạ xôn xao

Về sao chậm chạp đi sao vội vàng

Tà tà bóng ác xuyên ngang

Nào nghe người nói trên đường cái quan

Mông mênh đồng lúa xanh rờn

Còn nghe ngựa thét trên làn gió thu

Phong cảnh cùng tâm hồn người Trung Hoa ngày xưa hiện ra như thế. Chẳng rõ có còn làm nao nao những cô gái Ba Tàu Chợ Lớn ngày nay chăng?

Trông nhau nào thấy nhau đâu

Non xanh bốn mặt đẫm màu tà dương

Ngủ đâu đêm vắng dặm trường

Chiêm bao hồ dễ biết đường tìm nhau

Nào khi gắn bó hôm xưa

Đêm qua cách mặt bây giờ chia tay

Mùi tương tư nếm đã bao ngày

Ai hay ly biệt lại cay gấp mười

Cuốn Mái Tây còn tràn lan những hàng châu ngọc không thể nào đếm xiết… Nhưng cố nhiên không thể nào tham lam bóc lột đem kê khai ra đây. Hãy để yên cho các cô gái Chợ Lớn tự tìm lấy mà mà đeo vào khắp mình mẫy hình hài của các cô.

Bản dịch “Nam Hoa Kinh” của Nhượng Tống cũng tuyệt diệu. Vài nhầm lẫn nho nhỏ, không đáng kể bao nhiêu.

*

Dương Minh Loan

Và mùa thu lại trở về rồi đó

(“Hồng Cúc”)

Bài thơ này tôi tình cờ đọc được trên báo. Tưởng như một kỳ ngộ. Tôi đã quá quen với những vẻ đẹp tiền chiến, hậu chiến, siêu thực, tự do. Tôi muốn gặp một vẻ đẹp khác, thật sự phiêu nhiên tự do phóng nhiệm mơ hồ. Thì bài thơ này của ông Dương Minh Loan quả là đáp ứng.

Và mùa thu đã trở về rồi đó

Trên núi cao có từng đám sa mù

Đùng một cái, Dương Minh Loan đẩy chúng ta đối diện với một sự trạng quen thuộc mà bất ngờ của mùa thu. Xa hẳn thu Huy Cận, thu Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính. Xa hẳn mọi kỹ thuật nề nếp phỉ phong.

Trên núi cao có từng đám sa mù

Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có

Đúng là tuyệt diệu thật.

Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có

Làm sao có được? Một phen trên núi có từng đám sa mù hồn nhiên như thế? Tôi hờ hững trước cái “có” hờ hững tuyệt diệu kia.

Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có

Chưa có? Nghĩa là rồi sẽ có cho sau. Có lúc nào? Lúc được cái gì xác định? Ấy là cái một lần mộng du.

Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có

Cánh hoa nào đang đợi lần mộng du

Chờ tới lúc lần mộng du được thành tựu viên dung cho một cành hoa nào kia viên mãn, thì khi đó, sẽ có cũng không muộn gì.

Và mùa thu lại trở về rồi đó

Trên núi cao có từng đám sa mù

Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có

Cánh hoa nào đang đợi lần mộng du

Nếu như tôi không hờ hững, nếu như tôi có o bế o bồng một hoài vọng gì được xác định rõ trong một cuộc tạm biệt, nếu tôi có mang tên Thúc Sinh, Thúy Kiều chẳng hạn, thì ắt màu quan san sẽ làm lệch mất cái tố chất nguyên thủy sơ khai của thu đi, và làm cho cuộc mộng du sẽ loay hoay thắc mắc như một vầng trăng ai xẻ làm đôi, làm ba, làm bốn, vân vân.

Tại đây, trái lại, mọi sự còn trinh nguyên - mà trinh nguyên theo nghĩa của hồi sinh tái tạo. Tái tạo theo nghĩa tự tái tạo bản thân thể mình, cho kịp với cái đà thơ ngây tuần hoàn biến hóa của vạn vật tư lự mùa thu. Tư lự một cách rất mực thi ca sáng lập, chứ không tư lự theo lối cằn cỗi suy tư gớm guốc quỷ nhà ma. Đó là điều bốn câu tiếp muốn nói một cách đơn giản ra:

Từng dấu chân in hình lên rêu đá

Từng suy tư làm đen nghĩa tương lai

Có lại đây xem nỗi buồn man trá

Hình ảnh này máu đỏ vẫn chưa phai

Có những nỗi buồn man trá, cũng có những lối suy tư kềnh càng lố bịch, vì bao giờ cũng thấy mình trang nghiêm và do đó mà dày xéo mọi thứ hồn nhiên máu đỏ.

Nhưng lời thơ nói lên sự đó một cách thong dong bát ngát hơn nhiều.

Kỷ niệm ấy trôi theo cơn nước lũ

Tôi bâng khuâng nhìn ngày tháng khô dần

Khóc thương mình hồn đau như có nụ

Rồi trở về cô độc giữa thanh xuân

Hồn đau như có nụ? Nụ ấy sẽ nở ra hoa gì? Sẽ phủ hết một vườn thanh xuân? Khóc thương mình hồn đau như có nụ? Chắc là nụ đoạn trường chẳng lẽ? Ông Nguyễn Du bảo đích thị nụ hoa đoạn trường. Ông Dương Minh Loan lại mỉm cười lắc đầu, không chịu xác định. Ông nói nửa vời, mà ráo riết. Ông lửng lơ mà đi tới cùng. Ông nói sự cô độc mà nghe như thong dong đi du xuân ngó bướm.

Khóc thương mình hồn đau như có nụ

Rồi trở về cô độc giữa thanh xuân

Cái giọng nói riêng biệt đó là cốt cách của những kẻ có trăm năm đạo hạnh đầy đủ để đốn ngộ thượng thừa. Mối buồn biến chất, tình yêu biến dạng thăng hoa:

Với vòng tay người lần theo ngày tháng

Người xóa nhòa dòng lệ ướt trên mi

Tôi nằm xuống nhìn tình tôi biến dạng

Đem loài chim buồn vỗ cánh bay đi

Loài chim buồn bay đi một cách cũng thong dong thơ mộng. Lúc tôi nằm xuống nhìn tôi biến dạng. Nằm xuống? Nghĩa là không lao xao nữa. Tôi nằm xuống là vào cõi tịch nhiên bất động. Là đáo bỉ ngạn như lai.

*

Apollinaire

Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo

Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi

L’Adieu

J’ai cueilli ce brin de bruyère

L’automme est morte souviens-t’en

Nous ne nous verrons plus sur terre

Odeur du temps brin de bruyère

Et souviens-toi que je t’attends.

Và nhớ nhé! Ta đợi chờ em đó,

Bài thơ chỉ vẽn vẹn chỉ có năm câu. Năm câu phiêu hốt mang thiên nhiên nằm giữa nền thi ca Tây Phương Hiện Đại - năm câu cũng đồ sộ như toàn khối Đường Thi Trung Hoa hay mấy vần tứ tuyệt của một Thôi Hộ.

Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo

Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi

Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa

Mộng trùng lai không có ở trên đời

Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi

Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó…

Dịch ra làm sáu câu, tôi có phần áy náy. Nhưng không biết phải làm sao. Cái chất đạm nhiên bát ngát trong bài thơ Apollinaire đang trừ khử hết mọi lối dịch diễn dịch di, dịch tinh, dịch thể.

Cứ thử liều một trận xem sao.

Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo

Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi

Chúng ta sẽ chẳng nhìn nhau trên đất nữa

Hương thời gian nhành thạch thảo tí hon

Và nhớ nhé ta đợi chờ em nhé…

Cũng tạm gọi là được.

Nếu ta đem bài thơ bát ngát kia đặt vào giữa nguồn thơ mênh mông của Apollinaire ắt ta dám dịch nó ra làm lục bát Huy Cận, lục bát Nguyễn Du hoặc làm thất ngôn Du Nguyễn.

Đã hái nhành kia một buổi nào

Ngậm ngùi thạch thảo chết từ bao

Thu còn sống sót đâu chăng nữa

Người sẽ xa nhau suốt điệu chào

Em nhớ anh quên và em cũng

Quên rồi khoảnh khắc rộng xuân xanh

Thời gian đất nhạt mờ năm tháng

Tuế nguyệt ta đà nhị hoán tam.

Dịch như thế là diễn giải một mùi hương ẩn tàng trong nếp gấp. Nhưng đâu có cần gì.

Nếu như cần, thì tớ cứ buông bừa bút mực viết bừa thơ.

Mùa thu chết liễu nhớ chăng em?

Đã chết xuân xanh suốt bóng thềm

Đất lạnh quy hồi thôi hết dịp

Chờ nhau trong Vĩnh Viễn Nguôi Quên

Thấp thoáng thiều quang mỏng mảnh dường

Nhành hoang thạch thảo ngậm ngùi vương

Chờ nhau chín kiếp tam sinh tại

Thạch thượng khê đầu nguyệt điểu mang

Xa nhau trùng điệp quan san

Một lần ly biệt nhuộm vàng cỏ cây

Mùi hương tuế nguyệt bên ngày

Phù du như mộng liễu dài như mơ

Nét my sầu tỏa hai bờ

Ai về cố quận ai ngờ ai đi

Tôi hồi tưởng lại thanh kỳ

Tuổi thơ giọt nước lương thì ngủ yên.

Dịch ra như vậy thì tiếp giáp với bài thơ “Je me souvienns”:

Je me souviens de mon enfance

Eau qui dormait dans un verre

Avant les tempêtes l’espérance

Je me souviens de mon enfance

Tôi hồi tưởng tuổi thơ ngày trước

Đáy ly nào giọt nước ngủ yên

Trước khi giông bão muộn phiền

Giậy cơn hy vọng cuối miền thơ ngây.

Je songe aux métamorphoses Qui s’épanouissent dans un verre Comme l’espoir et la tristesse Je songe aux métamorphoses C’est ma destinée que je lis Dans les reflets incertains Les jeux sont faits rien ne va plus C’est ma destinée que je lis

Tôi nghĩ tới tháng ngày chuyển dịch

Những thay hình đổi dạng mở phơi

Trong ly nước mộng tuyệt vời

Với sầu dao động nỗi đời giao thoa

Linh hồn định mệnh âm ba

Bóng vang khép mở đầu hoa mơ hồ

Hỡi ôi dâu biển xô bồ

Hồn trong định mện bây giờ đọc ra.

(Sương Bình Nguyên)

*

Quang Dũng

Mai chị về em gửi gì không

Mai chị về nhớ má em hồng

Chỉ hai câu đầu đã khiến người tê lạnh. Không có gì cả, không lời nào tha thiết, nhưng đúng như ông Huy Trân nói: “Thơ Quang Dũng ý đã nhiệt thành, cao đẹp, mà lời thơ lại êm ái gợi cảm vô cùng. Nói về thơ nhẹ nhàng, êm dịu, mà đọc tới đâu lâng lâng chết cả lòng đến đấy, thì thi ca hiện đại chỉ có Quang Dũng”.

Thi ca hiện đại hay thi ca ngàn đời, thi ca Việt Nam hay thi ca thế giới - vâng - cũng chỉ riêng một Quang Dũng thôi.

Mai chị về em gửi gì không

Mai chị về nhớ má em hồng

Đường đi không gió lòng sao lạnh

Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong

Đó là chỗ sơn cùng thủy tận của ngôn ngữ. Ngôn ngữ thần tiên hiển hiện tinh thể một cách không thấy hình hài máu me đâu cả. Người ta đã bao đời đi tìm cõi huyền nhiệm của ngôn ngữ thơ. Mỗi phen trở về, mỗi phen như bó tay lắc đầu, tuyệt nhiên không biết ăn nói ra sao cả. Đành chỉ nói quanh co.

Và biết bao thy sỹ hoằng viễn đã nghĩ rằng, nguyệt rằng, mình sẽ suốt đời không làm một vần thơ nào cả - một phen để hội cái chỗ dị thường trống trải vắng vẻ trong lời man mác thiên tiên kia.

Lại có những nhà tư tưởng như Heidegger, viết bao pho sách lịch kịch nêu bao câu chất vấn u ẩn, đáo cùng vẫn chỉ nhằm mục đích nhiếp dẫn tư tưởng tới chỗ mép bờ bất khả tư nghị của thi ca.

Nerval sau những lần thành tựu cõi miền ngôn ngữ đó, ông bèn lao mình vào cõi ẩn mật vô ngần của một nguồn siêu thực không tiếng không lời Les Chimères.

Apollineire, sau phút dị thường bước lên tột đỉnh đạm nhiên kia, lập thời nhảy lùi làm thơ theo thể thái bông lông tầm phào, bất sá lam hồng tố bạch.

Mai chị về em gửi gì không?

Câu hỏi cũng lửng lờ như lời đáp cũng lửng lơ. Hỏi mà cũng không hỏi, không nói, không ngó, không nhìn nhau…

Và chỉ sau khi lên ngựa, chia bào, con người mới để lòng mình bay tỏa khắp đường đi.

Đường đi không gió lòng sao lạnh

Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong

Tâm sự của người đi, nhưng nhan đề là kẻ ở. Kẻ ở hay người đi cũng một tâm tình ly biệt. Đi giữa không gian, thì cũng như đứng ở trên dâu biển. Lòng sao lạnh? Vì lòng mang chứa tất cả khoảng vắng lạnh? Vì lòng mang chứa tất cả khoảng vắng lạnh không gian… Và tiếng “mong nhớ mong” kia cũng chỉ vọng vào được trong không gian xa hút mà thôi.

Nghĩa là vọng trở lại vào lòng mình. Từ lòng mình toả vào lòng vũ trụ. Lại từ lòng vũ trụ dội lại lòng mình. Đó là cái vòng kỳ ảo của mong nhớ mong. Và mong nhớ mong mênh mông như thế, thì mong nhớ mong là cõi của từ bi tế độ vậy.

Bởi vì nó mang hải lượng bao hàm. Nó bao dong rừng biển, sớm chiều, canh gà, sương hoa, cành hoang ngựa lạc. Nó đem thương mến phủ khắp hình hài vạn vật từ gần gũi tới xa tít dặm xa.

Quê chị về xa tít dặm xa

Vì đó là một quê hương nào riêng biệt nằm tại một bến bờ bỉ ngạn nào vô tức vô thanh, vô biên vô tế.

Quê chị về xa tít dặm xa

Rừng thu chiều xao xác canh gà

Hoa rơi khắp lối sương muôn ngả

Ngựa lạc cành hoang qua lướt qua

Ngựa lạc? Dẫu ngựa không lạc đường vẫn cứ là lạc nẻo. Nghĩa là: ở trong cõi hư không bao la như thế, thì đâu cũng là lênh đênh, nhưng lênh đênh theo nghĩa vô ngần: trụ vô sở trụ.

Người ngồi trên ngựa cũng lạc ngựa luôn. Hươu trong rừng cùng một cảnh ngộ lạc loài như nhau, lại tam trùng lạc lõng nhau, vì bất ngờ sợ hãi nhau, quay đầu bỏ chạy. Lời thơ lại thêm một chút niêm hoa vi tiếu “theo ngó theo”.

Ngựa chị dừng bên thác trong veo

Nếu thác đục lầy cho một chút, ắt có phần gần gũi bụi hồng hơn. Nhưng tại sao thác lại trong veo cắc cớ ra như thế? Thì trần gian còn biết đem tâm sự hồng trần ký thác vào đâu? Đó là chỗ đạm nhiên huyền bí lô hỏa thuần thanh vậy. Nó đốt cháy linh hồn bằng một tiếng trong veo. Nhưng đốt cháy mà đâu có bỏng da bỏng thịt. Nó cháy để thăng hoa cho linh hồn về ba la mật, sau một phút linh hồn tạm dừng trong một phen tư lự. Vì dù sao trận giũ áo cũng còn vướng víu với nhân nghĩa nhân tình.

Ngựa chị dừng bên thác trong veo

Lòng chị buồn khi nắng qua đèo

Nơi đây lá giạt vương chân ngựa

Hưu chạy quay đầu theo ngó theo

Rồi xẽ xin khóc một cơn vô ngần cho trùng sinh trong vĩnh biệt:

Rừng đêm nhòa bóng nhớ hoang mang

Ngựa chị dừng bên thác sao vàng

Sao rơi đáy nước vương chưn ngựa

Buồn dâng đôi mi hàng lại hàng

Ta lại gián tiếp với một sự tình kỳ dị. Nói ra là buồn dưng đôi mi hàng lại hàng, nhưng có bao giờ mối sâu mênh mông và hầu như vô đối tượng lại tràn ra thành hàng lệ. Nhưng đây là hàng lệ riêng biệt của hư không đi về vui chơi êm đềm với không hư thái thiên nhiên tĩnh tịch. Người ta có thể khóc, nhưng không phải khóc vì một mối đoạn trường riêng tây trong một cảnh ngộ nhất định.

Hoặc đâu có phải bạ đâu khóc đó như bọn thy sỹ trung niên. Người ta khóc từ chín kiếp khóc về; như trận mưa vốn từ thiên thu rớt hột. Vì thế nên gọi là hàng lại hàng. Vì thế nên có chuyện sao rơi đáy nước. Vì thế nên có chuyện sao vương chưn ngựa. Chưn ngựa ở đây cũng mang đủ trùng quan thời gian vũ trụ nên mới có thể chạm vào bóng sao rơi từ thời gian tinh thể rớt về. Người và ngựa và sao và nước bỗng nhiên như nhiên đã đi vào cõi chung vạn vật nhất thể. Thì từ đó trở lại với đoạn đầu, từ câu hỏi mông lung tới lời đáp nhẹ nhõm, niềm mong nhớ mong là một tặng vật không lời, không nhất định là riêng biệt của riêng ai trao gửi lại cho ai. Người chị và người em kia cũng không có tên tuổi nào được hạn định nơi đâu. Đó là hai đứa con của trời và đất đẻ ra trong một mùa xuân hôn phối. Thì mai chị về em gửi gì không, là gửi cho chị hay cho ai? làm sao ta dám quyết định? Chỉ biết rằng: chị hãy nhớ má em hồng. Nghĩa là: mùa xuân xanh còn tồn lưu mãi mãi trong mùa thu ly biệt. Đó là tặng vật của em trời trao chị đất - nhớ má em hồng là ký ức kỳ ảo Mnémesyne.

Chẳng hiểu sao đọc thơ Quang Dũng, Nguyễn Du, Hồ Dzếnh, Huy Cận, tôi thường nghĩ tới người Chiêm Thành. Tội lỗi ông cha chúng ta đối với dân tộc ấy kể cũng được chuộc phần nào, cũng như ngày xưa Homère đã giải oan cho người Troyens bị đắm chìm bởi người Hy Lạp.

Mấy bài thơ của Quang Dũng như giữ lại cho mọi người một niềm tương ứng mênh mông trong thời đại ngỗn ngang oan nghiệt, thế giới cùng xô ùa nhau vào hủy diệt, tàn phá, trong những trận tẩu hỏa nhập ma. Chiến tranh trong thời Quang Dũng dù sao cũng còn để lại cho người một dư địa để hoài niệm nhớ thương nhau. Nhưng dần dà, chút tình thương còn sót cũng mất đi giữa hỗn độn. Lúc bấy giờ e chỉ còn cửa quỷ đối thoại với nhà ma. Quang Dũng cũng linh cảm sự đó, nên bài “Đôi Mắt Người Sơn Tây” khép lại với mấy tiếng “bao giờ, bao giờ” ngậm ngùi khôn tả:

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn?

Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng

Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc

Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng

Bao giờ ta gặp em lần nữa

Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa

Đã hết sắc màu chinh chiến cũ

Còn có bao giờ em nhớ ta

Khoảng trống lại trở về ngập khắp mép bờ ngôn ngữ. Như muốn đánh chìm hết mọi lời thân thiết đã thốt ra. Chúng ta không còn biết phải giải thích thơ Quang Dũng ra sao được nữa cả.

Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa

Nhưng có lẽ ông không tin ở ngày ấy, ông không nghĩ rằng ngày nở hoa ấy sẽ về. Còn có bao giờ em nhớ ta? Nghĩa là không còn có bao giờ nữa cả? Chúng ta sẽ tiếp tục chết hết. Người ta sẽ tiếp tục giết nhau cho tới buổi chung cục thời gian. Cuộc chiến tranh ngày nay không còn chút gì giống như chiến tranh những thời đại trước. Có những cuộc chiến tranh huy hoàng như một trận mưa rào rực rỡ, làm hồi sinh con người trong tâm thức từ bi. Nhưng có những cuộc chiến tranh vốn từ trong tinh thể là làm tan rã tiêu diệt mất bản tính con người. Ngay cả con ngợm, con đười ươi cũng không còn sống sót một mống nào hết cả. Thì như thế? Còn có bao giờ em nhớ ta?

Người ta nhầm lẫn một cách kỳ quặc cái ý nghĩa sơ thủy của chiến tranh. Cuộc chiến tranh bao dong của những ông Nguyễn Huệ, chiến tranh bác ái của những ông Napoléon, chiến tranh đó không còn tự nhận diện ra mình nữa trong cuộc chiến tranh tàn phá ngày nay. Tolstoi ngày xưa chẳng hiểu gì về Napoléon hết cả, cũng như chúng ta ngày nay chẳng hiều gì cả về cuộc chiến tranh của chúng ta. Thật là cắc cớ. Còn có một chân lý dị thường ẩn tàng trong Dịch Kinh của Khổng Tử đang khiến mọi người tư tưởng ngậm ngùi không còn biết phải thốt bất cứ một lời gi trong hiện trạng năm châu. Bài thơ Quang Dũng hiện ra tại chỗ chênh vênh bát ngát và thê thảm nhất trong sử lịch con người. Nó chỉ đạm nhiên và thống thiết khơi rộng những khoảng trống vắng ra để cho mọi vấn đề được nhận định và tự tìm lời giải đáp.

Bàn luẩn quẩn mãi là vô lối. Chỉ nên thong dong đọc thơ như uống nước mía, như dõi theo cánh chuồn chuồ, như nằm ngủ gọi em Thúy Kiều em Thúy Vân em Đạm Tiên, em Hoạn Thư em Bạc Hạnh, em Sở Khanh, em Mã Giám Sinh, mọi mọi em em của em Tố Như Tử em Liệp Hộ em Thanh Hiên, em Hiền em Thánh, em Cành em Nhánh, em Trái Ớt, em Muối Tiêu, em Soài Riêng sa rụng, em Bương Cấn em Sài Sơn…

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn

Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng

Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc

Sáo diều khuya khoắc thổi đêm trăng.

Tuy nhiên riêng đối với học sinh đang tập đi thi để cuối năm cưới vợ thì chớ nên lẩn thẩn chiêm bao đọc thơ nhiều quá.

*

Huy Tưởng

Lại một tâm hồn thi sĩ thượng đẳng. Ông còn trẻ lắm chắc? Tập thơ ông còn vài vần vướng vướng cái gì. Nhưng nhiều bài thâm thiết khôn tả. Tôi kính yêu ông này như một hóa thân Thôi Hộ về hội diện ni cô hiện đại Việt Nam.

Tôi chưa dám bàn nhiều về ông. E sỗ sàng chăng? Chỉ xin ghi ra đây một bài thơ xuất thần nhập thánh đáo thiên tiên:

Nghe kinh

Ướt hai tà áo nâu rồi

Bên chùa mục giọng kinh hồi lệch sang

Giọng chuông rơi thấm cỏ vàng

Nghe kìa sư nữ vừa choàng áo tu

Tôi nằm ấp lá đêm thu

Mai sau nở trái sa mù pháp không.

*

Bùi Giáng

Những bài thơ “chuồn chuồn châu chấu” của ông quả thật là có ý nghĩa. Nó bay nhẹ vi vu quả có đúng như là phận mỏng cánh chuồn. Vào những buổi sáng mùa đông lạnh lạnh ở Trung Việt, vào những buổi chiều mùa thu ở Bắc Hà, hình bóng những con chuồn chuồn bay lượn cuối ngõ, đầu xuân, quả thật là tha thướt. Đôi phen mất cái tiết điệu riêng biệt ấy cũng còn tái hiện trong đôi vần phồn hoa, mặc dù ở chồn phồn hoa không bao giờ có chuồn chuồn bay vòng múa lượn.

Bài thơ “Giữa phố” sau đây là một thí dụ:

Thiên tiên đẹp cũng như người

Ngẫu nhiên kỳ ngộ miệng cười nửa môi

Miền xanh đứng bóng mặt trời

Cõi xanh cung nguyệt cạn lời cảo thơm

Đi qua làn gió xanh rờn

Đi về ở lại còn hơn xanh rì

Phút giây đè nặng như chì

Thoảng qua như mộng không kỳ hạn qua

Chiêm bao nàng ghé lại nhà

Môi cười nửa miệng như là ngẫu nhiên

Nửa môi còn ngậm phi tuyền

Tuyết pha in mặt thần tiên như người.

Tuy nhiên vì Bùi Giáng là chỗ quen biết với tôi nên không tiện bàn luận chi nhiều. Chê thì mất lòng nhau. Mà khen thì mang tiếng “mẹ hát, con vỗ tay”.

Dù sao, bài sau đây cũng nên trích thêm vào tập:

Bóng dương buồn ngủ qua chiều

Qua sông tại hạ toan liều dấn thân

Đường sông bóng đổ cơ trần

Gẫm chông gai ấy ai từng đạp qua

Ghì môi cơn mộng la đà

Tiêu dao suốt cõi mù sa bên rừng

Nửa vời trăng rộng mông lung

Đường hoa nghi hoặc tháp tùng ni cô

*

Kiên Giang

“Lành mạnh, thanh cao, vị tha và ái quốc”. Ông Thiếu Sơn nói không sai một tấc một ly nào cả, khi giới thiệu thơ Kiên Giang.

Ông Kiên Giang tuyệt nhiên “không cầu kỳ, không giả tạo” mà đạt tới chỗ sâu thẳm nhất trong linh hồn mọi người, một cách thuần nhiên.

Bàn giải thơ ông là làm công việc thừa, vô ích. Chỉ xin chậm rãi chép ra đây nhan đề những bài thơ trong quyển Quê Hương Thơ Ấu của ông:

Hơi Mẹ

Thuở Lên Ba

Củ Co, Nét Đồ

Rau Với Chữ

Đánh Vần Câm

Chơi Nhà Chòi

Chim Bay Cò Bay

Thả Diều

Ngựa Trúc

Manh Lụa Mo Cau

Đồng Xu Giấy Chặm

Tà Áo Tím

Đồng Tiền Duyên

Con Chờ Đèn Chợ

Niềm Khuya

Giấc Ngủ Thiên Thần

Hương Tuổi Ngọc

Gối Khuya

Năm Lần Dứt Sữa

Tình Trắng

Tóc Thề Xứ Huế

Tiếng Võng Chìm

Bong Bóng Màu

Cô Hàng Bông Cỏ

Gánh Hát Cúng Đình

Kẻ Bụi Đời

Tuổi Thơ Heo Hắt

Đếm Sao Vô Hình

Tuổi Trăng Tròn

Sa Mạc Trắng

Học Sinh Và Tổ Quốc

-Những Trang Sách Cũ

-Gió Bấc Hiu Hiu

-Niềm Riêng

Quê Hương Thơ Ấu của Kiên Giang sẽ nằm trong nước Việt như Kinh Thi nằm trong nước Tàu. Một quê hương bình dị thiết tha, và hình như chúng ta đang đánh mất. Chỉ kêu gọi về trong những trận chiêm bao.

*

Nguyễn Du và Hegel

Hegel - Ngài làm thơ rất khá, tuy nhiên ta cũng lấy làm tiếc cho ngài.

Nguyễn Du¬ - Tiếc gì thế Hegel?

Hegel - Tiếc rằng ngài vay mượn truyện Tàu, và ngôn ngữ Tàu. Té ra ngài chả có tinh thần sáng tạo.

Nguyễn Du - Các hạ còn điều gì chỉ giáo thêm cho chăng?

Hegel - Có chứ. Ta khuyên ngài nên gắng thử dựng nên một triết thuyết mới mẻ cho dân tộc Việt Nam.

Nguyễn Du ¬- Còn gì nữa chăng?

Hegel - Còn chứ. Ta khuyên ngài hãy gắng tìm hiểu triết thuyết của ta, thì mới mong mai sau tiến bộ nhanh chóng.

*

Tản Đà

Nếu tiên sinh còn sống, ắt tại hạ xin được phép cùng tiên sinh nhậu nhẹt một trận lu bù. Thơ của tiên sinh làm, chẳng có chi xuất sắc. Nhưng bản dịch “Trường Hận Ca” của tiên sinh quả thật là vô tiền khoáng hậu.

*

Walt Whitman

Ngài là một bậc thánh chịu chơi. Thơ của Ngài tuôn trào cuồn cuộn như ngôn ngữ Hoa Nghiêm Kinh. Ngài nghĩ sao về nền văn minh ngày nay trong xứ sở của Ngài? Chắc Ngài chẳng lấy làm chi hài lòng cho lắm?

*

Emily Dickinson

Cô nương là một tiên nữ lạc lối ghé về trần gian. Cô nương làm thơ vừa như cho anh hoa phát tiết, lại vừa như ghìm ẩn mật tinh thể mình, không chịu để cho thiên hương bốc hơi ra ngoài…

Chỗ kín đáo đó của cô nương càng khiến cho kẻ phàm tục choáng váng tê mê mất ăn mất ngủ.

*

Dylan Thomas

Nhà thơ phiêu bồng ríu rít nhất của Tây Phương. Thơ dại nhất và u sầu nhất. Đọc thơ ngài, kẻ phiêu bồng đành phải bó tay, không còn tìm đâu ra một cõi phiêu bồng khác để bước.

*

Tạ Ký

Bây giờ tôi muốn nói đến một người bạn. Thì tôi có cảm tưởng rằng những điều tôi nói quanh quẩn mấy năm nay về thơ, đều có thể đem trao cho người bạn ấy. Thơ Tạ Ký đủ mọi màu sắc. Cay đắng, não nùng, thơ ngây, thắm thiết. Lời thơ lúc thật cũ, lúc thật mới, lúc như làn kiếm vụt ngang, lúc mơ hồ lãng đãng. Anh sống ở mọi giai tầng xã hội, xuống lên, lên xuống, ngõ quạnh, đường cong, phồn hoa, thôn ổ, nơi nào cũng thấy phảng phất hình bóng anh. Vậy tôi còn biết nói sao.

Chỉ xin chép ra đây một ít tuyệt phẩm vậy. Kẻ tình nhân sẽ đọc, cũng như người nhớ quê sẽ nhìn. Con nhớ mẹ, anh nhớ em, học sinh du học viết thư về ngỏ ý với gia đình… ruộng đồng ngỏ ý với đô thị… sa mạc trao ân tình về cho biển, cho non… Thượng Đế ở trời xanh cũng ngậm ngùi đưa mắt xuống, đăm chiêu nhìn những đường ngang, lối dọc, ngõ hẻm trần gian, những mùi hương, những meo mốc.

(Rủi sao, tập thơ của anh, tôi bỏ lạc đâu mất, tìm không ra để chép vào đây).

Viết thêm:

Sau nhiều đêm biến động, đọc lại thơ Tạ Ký, càng nhận rõ những âm thanh nồng hậu của riêng anh. Những nỗi vui nhẹ nhất, cũng như những nỗi buồn sâu xa nhất trong tâm tình con người thời đại này, đã được anh nói lên một cách chân thành thâm thiết.

Giữa một thành phố ngổn ngang, khí hậu tàn nhẫn nấu nung bức vách, thỉnh thoảng gặp nhau vài giờ, trao đổi vài mẩu chuyện vu vơ, rồi mỗi người quay đi mỗi ngả, nghe cuộc sống của mình dần dà xế bóng…

Nhưng lớp người sau chúng ta sẽ về, họ sẽ còn đau khổ hơn chúng ta - làm sao nghi ngờ điều đó - họ sẽ đọc thơ anh Tạ Ký như thế nào?

*

Thùy Dương Tử

Ông Thùy Dương Tử là một nhân vật tài tử riêng biệt ngậm ngùi. Ông vốn người Quảng Nam nhưng lại chẳng hề có cái chất bướng bỉnh của người Quảng Nam. Ông chỉ thừa thu riêng cái chất thuần phác của xứ Quảng yêu dấu mà thôi.

Thùy Dương Tử hiền hòa, bình đạm, thơ ngây, tha thiết âm thầm. Chẳng bao giờ lên tiếng nói thị phi gì hết cả.

Xin chép ra vài bài:

Về đây giấc ngủ thiên thu

Quên đi bóng dáng sương mù tuyết cao

Âm thanh chẻ tuổi hôm nào

Giờ gay gắt gọi chiêm bao chưa về

Giật mình nóng lạnh giường se

Bàn tay nhiều chỉ mình nghe tự mình

Tôi thiết tưởng một thanh niên hai mươi lăm tuổi viết một vần thơ thăm thẳm đến như thế ắt phải khiến phụ nữ kinh hoàng không dám bén mảng tới thăm.

Và ắt có kẻ vừa quá yêu thương vừa quá kinh hãi, không biết làm sao, đành mượn liều độc dược quyên sinh và để lại trên bàn ở cạnh đầu giường một vần thơ tuyệt bút:

Nợ tình chưa trả cho ai

Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan

Hoặc:

Tái sinh chưa dứt hương thề

Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.

Hoặc cũng có thể là:

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rảy xin chén nước cho người thác oan

Hoặc hơn nữa:

Bây giờ trâm gãy gương tan

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân

Sau đây là một bài nữa của Thùy Dương Tử:

Tôi nay nằm ngửa nghe mưa

Âm than vút ngược lại vừa buồn thiu

Làm thơ trong bóng mù khơi

Khắt khe càng lắm yêu đời càng thâm

Cô đơn ấp ủ bên lòng

Mưa rơi buồn chết gọi âm thanh về

Yêu đời nên mãi điên mê

Se đau từng phút kéo về trăm năm

Buồn hiu hắt nên nỗi buồn thiu

Giải sao hết được những điều thực hư.

Chúng ta tự hỏi: làm sao một thanh niên trẻ dại có thể viết nên những câu thơ tồn lập tại Khoảng Vắng Lặng mà suốt Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du đã mở ra và bỏ lửng tại đó?

Tuổi xanh già trước tháng ngày

Mắt xanh già trước niềm đau hiện về

Anh viết câu thơ như thế cho ai nghe? Mọi nhân vật thượng đặng của Nguyễn Du sẽ nghĩ sao? Giác Duyên nghĩ sao? Tam Hợp Đạo Cô nghĩ sao? Từ Hải nghĩ sao? Kim Trọng nghĩ sao? Thúy Vân nghĩ sao? Không ai dám nghĩ sao hết cả. Mọi người nhắm mắt lắc đầu. Rồi tiếp tục nâng chén rượu bùi ngùi uống cạn một hơi, khẽ mời ông Lý Bạch đọc tiếp:

Đi về thăm viếng thị thành

Bàn tay năm cũ mọc nhành xương khô

Đi về còn vọng sông hồ

Bài ca tình ái phương mô tìm nàng

Đi về vườn cũ tan hoang

Thương trăng thiếu phụ úa tàn đời xuân

Anh âm thầm cảm thương quê hương vườn cũ, anh âm thầm thương cảm một vong hồn đau đớn thiết tha Quách Thoại. Mọi người chết giữa xuân xanh hãy ngậm cười chín suối. Tôi chép bài thơ Thùy Dương Tử ra đây để cho những oan hồn kia đọc:

Kinh kỳ bụi hút xe đi

Thành đô nóng nực da chì nám da

Chốn này về có mình ta

Trẻ thơ òa khóc người già gậy khua

Âm thanh phá vỡ tuổi mùa

Ngày đi xuân lụn âm thừa vọng lâu

Bờ khuya đổ bến giang đầu

Người con gái khóc vó câu biệt mù

Trăng về ngự đỉnh non thu

Nửa dòng sông bạc sa mù tiết đông.

Những vần thơ như thế, ai dám đặt bút phê bình giảng giải? Những bài viết ra đâu có phải là làm văn nghệ chuyên môn? Phải là táng tận lương tâm mới có thể cầm cây bút học giả chen vào phân tích.

Lên cao nhìn tuổi núi sông

Lại về đồng cỏ tắm giòng hạ lưu

Tìm em mưa bão tháng mười

Cuối đông bồng biển sang thu lên đồi

Từ em hồng phận hoa khôi

Rớt rơi kỷ niệm mà tôi biệt từ

Không một lời dư. Không một tiếng thiếu. Tưởng chừng đó là mấy lời tuyệt bút của Hồng Sơn Liệp Hộ, một đêm nào nằm ngửa mặt ngó trời trăng tịch mịch và nguyện cầu dâu biển hãy buông tha…

Chiêm bao ngựa trắng phi về

Mây che thân thể em về hư không

Nửa đêm thức giấc phiêu bồng

Tóc bay mùa cũ chẻ lòng nhớ thương

Dâu biển ôi! Phong tình cổ lục ôi! Sự tình như thế nào như thế. Còn đâu nữa một vần tái tạo, một khúc tái tân thanh. Chỉ còn tịch mịch hư không.

…Đêm

Con dế kêu

Buồn đêm vắng

Buồn đêm mưa…

Nhưng làm sao dừng lại. Dư vang con dế gọi vẫn kéo dài suốt kiếp chúng ta. Kéo dài suốt giang san nước Việt.

Mịt mờ xe đỗ đèo cao

Nẻo xa xứ Quảng lối vào Quy Nhơn

Phố khuya mưa lệch sông hờn

Ểch ương kêu với đồng trơn quê nghèo

Một mình thui thủi lần theo

Rạ tranh nhà vắng buồn teo lúc về

Lạnh lùng Đà nẵng mưa gieo

Về thăm quê nội chừ nghèo xác xơ

Bước chân lữ thứ khôn hàn bỏ lại cho mai sau những âm thanh gì như thế:

Dép mo cau áo vải còn thương

Mùa cau trổ với mía đường tản cư

Thu Bồn Bến Cát thừa dư

Chín năm kháng chiến mình như già rồi

Anh hỏi mình quê ở đâu

Mình quê ở dưới bầu trời bao la

Tháng năm với tuổi không nhà

Chợt nghe dĩ vãng lòng ta cũng buồn

Vườn xưa hoa lá ngập đầy

Vết tay chín móng đã dày rêu in

Ta về gió lạc cung tin

Cho năm tháng lớn đi tìm đau thương

Viết chưa xong bài, đã phải bồi hồi dừng lại: cho năm tháng lớn đi tìm đau thương… Không tìm, đau thương vẫn cứ đến. Nó đến tràn lan, thy sỹ lại còn đòi đi tìm thêm nữa.

Thời gian chẻ tuổi nhớ mong

Tóc bay chẻ gió giục lòng đảo điên

Em về giấc ngủ linh thiêng

Vành môi khép mở xa miền nhân gian

Bỗng lời thơ đổi giọng. Vẫn là lục bát. Nhưng mang mang quá khứ Đường Thi:

Ngủ yên giấc ngủ bình yên

Cho ta hôn nhé lên triền môi em

Rạc rời tàu hú trong đêm

Lưng đèo khói bụi chào em ga này

Riêng bốn câu với tiếng chào không thanh âm vọng lại, ắt phải làm thiên tài Lửa Thiêng chết lặng linh hồn.

Lên non vứt bỏ sự đời

Hút âm thanh lại ngồi chơi một mình

Lấy mây làm sợi tơ hồng

Mây bay trăm nẻo như lòng đứt tim

Bây giờ không chỉ riêng một thiên tài nào linh hồn chết lặng. Mọi mọi người người kẻ kẻ theo gót mọi thiên tài, đều cùng mọi thiên tài hiền thánh cùng nhau đứt tim rã máu. Ta lại nhớ tới lời Mộng Liên Đường Chủ Nhân:

“Tố Như Tử có tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời…”

Những người công kích thơ một cách bừa bãi lung tung, chẳng qua chỉ là lâm phải tình trạng “có đăng đường, nhưng chưa nhập thất”.

Trái lại, bọn thy sỹ chân chính là những kẻ bẩm sinh là “nhập thất” và có lẽ chả bao giờ bận tâm với chuyện “đăng đường”.

*

Saint John Perse

Trong Sương Bình Nguyên có dịch một đoạn thơ của ông ấy. Ông này thuộc loại thiên tài ngoại hạng, loài génie indéfinissable.

Ngày xưa có một lần tôi đã đả kích Saint John Perse. Chung quy chỉ tại bài phê bình của Rousse-lot. Cái bài nó viết về Saint John Perse trong tạp chí France-Asie, đã phỉnh gạt tôi khủng khiếp quá. Ngày đó rủi ro, tôi chẳng có tiền mua tác phẩm Saint John Perse nên bị đánh lừa một cách não nùng nhất trong bình sinh.

*

Lý Bạch

Cái sầu của Tản Đà dễ hiểu. Cái lối cợt nhả của Trang Tử, cũng chẳng có gì lạ. Nhưng mỗi phen nghĩ tới Lý Bạch, lại như chạm phải một cái gì đồ sộ quá xa xuôi. Chúng ta cũng nhiều phen thử uống rượu lu bù, xem có gần gũi được ông Lý chăng. Nhưng lời thơ nhẹ như tơ trời của ông vẫn xa vắng quá.

Yên thảo như bích thy sỹ

Tần tàn đê lục chi

Đương quân hoài quy nhật

Thị tiếp đoạn trường thì…

Hoặc:

Sàng tiền minh nguyệt quang

Nghi thị địa thượng sương…

Rượu chúng ta uống ngày nay không phải là thứ rượu Lý Bạch ngày xưa đã uống. Phong cảnh Trung Hoa ngày xưa cũng chẳng giống phong cảnh thế giới ngày nay. Mà Lý Bạch lại là kẻ thi sỹ quá riêng biệt. Chúng ta có thể làm thơ chữ Hán vượt hẳn Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Lý Thường Ẩn. Nhưng chẳng thể nào viết được những lời đơn sơ bát ngát như mấy câu thơ của Lý Bạch.

*

Trí Hải

Trí Hải Ni Cô làm thơ cho trẻ con tập đọc. Đọc mấy bài của Ni Cô, chúng ta có cảm tưởng mình biến thành trẻ bé bỏng, được phép gọi Ni Cô là Mẫu Thân bát ngát.

dê mẹ ở hè

nó kêu be he

bé cho nó cỏ

và ba lá tre

*

se sẻ qua đò

cú xo té ngã

quạ ta kẻ cả

chê cú hồ đồ

*

chú quạ bị què

lê ra bờ đê

mổ mè no nê

trở vô ngủ lẹ

*

cú ho sù sụ

quạ qua vỗ về

ru cú ngủ mê

ở kề cổ thụ

*

mơ mơ hồ thu

gió khẽ vi vu

tứ bề ngủ cả

như là mẹ ru

*

gió đi lơ ngơ

gò đá bơ vơ

chả có lá gì

cho gió ru mơ

*

khe ca tỉ tê

mà ru đã ngủ

lá kè ủ rũ

mơ xa gió về

*

gió thở vi vu

nghe xa lá đổ

bò dê đi ở

cỏ mơ sa mù

AC

thu về man mác

xơ xác chim vạc

ngơ ngác nai tơ

bơ vơ chú hạc

AP

mưa sa gió táp

tiêu điều bò cạp

chó Pháp ngáp dài

nhớ nai Hy-lạp

AT

mưa sa hạt mát

giải khát lạc đà

cát vàng bát ngát

bãi xa mờ nhạt

ANG

gió đi lang thang

lá vàng mang mang

mình nghe lành lạnh

mùa thu đã sang

AY

gió nhẹ nhàng lay

lảo đảo vàng bay

ngày thu biền biệt

đất trời như say

ĂNG

băng ngàn tìm trăng

mây mù bủa giăng

như màn the rũ

che mặt ả Hằng

ĂM

gió rét căm căm

người đi xa xăm

tháng năm biền biệt

quê nhà đăm đăm

ĂP

trắng mây về khắp

núi đồi tăm tắp

gió xa sắp về

mây làm cánh chắp.

*

Nguyễn Thị Hoàng

Thơ Nguyễn Thị Hoàng trang nhã như thơ Bà huyện Thanh Quan, mà lại cũng cay đắng như thơ Hồ Xuân Hương, nhiều lúc nghe thống thiết như thơ bà Đoàn Thị Điểm. Đọc thơ Nguyễn Thị Hoàng, người ta có cảm tưởng như nữ sỹ mang hết trong mình những khổ đau của người phụ nữ Việt Nam.

Giờ xin vĩnh biệt Nhà Chung

Chúa ơi con đã vô cùng đớn đau

Đêm đêm lắng tiếng kinh cầu

Xót thương trăm nỗi tủi sầu một thân

Mưa sa gió táp bao lần

Nhục nhằn tội lỗi nên thân xác này

Con đem số kiếp đoạ đày

Đi tìm kiếm một vài giây huy hoàng

Vài giây huy hoàng, tìm kiếm một cách tuyệt vọng như thế, thật có như là một khúc Tân Đoạn Trường.

Niềm tin vỡ nát bao giờ

Cuộc đời sớm nắng chiều mưa trở về

Tuyệt vọng mà vẫn nhẫn nại đề huề chấp nhận chuyện đời, tự tạo cho mình niềm can đảm vui sống đó là mạch âm thầm trong dòng thơ nữ sỹ:

Chiều hôm nay thứ bảy

Trời giăng mưa trong lá me bay

Em sẽ vì anh bắt đầu từ hiện tại

Câu thơ viết như thế cũng đủ xóa tan đi bớt những u ám quá khứ:

Truyện tình đã chót đa mang…

Trái tim lở lói trăm ngàn vết thương.

*

Trần Thy Nhã Ca

Tôi bây giờ đứng thu thân

Sống cam phận nhỏ chia phần an vui

Thơ nghe như giọng tiên nữ xuống khép nép xin vào hội hè trần gian. Tiên nữ nhu mỳ khiêm thuận. Đó là điều hiếm có.

Tiên nữ bỏ nhà ra đi lúc còn bé:

Tôi bỏ nhà ra đi năm mười chín tuổi

Đêm trước ngày đi nằm đợi tiếng chuông

Đợi nghe tiếng chuông gõ xong rồi mới ra đi. Đó cũng là phong thái tiên nữ lúc còn nhỏ tuổi. Thong dong gay cấn.

Tuổi nhỏ bị bỏ quên không bao giờ ngó lại

Tôi cũng khuây dần những tình yêu đi qua

Càng gay cấn hơn nữa:

Người cũng vậy, lòng muôn nghìn dối trá

Vờ thương yêu, vờ đắm đuối ân tình

Tôi cũng dại, tin lời, trao tất cả

Đâu biết người mang nửa dạ yêu tinh

Trần Thy Nhã Ca kể ra cũng còn rộng lượng. Cô không viết: “đâu biết người mang toàn dạ yêu tinh”. Cô giấu bớt cho người một phân nửa. Nên chỉ còn lại “nửa dạ yêu tinh” mà thôi.

Thế thì bài thơ của nữ sỹ hình như luôn luôn muốn rằng đừng thốt ra lời gì vượt quá cái mực điều độ. Nghĩa là phải thành tựu cho được tinh thể của “nhã ca”? Nhưng “nhã ca” vốn là cái gì dễ chìm tắt nhất trong bụi hồng. Vì thế phải kêu gọi nó tỉnh dậy.

“Tôi làm con gái gọi trăm lần nhã ca”.

Cái gì đã khiến nữ sỹ tha thiết nói chân tình như thế? Ấy có lẽ cũng chính là dư vang tiếng chuông ở chùa nào ngày nhỏ đã nghe? Nghe ở “cuối cơn điên” và “đầu giấc ngủ”:

Cuối cơn điên đầu giấc ngủ đau buồn

Tiếng chuông đến dịu dàng lay tôi dậy

Chỉ mình tôi nhìn thấy tiếng chuông tan

Tiếng chuông tan đều như hơi thở anh em

Tiếng chuông tan rơi như lệ mẹ hiền…

Tiếng chuông lạ thường kia, nữ sỹ đã nghe? Không. Nhã Ca viết: tôi nhìn thấy… Chỉ mình tôi nhìn thấy tiếng chuông tan…

Nhìn thấy tiếng chuông tan như thế, cũng là nhìn thấy những đổ vỡ sắp xảy đến cho mình. Sắp xảy đến hay là đã xảy ra, thì cũng vậy. Lời thơ sắp đi vào chỗ thống thiết với một “cao cách điệu” hy hữu:

Từ độ xa chuông, khôn lớn giữa đời

Đổi họ thay tên viết văn làm báo

Cơm áo dạy mồm ăn lơ nói láo

Cửa từ bi xưa mất dấu đứa con hư

Tháp cổ chuông xưa sông nhỏ bây giờ

Giòng nước cũ trong mắt nhìn ẩm đục

Con đường cũ trong hồn nghe cỏ mọc…

Tuổi thơ ngây bị vùi lấp hết. Mà lời thơ thật huy hoàng như báo hiệu cuộc hồi sinh. Và quả thật như thế. Cuộc hồi sinh đã đến:

Nhưng sao chiều nay bỗng bàng hoàng nhớ

Tiếng chuông xưa bừng sống lại trong tôi

Tiếng chuông xưa. Kìa. Tuổi dại ta ơi

Chuông òa vỡ trong tôi nghìn tiếng nói

Những mảnh đồng đen như da đêm tối

Những mảnh đồng đen như tiếng cựa mình

Những mảnh đồng đen như màu phục sinh…

Lời thơ xô ùa tới trùng trùng điệp điệp như ngọn triều đại hải:

Tôi thức dậy đây, tôi thức dậy rồi

Thức dậy thật sự rồi

Thức dậy cùng giông bão, thức dậy cùng tan vỡ

Thức dậy cùng trí nhớ

Mẹ hiền ơi, thành phố cũ, chiều nay

Có tiếng chuông nào rơi như lệ trên tay

Trên mặt nước, trên mặt người, mặt lộ

Cho con trở về đứng mê sảng ngó

(“Tiếng Chuông Thiên Mụ”)

*

Hoài Khanh

Từ Dâng Rừng tới Thân Phận, Hoài Khanh đi một bước riêng biệt choáng váng trong dòng lục bát của ông. Ông không bị một ảnh hưởng nào gò bó. Ông chỉ chịu ảnh hưởng của trời, của sương, của giòng sông, bến quạnh quê hương.

Thỉnh thoảng cố nhiên, ông bị vướng lụy trong bầu khí hậu văn nghệ của hiện tình đất nước chia năm xẻ bảy, ông ngượng gạo viết vài bài khổ nhọc không có cách điệu bồng bềnh bất tuyệt trầm hùng của ông. Nhưng đó là trường hợp hy hữu thôi.

Riêng biệt những bài “xuất thần” bi ca của ông, thì quả thật vô song bát ngát.

Ngày sương thành phố dâng mùa

Bóng thu chìm tịnh cành thưa khởi vàng

Tôi hoài trên bước lang thang

Yêu em vô lượng mà mạn dại buồn

Tóc huyền đó lạnh như sương

Mắt huyền đó mộng bình thường không em

Mỗi đêm nhớ gió trăng tìm

Bãi sông triều giậy đi niềm chia phôi

Khí thơ đi trầm trầm tịch nhiên mà thống thiết như một khúc tân đoạn trường kết tụ dưới thanh hiên.

Mắt em hồ vỡ cung đàn

Thôi xuân nào cũng mộng tàn đêm thâu

Ngùi thương bóng nhỏ giọng sầu

Cõi kia cũng quạnh quẽ màu lưu linh

Thường mỗi phen đọc bài thơ hay, tôi quen thói hình dung tâm hồn ông Nguyễn Du. Tôi tự bảo: nếu ông Nguyễn Du đọc nhữn bài thơ ấy, ông sẽ nghĩ sao về bọn hậu bối.

Suốt bài thơ, dường chẳng thấy sự tình gì xảy ra hết cả. Chỉ nghe một giòng sông đi. Một triều sóng động.

Người ta chấp nhận bài thơ như chấp nhận một trận mưa rào xuống ruộng tình biển ái.

Người ta đi vào bài thơ như đi vào cõi như lai tịch mịch ngậm ngùi. Như đi vào một cung đàn diễm ảo nhớ nhung khép mở, gây một trận tịch hạp chon von, cho nảy ra một niềm đốn ngộ. Người ta không biết đâu bờ bến để phân tích. Không còn chủ nghĩa. Không còn lập trường. Chỉ còn một niềm phiêu dật hồn nhiên tự phóng nhiệm hòa vào cây cỏ, nước mây, là môi trường riêng tây của thi sĩ:

Biển mù mịt đó mưa đan

Tôi ngàn năm nhớ nào tàn mộng xưa

Vi vu màu gió đi mùa

Núi non đồng vọng cũng thừa xót thương

Đà nghe đất giậy môi trường

Cõi miên viễn bỗng vô thường thanh âm

Bơ vơ chiều dựng chuông trầm

Sông dài trôi quạnh hồi âm nẻo nào

Ta nhớ lại cung bậc ban đầu của Dâng Rừng:

Lối xưa mây xám nghẹn màu

Thuyền xuôi qua mấy nhịp cầu chênh vênh

Tóc huyền chìm mấy mông mênh

Thiên thai đâu nhỉ mà quên lối về

Cố nhân chưa vẹn câu thề

Sắt son là mảnh hồn quê ngậm ngùi

Vào thu mây trắng tim rồi

Đêm sâu bỗng lạnh tiếng cười tri âm

Nhưng tại sao lại phải ghi ra nhiều nữa? Hoài Khanh đã hồn nhiên đưa nguồn thơ mình vào lục bát, hồn nhiên dẫn lục bát về cõi uyên nguyên, bỗng nhiên lại khơi mạch gì khiến uyên nguyên trào trở giậy trong vẻ tân kỳ bình đạm thiết tha:

Người ơi năm tháng là gì?

Phải chăng mấy khóm tường vi héo mòn

Đố ai che mảnh trăng tròn

Đố ai đo được lòng son của đời

Thật không thể tưởng tượng. Ông bạn thuở ấy còn nhỏ tuổi, giọng thuần phác như nhiên, đùng một cái, đứng song song lên ngang những thi bá đời Đường mà uyển chuyển như câu hát Kinh Thi, lại pha màu cay đắng của thời đại lao lung nhược tiểu:

Biết bao giờ! đến bao giờ

Cố nhân thì chỉ hững hờ mà thôi

Khách qua tàu đã xa rồi

Là thôi còn một góc trời chênh vênh

Nắng mưa còn thắm ân tình

Dâng đời tất cả riêng mình héo hon

Con tàu nhược tiểu đi đâu như thế? Nó trao được chút gì cho tứ hải hay không? Nó lận đận điêu linh, nó nhẫn nại trong đêm dài bối rối, nó chắp nhặt ân tình, nó mang trở đi đâu, nó mang về không dứt khoát, nó làm hết nhiệm vụ mình và có thể cứ như hờ hững trước mọi tiếng tương giao:

Tàu qua tàu lại vẫn còn

Ngói trơ sương nắng dáng mòn cỏ rêu

Sáo ai buông xuống lưng chiều

Nhà ai lên khói mà nhiều đắng cay

Tàu qua tàu lại đêm ngày

Khăn xanh nào vẫy bàn tay nào mềm

Lệ ai nhỏ ướt sân thềm

Tàu qua thì cả ân tình theo qua

Theo qua là qua mất? Hay theo qua là qua về? Qua lại? Qua đi? Qua bờ bỉ ngạn? Kết tụ tử sinh? Không biết. Không biết? không biết.

Chỉ biết rằng thy sỹ đã đặt bàn tay thân ái vào giữa cõi lang thang. Và toàn thể quê chung đã quy về cảm thương trong cô độc.

Nát từng nếp áo hoàng hoa

Tâm tư lạnh cả bài ca độc hành

Nhịp đời lẻ khúc thơ xanh

Thế nhân chẳng khóc nhưng tình đơn côi

Lòng ga còn trọn cuộc đời

Chỉ đưa chỉ đón là thôi chứ gì?

Đón đưa gì nhỉ? Tại sao vừa như Tố Như Tử, vừa như Tử Tố Như? Vừa không phải Tố Như Như Tố gì cả?

Chút riêng chọn đá thử vàng

Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu

Còn như vào trước ra sau

Ai cho kén chọn vàng thau tự mình?

Mặc người mưa sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân là gì?

Thế ra Hoài Khanh đã chạm vào chỗ cốt yếu mà Nguyễn Du đã dành riêng cho tâm sự Thúy Kiều? Anh định làm cái gì thế?

Mùa thu chừ đã đi qua

Lá khô bớt rụng sương sa lại nhiều

Lơ đễnh một chút, ắt ta không ngờ rằng những dư vang thâm hậu Nguyễn Du đã được âm thầm khơi dẫn trở lại một cách kín đáo u nhã u nùng?

Lần lần tháng trọn ngày qua

Nỗi gần nào biết đường xa thế này

Song sa vò võ phương trời

Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng

Lần lần thỏ bạc ác vàng

Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn.

Thì chính đó là mạch sầu riêng biệt đã đi về ám lấy núi non. Hoài Khanh ngày xưa không đọc gì nhiều Nguyễn Du, nhưng anh đã hồn nhiên nằm ngay vào giữa mạch sầu thiên cổ của thiên tài Hồng Lĩnh.

Gió lên cuồn cuộn lưng đèo

Chao ôi tâm sự biết chiều hay đêm

Ấy bởi vì quê hương Phan Thiết của anh, với sông, núi, đèo, truông hiu quạnh, những “chiều gió nồm” quả chứa chan màu sắc núi sông Hà Tịnh. Tâm hồn con người cũng được hun đúc trong bầu khí hậu long lanh ngang trái phảng phất những oan nghiệt biển dâu, thôi thúc con người đi suốt xứ tìm trong viễn vọng chiêm bao những ân tình chung thủy:

Em ơi tháng sẽ về năm

Tình ơi chung thủy về thăm mộng lành

Ngàn ngày núi biếc hương xanh

Cho nhau một tấm lòng thành mà thôi

Chúng tôi tưởng, nếu người đọc thơ không có một ý niệm gì hết về phong cảnh núi đồi Hà Tịnh, Phan Thiết, Phan Rang, Tipasa… những phong cảnh bao la ngậm ngùi, đất nước quá đẹp và quá đau thương, nếu không nhìn bằng hai con mắt những sự tình đó suốt bình sinh, ắt sẽ không rõ từ đâu mà những bản bi ca lại xuất hiện trong Dâng Rừng giữa xuân xanh như thế.

Ngàn sâu lắng xuống mịt mùng

Lãng du đêm quạnh lại chùng bước chân

Từ đó chúng ta miên man đọc lại những chiều “xa quê hương nghe gió nồm”, chúng ta trở lại với Dâng Rừng, cùng thi sỹ gọi lại những âm thanh không lời, những lời không có tiếng:

Cố nhân ơi đã đành xa

Thâm u vọng tưởng bài ca sang mùa

Khói hương còn quyện mái chùa

Sắt se chi nữa mà mua tị hiềm

Rừng thiêng mòn mỏi cánh chim

Cũng không giết chết buồng tim đợi chờ

Rồi mai lá rụng cành trơ

Cuốn bao nhiêu gió chép thơ tặng đời

(Dâng Rừng)

Ngậm ngùi một nửa quê hương

Lạnh lùng một dáng chiều buông rủ sầu

Hồn về sáng lại đêm thâu

Lửa hương cầu nguyện cho nhau thâm tình

Không gian chiều xuống thay hình

Thời gian giữ mãi tâm tình trong ta

(Sầu Chiều)

Tập Dâng Rừng cố nhiên có vài chút tạm gọi là “khuyết điểm” theo quan điểm văn nghệ thời nay. Nhưng những khuyết điểm hoặc nhược điểm kia, chính là những đặc ân, ưu điểm của tuổi trẻ. Ngày mai lớn lên, ta khắc phục được những nhược điểm kia, thì cũng chính ngày đó chúng ta đành mất cõi thanh xuân, linh hồn bắt đầu tàn tạ, khép kín. (Kín là kín bưng, kín bít, chứ không phải kín đáo u huyền).

Nhưng làm sao có thể khép kín mãi được? Hãy thư thả nghe lại cung bậc lục bát dị thường trong Thân Phận:

Chim bay tàn bóng xa mù

Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi

Nằm đây lạnh suốt mặt trời

Hoài thương quá khứ đã ngùi phiêu linh

Phố xưa hồn đẫm lệ mình

Sông xưa chiều đã lênh đênh mấy mùa

Nghe tàn cõi mộng hoang thưa

Con chim lại hót trên mùa lang thang

Mắt em hồ vỡ cung đàn

Thôi xuân nào cũng mộng tàn đêm thâu

Ngùi thương bóng nhỏ giọng sầu

Cõi kia cũng quạnh quẽ màu lưu linh…

Màu lưu linh

Chim bay tàn bóng xa mù

Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi

Màu lưu linh là màu lưu ly, linh đinh, hay lung linh sương bóng. Màu lưu linh là một tiếng lãng đãng chia phôi.

Nếu nghĩ tới Kiều, thì đó là màu sắc nhuộm suốt một đời lưu lạc của nàng. Và trong đó không chỉ có đoạn trường thôi? Ly biệt, chia phôi? Nhưng còn ý nghĩa riêng của tu hành trong cuộc Lữ.

Nếu nghĩ tới Nerval, thì màu lưu linh của Hoài Khanh chính là màu của huyễn mộng Les Chi-mères, màu của el desdichado (kẻ lang thang trần trụi, không chỗ dung thân khắp bến bờ đất trích).

Je suis le ténébreuxe le veuf l’inconsolé

Le prince d’Aquitaine à la tourablie

Ma seul etoile est morte - et mon luth constellé

Porte le Soleil noir de la Mélancolie…

(Ta là kẻ âm u, kẻ góa vợ, kẻ khôn nguôi Hoàng tử của một cung thành vùi lấp).

Đã tử diệt là Ngôi Sao duy nhất

Mặt trời đen là cung bậc ta ca

Vừng Hắc Ô bám chặt cây đàn ngà

Ảo mộng của mối Sầu U suốt kiếp)

Màu lưu linh của Hoài Khanh ngân lên cung bậc dị thường kia của ông Chúa Siêu Thực Tây Phương, mà ngân lên trong tiết điệu dịu dàng đôn hậu của lục bát. Cái mới thật là kỳ.

Chim bay tàn bóng xa mù

Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi

Hai câu đơn giản như thế cũng đủ sức xô ùa những Nerval Hölderlin vào cuộc hội đàm vô thanh vô tức với Nguyễn Du. Cuộc hội đàm của bọn người cô độc. Và tuổi tôi chỉ riêng sương lạnh ở lại đền bù.

Người ta có thể hỏi: giọt sương hao mòn như thế, hột sương ở lại đền bù, thì đền bù được bao lăm?

Nhưng thy sỹ vẫn hồn nhiên tha thiết bảo:

Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi

Sương của mùa thu dằng dặc? Vì mùa xuân đã chết? Mùa xuân đã tàn phai theo cánh chim bay tàn bóng xa mù. Tôi còn biết làm sao buộc cánh nó lại? Mà buộc lại để làm gì? Tôi xin chấp thuận cuộc chuyển dịch kia và đem lời thơ trao nhau làm tặng vật.

Dâng đời tất cả riêng mình héo hon

Đó là ý nghĩa của câu thơ Dâng Rừng.

Nằm đây lạnh suốt mặt trời

Hoài thương quá khứ đã ngùi phiêu linh

Phố xưa hồn đẫm lệ mình

Sông xưa triều đã lênh đênh mấy mùa.

Phố xưa sông xưa, là sông phố ở một tỉnh lị nhỏ miền Trung? Gió biển thổi vào từng trận, những chiều hè tha thướt hoang liêu, những buổi sáng mùa đông thảm đạm. Một giai nhân dị thường như những Sylvie, có lẽ đã cư lưu tại phố đó. Và một mối tình tuyệt vọng có lẽ đã đem lệ về làm đẫm ướt phố xưa. Sylvie, Adrienne, Diotima, Alissa… vân vân… Những con người như thế vốn từng đã khiến những thiên tài Hà Tịnh viết nên những lời:

Ví chăng duyên nợ ba sinh

Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi

Hoặc:

Hồn lưu lạc chưa hề thờ một chúa

Yêu một người, ta dâng cả tình thương

Nhưng tình thương đó đã vô vọng và vì thế nó đã biến thành một thứ gì không tuổi không tên, nhân gian không có lời gì để gọi nó ra được nữa. Gọi nó là màu lưu linh. Màu lưu linh đã giết con người ta chết từ sơ ngộ, người ta sẽ bỏ phố xưa sông cũ ra đi để suốt đời nghe tiếng chim thuở ban sơ về hót…

Nghe tàn cõi mộng hoang thưa

Con chim lại hót trên mùa lang thang

Mắt em hồ vỡ cung đàn…

Trên bước lang thang người thơ gieo những cung bậc vào cung đàn mà mỗi phen mỗi thấy hiện ra trước mắt mình hai con mắt thiên tiên của công chúa, và hai con mắt u huyền đó đã làm vỡ cung đàn bất tuyệt của tài hoa. Và mỗi phen lại nghe cung đàn mình chết lịm trong cung đàn sơ khai kỳ ảo.

Il est un air pour qui je donnerais

Tout Rossini, tout Mozart et tout Weber

Un air très vieu languissant et funèbre

Qui pour moi seul a des charmes secrets

Hoài Khanh chẳng bao giờ đọc Nerval, và có lẽ ngày xưa anh cũng chẳng đọc gì Nguyễn Du, Huy Cận.

Nhưng tâm hồn anh mang chứa tinh thể thi nhạc những tâm hồn kia. Những Mozart, những Chopin, những, những…

Tôi vốn là kẻ rủi ro thuở mười lăm mười sáu đã gặp Huy Cận Nguyễn Du Nerval. Tôi đã giã từ hết sách vở meo mốc nhà trường về quê sống với chuồn chuồn châu chấu. Thì cái ngày lạc lối vào Sàigòn, bỗng nhiên tao ngộ tiếng thơ Dâng Rừng, tôi tưởng mình được phép nói vài lời tuyệt đối, mặc dù ngày đó tôi chưa quen biết Hoài Khanh. Tôi nói với ông Tạ Ký dịp nào gặp Hoài Khanh thì dẫn anh tới nhà chơi một cuộc. Từ bấy tới nay ngót mười năm.

Hoài Khanh là hồn thơ thuần nhiên điền dã.

Vậy thì cái bản “hòa âm điền dã” của anh tất nhiên ngân lên một âm thanh gì khó lọt vào thính quan người văn nghệ phồn hoa. Mỗi người hãy xin mang trọn cái nghiệp mình trong cái vũ trụ riêng mình. Rồi mai sau, sẽ có dịp bất ngờ cái vũ trụ riêng mình sẽ chan hoà vào cái càn khôn chung thiên hạ. Chẳng nên sớm vội vã cưỡng cầu.

Chỉ thử tưởng tượng xem. Những kẻ hồn lạc loài ngay từ thuở sơ sinh bỗng một hôm gặp Nàng Thơ đẹp nguy nga như hoàng hậu trong bầu không khí ba cha bảy mẹ thế kỷ này … Thì từ đó?

Il est un air pour qui je donnerais

Tout Rossini tout Mozart et tout Weber…

Nguồn: Ca Dao xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn năm 1969. An Tiêm tái bản lần thứ nhất tại Paris năm 1998. Bản điện tử do talawas thực hiện.

______________________

Bùi Giáng

Đi vào cõi thơ

Ghé chơi một trận

Bằng bước gót phiêu bồng

Cõi thơ là cõi bồng phiêu Bùi Giáng

Thi ca tư tưởng

Đi vào cõi thơ

Ghé chơi một trận

Bằng bước gót phiêu bồng

Cõi thơ là cõi bồng phiêu

Hoặc phiêu bồng tâm sự tân toan lệ

Hoặc phiêu bồng tâm ý du dương tiếu

Hoặc phiêu bồng tâm mộng trúc loạn ty

Hoặc sao thì hoặc

Dù sao thì dù

Thể thái sao thì thể thái

Cốt cách nghiễm nhiên rất mực

Vẫn là bất tuyệt phiêu bồng

Vậy kẻ nào

Tự xét mình

Từ trong tinh thể mà ra

Chả có chi là phiêu bồng tí chút

Thì chả nên cưỡng cầu

Tự ép uổng

Ghé vào thi ca thâm xứ làm chi

Cho luống cái công lao trí hải

Cho phí cái công trình bình sinh tâm nguyện

Nay kính cẩn đề kê khai vô dữ ngữ

(Bùi Giáng)

Ví đem vào Sổ Đoạn Trường

Thì treo giải Một mà nhường cho hai

(Thúy Vân và Tam Hợp Đạo Cô)

Phạm Hầu

Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận

Chẳng biết xa lòng có những ai

Đó là hai câu thơ cuối bài “Vọng Hải Đài”. Đó cũng là bầu khí hậu mênh mang sầu cô độc bàng bạc khắp mấy bài thơ của Phạm Hầu còn rơi rớt lại chúng ta ngày nay.

“Chúng tôi đã cố công sưu tầm nhưng chỉ được đãi ngộ sáu bài thơ. Âu cũng lấy đó là niềm vui vậy.” (Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến)

Hai ông Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng đã viết một bài hoàn hảo về Phạm Hầu.

Chẳng biết trong lòng ghi những ai?

Thềm son từng dội gót vân hài

Hỡi ơi! Người chỉ là du khách

Giây phút dừng chân vọng hải đài

Kể từ ngày gặp Phạm Hầu trong Thi Nhân Việt Nam (của Hoài Thanh Hoài Chân) tới nay đã ngót một phần tư thế kỷ. Thằng học sinh đầu xanh nay tóc đã bạc. Nó xin đọc ôn lại thơ Phạm Hầu.

Mãi dân trọn hồn vui muôn độ trước

Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi thêm chi?

Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi

Gió bốn hướng dằn co trong tử biệt

Phạm Hầu viết những lời như thế thuở ông hai mươi mấy tuổi đầu. Hai mươi mấy tuổi mà dường như đã có đủ trong hồn một trăm năm đạo hạnh. Ông đi vào thi ca, nghệ thuật, với tâm hồn con người thanh tu đạt đạo. Người thanh niên ấy đã biết khước từ hết mọi thứ “dưỡng chất trần gian” và âm thầm gửi cho trần gian một chút tặng vật nho nhỏ.

Ngờ đâu tặng vật nho nhỏ kia lại khổng lồ như một Kim Tự Tháp nằm giữa sa mạc mênh mông để ghi lại ngấn tích một nền văn minh huyền ảo nhất thế gian.

Ông là con nhà thế phiệt trâm anh. Ông được kế thừa “y bát” của phụ thân Phạm Liệu. Y bát chân truyền kia đã đặt toàn khối văn học tư tưởng Trung Hoa tới đứng trước trận gió Tây Phương thổi lại. Thơ Phạm Hầu từ đó là cái vùng kết tinh của hai thể tinh văn minh. Hai văn minh đang gặp gỡ nhau, gùn ghè gắn bó hay tương tranh tiêu diệt nhau chơi? Chẳng rõ. Nhưng cái Tại Thể Thi Nhân của Phạm Hầu đã chịu hiến dâng thân mình ra làm Trường Sở Trụ cho cuộc cơn kia. Ông chấp thuận cuộc hôn phối cũng như cuộc giằng co. Và đem thân mình làm chiếc dương cầm cho ngân lên những cung bậc mênh mang chưa từng thấy trong văn chương kim cổ.

Mãi dâng trọn hồn vui muôn độ trước

Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi thêm chi?

Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi

Gió bốn hướng dằng co trong tử biệt

Trong Thi Ca Tiền Chiến, đã có một Xuân Diệu làm người thanh niên ráo riết, một Huy Cận làm người thanh niên ngậm ngùi, một Hàn Mặc Tử làm người thanh niên đau khổ cực độ, Chế Lan Viên làm người chứng nhân cho điêu tàn, Hồ Dzếnh làm người đề huề giao hảo…lại thêm một Phạm Hầu làm người nghệ sỹ cao vời trang trọng mang một thánh tính u u ẩn ẩn như Nerval. Phạm Hầu mở ra trở lại chân trời bát ngát của Nguyễn Du trong giai đoạn cuối buổi Hoàng Hôn. Ông nói ít hơn Nguyễn Du, ông không đi vào giữa những thiên vạn thể của biển dâu, ông chỉ đơn sơ có mấy lời, nhưng mấy lời đào sâu khôn tả trong mạch giếng tân thanh. “Mãi Dâng Trọn Hồn Vui” là một kỳ tác muốn chìm sâu xuống mạch thẳm sinh tồn. Rồi khi ta cũng chịu ngập mình xuống đáy thẳm kia, thì kỳ tác nọ bỗng hiện thị như một Tòa Cổ Tháp nguy nga. Xin chép hết ra đây bài thơ đấy.

Mãi dâng trọn hồn vui

Mãi dâng trọn hồn vui muôn độ trước

Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi thêm chi?

Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi

Gió bốn hướng dằng co trong tử biệt

Tiếng rên siết giờ tàn khi chấm hết

Cảnh thường xuyên đêm sáng đổi thay màu

Tim nhói lên nức nở những Ban Đầu

Những giờ cuối rơi rơi thầm tuyệt vọng

Hay đời hỏi thịt êm và tủy nóng

Tôi xin nằm yên ổn cả chân tay

Nắng có lên không mượn rợp cây bày

Mưa có xuống thêm băng hàn chút nữa

Trong đầy ải mình trần tê ngọn lửa

Tiệc chim bằng rỉa rói một lòng đơn

Nếu tôi đau mà người nhẹ căm hờn

Chắc hoa núi vui lay ngàn đóa mộng

Muôn miệng thắm tươi nụ cười hé rộng

Muôn chân say lay động khúc quân thiều

Nếu tôi đau mà người được tin yêu

Trang sách nhỏ nâng niu hồn xứ lạ

Trên đêm thúy hoa nô liều áp má

Đôi bạn đời tay dính nhựa a-giao

Nếu tôi đau, Trời đẹp! Nếu tôi đau

Mà muôn đời mưa nắng hiểu lòng nhau.

Jesus Christ lúc lên Calvaire, ắt Ngài cũng âm thầm nguyện cầu như lời đó. Ngài đã về giữa bụi hồng, rửa chân cho bụi hồng nhân gian, bây giờ Ngài vĩnh biệt nhân gian, bây giờ Ngài vui lòng vĩnh biệt, và lời chúc phúc tối hậu của Ngài hẳn nhiên là: bụi hồng ở lại hãy tiếp tục rửa chân cho nhau.

Còn Như Lai? Như Lai ỡm ờ niêm hoa vì tiếu:- “Ta có thấy bụi hồng nào đâu? Ta đâu nào thấy đâu có bàn chân chi đâu mà rửa với chẳng rửa? - Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà?..”.

Như Lai có cái tài tình trong phép đánh trống lảng. Đọc mấy bộ kinh Phật, ta xin xóa hết những nhan đề “Kim Cương Kinh, Bát Nhã Kinh, Bà Là Mật Kinh, Hoa Nghiêm Kinh, Pháp Hoa Kinh, Diệu Hoa Kinh, Huyễn Hoa Đệ Nhị Kinh, Ảo Hoặc La Treizième Kinh…” Xóa hết và chép lại là: “Như - Lai - đích - đánh - trống - lảng - tài - tình - tuyệt - kỹ - kinh.

*

Hồ Dzếnh

Ta không muốn nắn cung đàn

Đêm xưa dạo dưới trăng vàng đợi em

Bền gì thấp thoáng hương duyên

Đẹp gì mấy sợi mây huyền gọi mơ

Thơ dâng ngùn ngụt sắc cờ

Máu tươi hoen ố những giờ ái ân

Quên chân là khách dương trần

Trái tim đau xót bao lần vì yêu

Bình minh về ánh cao siêu

Lên thay lửa sống tiêu điều ngày xưa

Ta cười thấy cháy duyên mơ

Hân hoan khi xé những tờ… rất thơm

Ý thiêng choán hết linh hồn

Còn đâu gió nhớ cung buồn mà ca

Lần đầu trước bóng em xa

Không nghe run trái tim và…rất vui

(Hoa Xuân Đất Việt)

*

Nguyễn Du

Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân…

Những câu thơ đẹp thiên hình vạn trạng, Nguyễn Du đã dành riêng cho Thúc Sinh một bồ rất lớn.

Mày xanh trăng mới in ngần

Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa…

Lưu tâm tới những vần riêng biệt Nguyễn Du dành riêng cho Thúc Sinh, ắt ta sẽ nhận ra một ngụ ý sâu thẳm của Nguyễn Du. Người ta sẽ không xô bồ đứng trên quan điểm tâm lý học để bảo rằng Nguyễn Du đã tả được linh động một nhân vật nhu nhược, sợ vợ, hèn nhát, v.v…

Hình ảnh Thúc Sinh sẽ đứng tại Trung tâm cái vùng tư tưởng thăm thẳm của Liệp Hộ, mà Dịch Kinh sẽ chiếu cố tới bằng những tiếng chả hạn như: “nhứt tịch nhứt hạp vị chi Biến, vãng lai bất cùng vị chi Thông…”

Hoặc: “phù kiền thiên hạ chi chí kiện dã. Đức hạnh hằng dị trĩ tri hiểm. Phù khôn thiên hạ chi chí thuận dã. Đức hạnh hằng giản dĩ tri trở…”

Hoặc: “Nguy giả, an kỳ vị giả dã. Vong giả báo kỳ tồn giả dã. Loan giả hữu kỳ trị giả dã. Thị cố quân tử an nhi bất vọng nguy, tồn nhi bất vọng vong, trí nhi bất vọng loạn…”

Vân vân vân vân. Và mọi thứ vân vân đều có thể lược giảm về một tiếng đơn sơ “vô khả, vô bất khả”.

Riêng một sự nhầm lẫn dị thường của học giả bấy nay về Thúc Sinh, đủ khiến chúng ta kinh dị hãi hùng, chẳng còn biết ăn nói gì ra gì được cả. Chẳng còn biết phải đặt vấn đề từ đâu ra đâu.

(Đã như vậy, còn biết rớ vào đâu mà bừa bãi nêu câu hỏi về Shakespeare, Homère, Lý Bạch, vân vân?)

Cái cuộc Kim Kiều dễ hiểu. Cuộc Từ Hải Kiều, cũng không rắc rối gì lắm. Nhưng cái cuộc Thúc Sinh Kiều, Hoạn Thư Kiều, lại là cái cuộc hàm hỗn gây náo động nhiều nhất trong tác phẩm Nguyễn Du.

Đừng nói chi xa xôi. Chỉ thử hỏi: - Riêng cái việc Kiều tắm hoa trong một mùa Hè, lúc lửa lựu lập lòe đơm bông ở đầu tường, riêng cái việc cô Thúy tắm thôi, đã có gì như một “biến cố” hãi hùng, đến nỗi Nguyễn Du đã phải để chàng Thúc vịnh vào chỗ đó, bằng một bài Đường Thi - nghĩa là bằng cả lịch sử thi ca Trung Quốc? Đem cả một khối lịch sử kia về mở đối thoại với cái tòa thiên nhiên dày sẵn đúc kia, Nguyễn Du có dụng ý gì? Và từ đó Thiên Nhiên (Phusis) đã thành Tượng?

Người ta sẽ xô bồ đáp một cách nông nổi rằng: - Nguyễn Du chả có đặc biệt dụng ý gì hết cả. Ông phỏng theo truyện Tàu, trong truyện Tàu có bài thơ vịnh Kiều tắm, thì ông Nguyễn Du cũng nhắc qua loa cái chuyện Thúc Sinh Vịnh Kiều tắm đấy thôi. Hỡi ôi! Nếu xét cho cùng kỳ lý, thì trong truyện Tàu lại còn tỷ mỷ ghi chép bài thơ nảy lửa nọ ra:

Dạ nguyệt thanh lâu đảo ngọc hồ

Mỹ nhân thừa túy khiết cù du

Băng cơ thỏ phách tranh minh mỵ

Tuyết thái hoa âm bán hữu vô

Sở khởi đái tu hô bạn thức

Dạ hành hàm tiếu thiến nhân phò

Lâm ty khoái nhập phù dung trướng

Chẩm thượng đê thanh xướng chá cô….

Bây giờ chúng ta nghĩ sao? Có phải rằng bấy lâu nay những lời bàn tán của chúng ta về Nguyễn Du, chẳng qua chỉ là tán hươu tán vượn? Nếu có đúng chăng nữa, thì cũng phải nên trả hết những lời ấy về cho truyện Tàu của Thanh Tâm Tài Nhân?

Nếu câu hỏi não nùng ra như thế, bỗng nhiên chúng ta chạm phải một ẩn ngữ không cách gì trực tiếp giải đáp.

Trong truyện Tàu, quả thật Thanh Tâm Tài Nhân đã có dành cho cặp Thúc Sinh Thúy Kiều một chỗ nằm ngồi rộng rãi tình tứ miên miên. Há đâu phải đợi tới ông Nguyễn Du mới có!

Kiều tiễn Thúc Sinh đi, đề mười bài miên man những tán thán “kim tịch thi hà tịch?” những thở than “vấn quân hà nhựt tái quy đầu? Bất tri hà nhựt thị quy kỳ?”, chiêm vọng hương quan hà xứ thị?”…Thúc Sinh đi rồi, Thúy Kiều nằm trong giường mê man hoài niệm ngâm vịnh sáu bài trùng trùng điệp điệp những “tự quân chi xuất hỹ”, những “bất cảm thượng thanh lâu”, những “bất ngôn diệt bất ngữ”, những “vô nhựt bất nam tư”, “tư quân quân bất chí… vân vân…

Kinh khủng thật.

Những lời nồng nàn cháy bỏng máu me liên tồn thốt ra như thế, quả thật không còn coi trời đất ra gì. Chúng ta không dám nấn ná ở lại lâu. Ở lại lâu trong bầu khí hậu đó, ắt sẽ loạn mất tâm thần, tiêu ma tinh thể, còn đâu bình tĩnh sáng suốt mà nhận định đâu vào đâu để bàn tới dụng ý ông Nguyễn Du hay là dụng tâm của ông Du Nguyễn. Xếp lại mọi thứ đó, câu hỏi được nêu thành chất vấn như sau: “Cả ông Nguyễn Du, cả ông Thanh Tâm Tài Nhân, cùng có dụng tâm dụng ý gì, mà lại tả cái cuộc Thúy Kiều Thúc Sinh một cách não nùng thiết tha như thế?”

*

Phạm Hầu

Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân

Xa nắng chiều hoe nhạt mấy phần

Một cột đèn cao mơ góa bụa

Đường dài toan nối hận gian truân

Bốn câu thơ đầu bài “Lý Tưởng” của Phạm Hầu dường như kết tụ cả mối sầu của lớp người ngày trước… Sầu trong Lửa Thiêng, sầu trong những vần tịch mịch nhất của Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính… cùng tìm về đây hội họp. Bốn câu quá sức mênh mang trầm tịch. Dường như tất cả những buổi chiều cô tịch Việt Nam đã ngưng đọng lại một lần. Những buổi chiều Thừa Thiên, chiều Hà Tịnh, chiều Quảng Ngãi Nam, chiều Sơn Tây…

Nhưng mà thật ra trong bài thơ kia Phạm Hầu không có dụng ý tả buổi chiều gì cả. Nhan đề là “Lý Tưởng”. Người thy sĩ đi theo bóng lý tưởng đã bắt gặp màu sắc chiều tàn. Lý tưởng ở đâu? Thiết tha theo đuổi, nhưng chỉ nhìn thấy hoang vu. Chẳng ra lý tưởng là hoang vu hư không? Phải o bế hư không? Hôn phối với hư không, để thành tựu mộng hờ lý tưởng? Lý tưởng là mộng hờ? Biết rõ mộng hờ mơ góa bụa, sao vẫn cứ đeo đai đòi giao hoan với góa bụa?

Biết rằng vô ích sao tôi vẫn

Phung phí đời tôi mấy độ tươi

Cổ kim có một thi nhân, nghệ sỹ, hiền nhân chân chính nào, lại chẳng nhận ra chính mình trong lời thở than đó của Phạm Hầu?

Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc

Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ

Nói theo ngôn ngữ bình dân thì ấy chính là cái cuộc:

Thả mồi bắt bóng

Bóng bắt chẳng được

Mồi kia không còn

Há chẳng là

Đáng tiếc lắm ru?

Vâng. Biết rành rành rằng thế là đáng tiếc, mà sao vẫn cứ lu bù mài miệt trong cuộc đáng tiếc kia? Vì sao như thế?

Ấy bởi lẽ trầm trọng sau đây:

Thằng thi sỹ có cái cảm tưởng cắc cớ rằng: nếu từ bỏ cái cuộc cặm cụi loay hoay bắt bóng nọ, đã đành là trách được một cuộc đáng tiếc, nhưng vì lẽ gì, hỡi ôi! Chính cái sự tình tránh được cuộc đáng tiếc, lại chính đó là điều đáng tiếc khôn hàn, gay cấn trong mọi sự đáng tiếc ở đời.

Do đó, dù biết rằng đuổi đeo là đáng tiếc, là mòn thân mỏi thể, thân tàn ma dại, v.v… vẫn cứ ù lỳ đuổi theo mãi mãi suốt một bình sinh.

Thì cũng chẳng khác chi ông già Heidegger suốt một bình sinh cố công nhọc sức chạy đi kiếm tìm hư vô, để nắm lấy cái hư vô mà dắt dìu dẫn nó về cho Tại Thể đem nó ra mà thiết lập căn cơ cho Siêu Hình Học!!! Một hai lận đận nói mãi rằng Tồn Lưu chỉ có thể nhận diện mình là lúc Tồn Lưu chịu soi bóng mình trong tấm gương vô dạng của Hư Vô!

Một trận hiện diện dị thường trong khiếm diện gây nên một tình tự vừa hoang vắng vừa chan hòa, một khuyết phạp thường hằng lại để mọc ra xum xuê những lá cây viên mãn cứ xô ùa nhau rụng mãi.

Đó là cái tạm gọi là rappochement des extrêmes: participation totale et solitude.

Bây giờ chúng ta nên thư thả đọc lại bài “Lý Tưởng” kia, suốt từ đầu tới cuối, thử đọc thuộc một trận chơi, để xem mai sau trong chiêm bao, có còn cơ hội điều tra ra manh mối chập chờn kia của “Lý Tưởng”.

Lý Tưởng

Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân

Xa nắng chiều hoe nhạt mấy phần

Một cột đèn cao mơ góa bụa

Đường dài toan nối hận gian truân

Tôi theo tư tưởng vô cùng tận

Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu

Sáng sớm: rạng đông, chiều: chạng vạng

Những giờ mới lạ có bao nhiêu?

Thuở nhỏ đêm mơ nằm thấy bướm

Giờ không mơ bướm lại mơ thơ

Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc

Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ.

- Ao ước ngày mai sắc nắng thơm

Chiều mai thôi ráng nhuộm cô đơn

Chiều qua gió thổi lời tôi nguyện

Quên thổi giùm tôi hận chập chờn.

Tôi đợi người đây, Tuyệt Đích ơi!

Dẫu xa, xa cách mấy phương trời

Biết rằng vô ích sao tôi vẫn

Phung phí đời tôi mấy độ tươi.

Nếu bây giờ chúng ta đem cái tiếng “lý tưởng” của Phạm Hầu ra bài xích theo lối thô thiển của những người chuyên môn đẽo gọt từ ngữ theo lối phân tích tủn mủn “hợp thời trang”, thì ắt cái lý tưởng kia không còn đất đứng. Phải xóa sạch nó đi để dọn đường cho khoảnh khắc hiện tại. Người ta quên mất rằng mọi ngôn ngữ thi ca là của riêng thi ca. Chúng không có liên can chi tới cái ngôn ngữ máy móc. Chúng nằm trong cái mạch sinh động tuôn trào như một làn phi tuyền từ lòng đất uyên nguyên. Chúng nói lên cái niềm ngạc nhiên nguyên thủy của con người đối diện với cõi thế lưu ly. Nó quên bẵng mọi thứ nhân tuần cập kè trong xã hội ganh đua. Vì thế nó khai trừ cái “ký ức” lếu láo, cái “kinh nghiệm” bon chen, để phục hồi cái ký ức mênh mông, cái kinh nghiệm bát ngát trong những cuộc Lữ dị thường “trải qua một cuộc biển dâu…”

Muốn quên, thì phải có nhớ. Muốn nhớ thì phải có quên. Nhưng quên cái gì và nhớ cái gì? Người ta xao lãng sự xác định đó. Người ta hí hửng a dua lao đầu tới ghì chộp viên kẹo “mới” và cứ tưởng mình tân kỳ biết coi thường cái bánh cũ.

Nếu bây giờ chúng ta thử quên hết mọi giáo lý mà Ki Tô Giáo cũng như Phật Giáo ngày nay nói với ta, thì ắt cái hình ảnh nguyên thủy của Chúa Ki Tô và Như Lai sẽ hiện ra trong một niềm kinh thán bao la. Nếu ta quên đi hết mọi bài giảng giải chuyện Kiều của giáo dục nhà trường và của mọi ông học giả, ắt Nguyễn Du uyên nguyên sẽ hiện trở lại với cái vùng sương bóng của cuộc Lữ mênh mông Liệp Hộ, và của cơn Tịch Nhiên bất động của Thanh Hiên. Từ đó sẽ nảy ra một cuộc Hiện Diện vô ngần trong một cuộc Đối Thoại vô tức vô thanh. Vô tức vô thanh, vì nó không liên can chi tới những âm thanh của học giả. Vô ngần nghĩa là vô ngấn tích. Cuộc hiện diện vô ngấn tích vì nó nằm trong một trận khiếm diện dị thường đối với mọi thứ mưu toan thủ đoạn.

Bài thơ của Phạm Hầu đi về giải thích cho Gia Long cái thái độ im lìm của Nguyễn Du. Giải thích cho Gia Long? Nhưng có đời nào Gia Long hiểu. Những ông vua Gia Long là những ông Chúa Tể Vạn Vật, Những ông ấy không bao giờ chịu làm Kẻ Láng Giếng thơ mộng của Tồn Lưu. Biết rõ rằng những ông ấy không bao giờ nghe ra gì gì cả, nhưng Khổng Tử xưa cũng cứ mở cuộc Lữ Chu Du tới bên gùn ghè đối thoại. Đó cũng là một cách chịu chơi với Sa Mạc. Cuộc Chu Du của Khổng Tử từ đó mang trọn cái ý nghĩa câu thơ:

Một cột đèn cao mơ góa bụa

Đường dài toan nối hận gian truân.

*

Ngân Giang nữ sỹ

Xin tặng bà mấy câu thơ tôi lắp lại thơ bà một buổi chiều lỡ dở:

Hoa đào ngỏ vắng rụng mong manh

Tỉnh giấc trà suông liễu rủ mành

Đất lạnh xóm nghèo hoa chậm nở

Can tràng ai hẹn với ngày xanh

Ngày xưa chúng tôi không được đọc thơ bà. Sách Hoài Thanh Hoài Chân đã bỏ sót. Nay gặp bà trong sách của Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng. Thấy ông Bùi Khánh Đản họa thơ bà, tôi cũng xin nối điệu chút ít. Tôi không biết họa thơ. Xin gieo vài lời vịnh lạc lõng:

Mưa thu buổi sáng ướt thềm

Tiếng rên rỉ nọ còn thêm nỗi gì.

Dâng lên từng đợt lỗi nghì

Mùa xuân đã chết ai về gọi thu

Tôi đọc kỹ những bài thơ và văn xuôi của bà trong cuốn sách ấy. Tôi biết nói gì bây giờ? Chẳng lẽ lại lảm nhảm nói một điều quá hiển nhiên rằng thơ bà cũng quan trọng như thơ bà Huyện Thanh Quan? Đằm thắm não nùng như linh hồn Đoàn Thị Điểm? Bà hiện giờ ở đâu? Nếu quẩn quanh có mặt ở Sài Gòn? Thì chắc tôi xin rúc ra khỏi gian nhà, đi tìm thăm viếng bà.

Bài “Xuân Tưởng”, bà có ghi: “Dám mong các bạn thơ trả lời bằng những câu hỏi thơ này”.

Tôi cũng không thể trả lời bằng thơ. Trả lời bằng văn xuôi cũng không thể. Chỉ có thế viết câu hỏi của bà đã nêu ra:

Hoa đào múa cánh cuối đông rồi

Một vẫy tay tiên đủ tám bài

Ngày muộn trường văn tàn nét bút

Người làm thơ muộn đấy là ai?

Là ai? tôi không biết. Nhưng người làm thơ muộn có thể biết. Vậy để nhờ người ấy đáp.

Cách mấy mươi năm giấy mực già

Bất ngờ trùng hiện gió xưa hoa

Người làm thơ muộn nêu câu hỏi

Kẻ muộn làm thơ họa há là…

Tạm đáp dở dang như thế. Bây giờ tạm gọi là bình tĩnh yên ổn. Xin chậm rãi chép lại vài bài thơ của bà ra đây.

1. Ngày xưa

Ngày xưa có một người thơ

Vào rừng thông lạnh đợi chờ gió reo

Chim hôm loáng thoáng qua đèo

Cảnh chiều buông tiếng chuông chùa ngân nga…

2. Thế ra

Thế ra thu đã đến rồi

Thảo nào mưa gió tơi bời mấy hôm

Xa xôi ai đấy có buồn?

Thôn Dương ngành liễu võ vàng tương tư

3. Đêm mưa

Gió mưa ướt áo đủ rồi

Sao còn ngấm lạnh lòng tôi thế này

Ốm đau đã mấy tuần nay

Nét cười đã với tháng ngày trôi xa

Giờ không gạn chút vui thừa

Tựa song quạnh vắng nhìn mưa rơi buồn

Nhờ ai chắp hộ mảnh hồn

Đã vì đau giận rũ tan khắp trời

Mưa rơi từng giọt mưa rơi

Lòng ai có lạnh như tôi thế này

Kính thưa Ngân Giang nữ sỹ!

Vãn bối nhận thấy rằng thơ và văn xuôi của tiền bối đều đạt tới mức lô hỏa thuần thanh. Tiền bối hồn nhiên đạt tới như thế là vì tâm hồn tiền bối mênh mông? Hay là tiền bối có chịu khó luyện tập nhiều năm nên mới đạt được thập thành công lực?

Nay mai nếu tôi làm được bài thơ nào, tôi xin đề tặng tiền bối. Và nếu tiền bối cần thỉnh giáo điều gì, tại hạ cũng sẽ sẵn sàng chỉ vẽ cho. Chả hạn? - Chả hạn: tại hạ vốn là thằng thy sỹ đi khắp cõi uyên nguyên, siêu thực, gặp từ con chuồn chuồn nguyên thủy bão giông, tới con hùm thiêng thủy nguyên giông bão, vì lẽ gì tại hạ lại còn chiều chuộng những bài thơ chả có chi bão tố phong ba? - Đáp rằng: tại hạ đã chán ngấy hết mọi thứ phong ba bão tố rồi. Tại hạ thấy nó cũng ù lý le lói ra một thứ nhà ma đó thôi. Ích gì mà triền miên lâu ngày ở trong đó. Nên bế mạc sớm cho xong. Tại hạ tìm tới viếng thăm tiền bối, xin uống một tách nước trà đạm nhiên là đủ. Chỉ cầu mong một điều: trà kia không có pha thêm những bột phấn phồn hoa, và bàn tay pha trà không phải là bàn tay của một kẻ tốt nghiệp chuyên môn nơi một trường cao đẳng Trà Đạo, Trà Lý gì gì hết cả.

*

Vân Đài

Đọc ông Nguyễn Du mãi cũng chán. Rồi từ Đường Thi, nhảy vọt qua Tây Phương, chạy tìm những Tượng Trưng, Siêu Thực, Siêu Thể, Siêu Hình, hơn hai mươi năm, kể cũng đà tới lúc ớn khắp linh hồn. Thơ Nguyễn Công Trứ là một con zéro. Thơ Cao Bá Quát là một con zéro rưỡi. Thơ theo thể Đường Luật của các ông Nho học uyên bác, toàn là rờ rẫm cóp nhặt Tàu, những bộ xương khô quái gỡ. Hàng vạn bài na ná giọng điệu giống nhau.

Chỉ còn mấy bài của Ngân Giang nữ sỹ và Vân Đài nữ sỹ là có linh hồn. Hai bậc tiền bối này quả có chân thành. Có sống trọn linh hồn. Bài thơ hai bà làm đúng là bài thơ sông núi. Dù có sáo chăng nữa, thì đấy cũng là cái sáo của sông núi phát tiết ra.

Yêu thương dậy lại đầy trời

Lòng ơi! Đường cũ núi đồi còn đây

Đọc câu thơ như thế, quả thật tại hạ muốn làm đứa bé xách giép cho bà, đi sau chân bà, ủng hộ bà trong cuộc ngao du sơn thủy.

Kể chuyện Nerval! Heidegger cho bà nghe.

Bà cũng biết uống rượu

Giốc cạn duyên thơ quá chén rồi

Men nồng thắm đỏ khắp hồn tôi

Vui không có bạn sầu không có

Nằm giữa lòng trăng khóc giữa trời

Đầu ngã cành xanh vai vũ trụ

Tay ôm hương sắc những mùa tươi

Quên nghe thời khắc quên năm tháng

Say uống hương hoa giữa suốt đời

Cái thứ rượu bà uống say kia té ra không phải la de hoặc rượu đế. Tại hạ mừng hụt. Phải chi tiền bối uống rượu thật sự, thì mỗi phen nhậu nhẹt, ắt tiền bối gọi tại hạ tới cho nhấm chút ít.

Dù sao hai câu thơ đồ sộ bát ngát của tiền bối cũng an ủi vãn bối phần nào:

Vui không có bạn sầu không có

Nằm giữa lòng trăng khóc giữa trời

Quả thật bốn ngàn năm văn hiến Việt Nam, chỉ có thể cho nảy hột tinh hoa ra hai câu thơ như thế. Phải chi ông Nguyễn Du, ông Nguyễn Trãi còn sống thì vãn bối đem hai câu thơ ấy đọc cho hai ông nghe.

Lục bát của bà trong bài “Biệt ly” cũng thật dịu dàng. Ta phải coi Vân Đài nữ sỹ như bà ngoại bà nội chúng ta, thì mới cảm hết cái chỗ mênh mông trong mấy vần này:

Lòng ta tràn ngập nỗi buồn

Như người đứng ngã ba đường nhớ ai

Trái tim hồi hộp thở dài

Hòa theo với tiếng bốn trời tiễn đưa

Sáng nay mây trắng bơ phờ

Gió ngừng mặc rặng lau thưa bên nguồn

Thuyền đi sông nước ngại ngùng

Bến xanh xanh vẫn ngóng trông tháng ngày

Giang lăng cách trở đâu đây

Nghe đêm vượn hót nghe ngày chim kêu.

(“Tặng cảnh Cát Bà”)

*

Xuân Diệu

Nếu đọc Vân Đài và Ngân Giang, phải nghĩ rằng đó là lời thơ của bà ngoại bà nội chúng ta, mới cảm thấy hay thấm thía - thì đọc Xuân Diệu, ắt nên nghĩ rằng đó là thơ của một thằng em. Sự tình tứ đó sẽ đổi hẳn tính cách.

Sau ba mươi năm dài, trải bao trận phiêu du ngoài đời, cũng như lưu ly trong thi ca tư tưởng, ngày nay cầm lại cuốn Thơ Thơ, tại hạ cảm thấy một cái gì không thể tả. Đọc lại thơ Nguyễn Bính, thơ Lưu Trọng Lư, có thể không bồi hồi chi mấy. Nhưng đọc Thơ Thơ, lại khác hẳn. Dường như toàn thể tuổi xuân bỗng sống dậy kêu gào.

Xóa đi những lời lếu láo lải nhải, còn lại những lời chân thật riêng biệt chân thành của tuổi trẻ:

Không có cánh nhưng vẫn thèm bay bổng

Đi sâu trong sân mà nhớ chuyện trên trời

Trút thời gian tong một phút chơi vơi

Ngắm phong cảnh giữa hai bề lá cỏ

Thơ hồn nhiên rộng rãi như thế đúng là thơ của thiên tài tuổi trẻ.

Đi trong sân mà nhớ chuyện trên trời

Ngắm phong cảnh giữa hai bề lá cỏ

Chúng ta đã ngột ngạt vì thơ đoạn trường của Nguyễn Du, thơ đìu hiu của bà huyện Thanh Quan, thơ ồ ạt lếu láo của Nguyễn Công Trứ, thơ trắng trợn của Trần Tế Xương… thơ già trước tuổi của những thi tài nảy ra trong vòng mười năm nay…

Thì bây giờ cũng đã tới lúc xua ùa đi hết mọi thứ thơ não nùng kia, và đọc lại Xuân Diệu:

Vì sao giáp mặt buổi đầu tiên

Tôi đã đày thân giữa xứ phiền

Không thể vô tình qua trước cửa

Biết rằng gặp gỡ đã vô duyên

Kể từ sau 1945, các loại thơ này vốn không mảy may rung động chúng ta được nữa. Chúng ta đứng trước những phong ba, linh hồn chúng ta mang những ưu tư khắc khoải khác. Thơ trữ tình, thơ yêu đương vớ vẩn nhớ nhung kia, chúng ta bỏ trôi mất hút, không một chút bận tâm.

Nhưng rồi phong ba cứ dồn dập, càng ngày càng mang tính cách nhố nhế thêm ra, tủn mủn đầu độc thêm ra, thì ưu tư khắc khoải trở thành chuyện tầm phào, siêu thi, siêu tưởng, siêu triết… trở thành chuyện đĩ điếm. Văn chương văn nghệ trở thành chuyện bán cá ngoài trợ. Nợ tang bồng vay trả trả vay, trở thành chuyện phỉnh phờ con nít. Lưu thủ đan tâm, trở thành chuyện tán gái đâm toang. Chiếu hãn thanh, trở thành chiếu chăn mài cọ lầu xanh meo mốc.

Ngót hai mươi năm rồi, ngụp trong đó, chúng ta lừa lọc nhau và tự lừa dối mình. Bây giờ đã thấm mệt với cái trò nhảy nhót nhấp nháy kia. Thôi xin từ giã mọi thứ đó. Xin chạy theo sau thằng thanh niên ngây ngô ngày trước chơi một trận.

*

Hồ Dzếnh

Bài “Rằm Tháng Giêng” của Hồ Dzếnh quả thật là một bài thơ hay:

Chị tôi vào lễ trong chùa

Hai chàng trai trẻ khấn đùa hai bên

Lòng thành lễ vật dâng lên

Cầu cho tiểu được ngoài giêng đắt chồng

Chị tôi phụng phịu má hồng

Vùng vằng suýt nữa quên bồng cả tôi

Tam quang ngoài mát chị ngồi

Chị nghe đoán quẻ chị cười luôn luôn

Quỉ thần thóc mách mà khôn

Số này chồng đắt đẻ con cũng nhiều

(“Rằm tháng Giêng”)

Người Việt Nam có thể không đọc Nguyễn Du, nhưng không thể nào không đọc bài thơ kia của Hồ Dzếnh.

Bài “Lời Về” của ông riêng bốn câu cuối cũng đủ là một tuyệt tác cổ kim:

Vó ngựa từ ngày vỗ xuống Nam

Truông mòn đưa lối Hải Vân San

Áo nâu phai nhạt màu cây cỏ

Lá rụng hoa rơi đất nước Chàm

Một bài tứ tuyệt như thế đúng là một tặng vật của Đường Thi. Nhưng Đường Thi ghé xuống Việt Nam, Đường Thi đã nhảy một bước vô biên. Không còn Lý Bạch, Thôi Hiệu, Tô Đông Pha nào chạy kịp được nữa.

Vì trong đó có ba sử lịch đang gùn ghè nhau. Sử lịch Trung Hoa, sử lịch Việt Nam, sử lịch Chiêm Thành:

Lá rụng hoa rơi đất nước Chàm

Một câu thơ đơn giản như thế mang toàn khối Như Lai trong mấy trăm bộ kinh Phật. Và thừa dư công lực hư vô để thiết lập căn cơ cho Siêu Hình Học Tây Phương. Ông Heidegger khỏi phải bận tâm hỳ hục lôi cả Hoelderlin, Sophocle, Parménide, vào trong cuộc thiết lập cơ sở mới làm gì.

Cái cuộc Lữ dị thường của Khổng Tử bỗng nhiên tiếp giáp với Thái Hư Tịch Mịch trong bốn câu thơ kia của Hồ Dzếnh. Đó là điều mà trong tập Điêu Tàn của Chế Lan Viên, ta mỏi mắt tìm không thấy.

*

Đinh Hùng

Nguồn thơ của Đinh Hùng trong Mê Hồn Ca là nguồn thơ lạ nhất trong thi ca Việt Nam.

Tới Đường Vào Tình Sử, thì nguồn thơ kia bỗng như tắt ngấm. Đinh Hùng trở thành kẻ rờ rờ rẫm rẫm. Tuy nhiên, trong Đường Vào Tình Sử cũng còn mấy bài bát ngát ở lại buồn bã vô song.

*

Trần Thy Nhã Ca

Chợt tiếng buồn xưa động bóng cây

Người đi chưa lại dấu chân này

Bàn tay nằm đó không ngày tháng

Tình ái xin về với cỏ may

Rồi lá mùa xanh cũng đỏ dần

Còn đây niềm hối tiếc thanh xuân

Giấc mơ choàng dậy tan hình bóng

Và nỗi tàn phai gõ một lần

Kỷ niệm sầu như tiếng thở dài

Khuya chìm trong tiếng khóc tương lai

Tầm xa hạnh phúc bằng đêm tối

Tôi mất thời gian lỡ nụ cười

Đời sống ôi buồn như cỏ khô

Này anh em cũng tựa sương mù

Khi về tay nhỏ che trời rét

Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ

Bài “Thanh Xuân” của Trần Thy Nhã Ca nghe như lời chiếu cố của một vị Quan Âm Bồ Tát.

Tưởng chừng như nếu các vị Tổng Thống phu nhân ở thế giới tình cờ đọc được, ắt các phu nhân vui lòng cạo đầu sạch sẽ để đi tu.

Tôi tiếc mình không có tài bàn giải như Kim Thánh Thán Mái Tây, nên tìm không đủ lời tuyệt đối viết ra. Ngày mai ắt tôi sẽ chết không nhắm mắt được.

Thử nêu câu hỏi: Nếu như những ông Khổng Tử đọc bài thơ đó, ắt sẽ gây ra sự gì? Tất nhiên là các ông sẽ chẳng bận tâm hỳ hục soạn Kinh Thi, Kinh Dịch làm gì nữa.

*

Martin Heidegger

Ông ở lại trên mảnh đất đai Siêu Hình Học Âu Châu, ông cày bừa trên mảnh đất ấy. Suốt hơn một phần ba thế kỷ, ông cặm cụi vạch gai góc và gieo vài hạt giống trên mảnh đất ngổn ngang.

Những hạt giống đầu tiên gieo vào mảnh đất đầy chướng ngại, phải là những hạt giống thích hợp.

Thích hợp với cái gì? Với mảnh đất đai kia với những hàng rào vây bọc mảnh đất đai kia, với bầu khí hậu phong tỏa mảnh đất đai kia. Những gai góc đủ loại đã mọc đầy, bầu khí hậu bị vẩn đục, con người Siêu Hình Học Âu Châu không còn có thể nhìn ra tinh thể những “hàng cây sơ thủy” vốn đã mọc trên đó. (Trong tập thơ Lá Hoa Cồn ngày trước, tôi có ý muốn nói tới sự tình đó, trong những bài “Hàng Cây Sơ Thủy”, “Vào Nguyên Thủy Giục”, “Logos”, vân vân).

Những “hàng cây” nọ cần phải được nhìn ngó trở lại, muốn nhìn ngó trở lại, trước tiên phải tẩy gột những gì làm vướng nhãn quan.

Nhìn ngó trở lại để làm gì? Để đừng sa vào tình trạng vong bản. Quên mất cội nguồn bát ngát ban sơ, đó là lý do đã khiến những triết gia cận đại Âu Châu không cách gì mở đối thoại với Đông Phương.

Heidegger luôn luôn bảo rằng ông chẳng có ý dựng triết thuyết gì cả. Tư tưởng của ông chỉ là một tư tưởng chuẩn bị - nhứt điều chuẩn bị đích tư tưởng. (Xem Sương Bình Nguyên và Trăng Châu Thổ).

Chuẩn bị cho cái gì? Đáp: cho một trận đối thoại về sau giữa Tây Phương và Đông Phương.

Do đó Heidegger lập ngôn trong một Nếp Gấp Nhị Bội, mà các triết gia Âu Châu ít chịu lưu ý tới. Cái điều đối với Heidegger chỉ là điều tạm thời, tạm bợ, người ta cho đó là điều cốt yếu. Cái điều cốt yếu thì Heidegger lại nói thoảng qua trong những mệnh đề phụ - là những hạt giống lơ thơ gieo ra trong một vùng sương bóng vô tức vô thanh tiếp giáp với lục bát thi ca Việt Nam bất tuyệt.

Waehlens theo dõi tư tưởng Heidegger nhiều ngày, vẫn không nhận ra điều cốt yếu nọ. Mọi triết gia bàn tới Heidegger đều bàn lui bàn tới những thứ ở ngoài mép rìa. Nghĩa là: đăng đường thì có, mà nhập thất thì không.

Chung quy có lẽ chỉ vì họ mãi mãi ở trong cái tình trạng: thấy sự vụ đương nhiên là thế, mà không rõ đâu là nguyên do sử lịch đã quyết định sự vụ là thế.

Hoặc nói theo ngôn ngữ người Trung Hoa:

“Tha môn hiển nhiên thị chỉ tri kỳ đương nhiên, nhi bất tri kỳ sở dĩ nhiên”.

Khổ thay. Nếy bây giờ chúng ta lò dò chạy hỏi ông Heidegger xem sự tình gay cấn đó có phải có nguyên nhân éo le như thế chăng, thì Heidegger ắt lửng lơ niêm hoa vi tiếu theo lối Khổng Tử ỡm ờ: - Tại hạ quả thật cũng chả rõ đâu vào đâu cho lắm… Kính thưa các hạ ạ! Kỳ trung nguyên nhân, lão hủ nhứt thời giả thuyết bất thanh sở. Phản chính cứ lão hủ sở kiến, tam thành tựu thị giá dạng đích lặc…”.

Đó là phong thái của những nhà đại tư tưởng cổ kim. Họ đáp theo lối lửng lơ. Trong khi học giả xô bồ, bao giờ cũng tấp nập nối đuôi nhau tấn công ông già kia một cách ráo riết.

Cái thái độ ráo riết kia đã bao phen khiến cho mọi cuộc đối thoại chân chính đành phải chịu phần chấm dứt ngay khi mới vừa khởi đầu.

Nếu bây giờ chúng ta thử bỏ ra khoảng chín mươi chín năm đọc lại Heidegger, ắt là chúng ta sẽ dần dà nhận thấy rằng: cái hạt giống mong manh mà Heidegger đã gieo vào mảnh đất Siêu Hình Học Âu Châu, cái hạt giống bé bỏng đó quả thật đã manh nha mọi thứ cây cối đồ sộ, mà về sau thiên hạ sẽ thi đua nhau về leo trèo hái ngắt mọi thứ hoa quả và có thể tưởng lầm rằng hoa quả ấy là của riêng mình trồng trọt ra, chứ chẳng phải của ông Heidegger hoặc Martin gì ráo!

Định mệnh của những tư tưởng hoằng viễn xưa nay, vẫn mãi mãi là như thế. Những kẻ gieo giống chả bao giờ thấy cây mọc, chẳng bao giờ thấy đâm hoa kết quả, chẳng bao giờ thu hoạch mùa màng. Họ chỉ phụng bồi cho cuộc gieo hạt, và hơn nữa, phụng bồi cho cuộc soạn sửa gieo hạt mà thôi.

Il ne servent qu’aux semailles, et même, plutôt à là préparation de celles-ci. Sie diene der Aussaat und eher noch der Vorbereitung dieser.

(Xem Trăng Châu Thổ, trg 467-468).

Heidegger là kẻ nhìn thấy rất rõ duyên do cuộc tẩu hỏa nhập ma của những Nietzsche, Hoelderlin, và - nhẹ hơn - của Rilke. Ông muốn tránh cho những nhà tư tưởng, những kẻ sáng tạo mai sau khỏi lâm vào tình trạnh tẩu hỏa nhập ma - đó cũng là một trong những duyên do dã khiến ông lập ngôn một cách dị thường ẩn mật.

Nếu bây giờ chúng ta suy gẫm về Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, nếu ta nghĩ rằng viết Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du tuyệt nhiên chẳng có ý ký thác tâm sự riêng tây của “di thần triều Lê” gì gì cả, thì sự vụ ắt còn rọi vài tia sáng vào cuộc lập ngôn của Heidegger. Nếu như Nguyễn Du viết Truyện Kiều với cứu cánh trực tiếp mở đối thoại với Gia Long? Gián tiếp mở đối thoại với Trung Hoa? Và rộng rãi hơn: mở đối thoại với sử lịch Đông Phương? Hoặc: mở đối thoại với tứ hải? - Thì từ đó, những nếp gấp khôn hàn nào trong Truyện Kiều sẽ chậm rãi mở ra? Và từ đó chúng ta sẽ “làm thơ” theo thể thái nào để đáp ứng?

Bây giờ để thử tránh lỗi tư tưởng một chiều. Chúng ta hãy nêu vài câu hỏi liên can tới tới Nietzsche.

Sự tình “đương nhiên” là Nietzsche có xô bồ công kích Jésus Christ. Nhưng đâu là cái lẽ “sở dĩ nhiên” của cuộc đó? Sau cuộc đó, Nietzsche bị tẩu hỏa nhập ma. Ông thật “bị” tẩu hỏa nhập ma, hay là ông cố tình lao đầu vào chịu trận tẩu hỏa nhập ma? Nếu ông có cố ý, thì đâu là duyên do sự cố ý ấy? Nếu đem sự tình kia ra hỏi Nguyễn Du, thì Nguyễn Du sẽ đáp bằng câu thơ nào trong Truyện Kiều? Khổng Tử sẽ phụ họa vào câu thơ đó bằng cái lời nào của Ngài? Thằng thi sỹ Việt Nam ngày nay có nên nêu mọi sự đó ra bàn luận trực tiếp? Nietzsche có bằng lòng thuận để cho nó nêu ra hay là Nietzsche sẽ bảo rằng: “vấn đề đối với các hạ bây gờ là nên sớm đánh mất tại hạ đi!” Đánh mất bằng cách nào? Sao gọi là đánh mất? Lặng lẽ giũ áo ra đi, hay là lao mình tới công kích? Hay là vừa công kích, vừa bỏ đi, vừa thân tặng ông vài vần thơ lây lất? Hay là chịu chơi gay cấn bảo rằng: - Nhân danh là thi sỹ Việt Nam, tôi xin nguyện làm nô lệ ông suốt đời?

*

Nguyễn Du

Từ rằng: ân oán hai bên

Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh

Nàng rằng: nhờ cậy uy linh

Hãy xin báo đáp ân tình cho phu

Báo ân rồi sẽ trả thù

Từ rằng: việc ấy để cho mặc nàng

Hai lần Từ Hải dùng tiếng “mặc nàng”. Để cho mặc nàng. Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh.

Rồi Từ Hải im lặng suốt buổi. Trong cơn im lặng, Từ Hải đã nhìn thấy Kiều chẳng minh mẫn gì hết. Nhưng không hề gì. Điều trầm trọng là cái tiếng “mặc nàng” Nguyễn Du đã để cho Từ Hải thốt lúc bấy giờ.

Hai tiếng “mặc nàng” đó ngày sau sẽ quyết định cuộc đầu hàng của Từ Hải. Việc bây giờ để cho mặc nàng, thì mọi việc về sau cũng sẽ để cho mặc nàng quyết định.

Nghe lời nàng nói mặn mà

Thế công Từ mới đổi ra thế hàng

Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng

Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh

Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng. Nguyễn Du dùng tiếng “vội vàng” một cách thật kỳ bí. Càn khôn vũ trụ gì cùng theo nhau điên tam đảo tứ hết cả, trong hai tiếng vội vàng kia. Cái “triều đình riêng một góc trời” của Từ Hải đang lăn lóc quay lông lốc trong hai tiếng vội vàng.

Từ Hải “chịu chơi” đến cái mức bất khả tư nghị. Tuyệt đỉnh của thiên tài Từ Hải là ở chỗ đó. Trong một nháy, đem xô ùa hết cả cứu cánh đời mình để đáp lại những lời “nhạt như nước ốc” của Kiều. Nhạt như nước ốc, mà chàng thấy mặn mà khôn tả, ấy bởi vì cõi lòng của kẻ anh hùng vốn là: đã chịu chơi, thì bất kể lam hồng tạo bạch. Từ Hải và Tú Bà là hai thái cực. Nhưng đáo cùng, hai thái cực khác nhau ở hai điểm:

Chơi cho liễu chán hoa chê

Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời

Từ Hải đã vì Thúy Kiều mà nghênh ngang dựng một cõi biên thùy, theo chàng nói:

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng loa giậy đất uy linh rợp đường

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nường nghi gia

Nhưng bây giờ Kiều đã bảo “Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào” thì lập thời Từ Hải vội vàng xóa bỏ hết cái cuộc kia.

Tin lời thành hạ yêu minh

Cái niềm tin thật sự của chàng đã mất, thì bây giờ chàng trở thành đứa bé thơ ngây, tin mọi thứ tầm phào vậy.

Tin lời thanh hạ yêu minh

Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng…

Từ công hờ hẫng biết đâu

Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên

Những tiếng “hờ hẫng, trễ tràng, ngơ ngác”, Nguyễn Du dùng một cách não nuột quỷ khốc thần sầu.

Tôi viết vội vã. Tôi không có một ngàn năm ở trước mặt. Nhưng kẻ nào có được trước mặt một ngàn năm, thì hãy thư thả đọc lại Nguyễn Du và sẽ khám phá ra nhiều thứ thiên thu vạn đại khác.

Heidegger bảo rằng: “nhà tư tưởng càng hoằng viễn, thì phần vô ngôn trong sách họ càng khôn lường”. Lúc nói câu đó, Heidegger ắt là có nghĩ tới Nguyễn Du vậy.

Phần vô ngôn khôn lường? Khôn lường đối với mọi người và khôn lường tự mình đối với mình. Người tư tưởng (cũng như thi nhân) không bao giờ lường được hết tư tưởng mình. Đọc tư tưởng, đọc thi ca, từ đó chúng ta chỉ có thể nêu những câu hỏi đại khái kỳ dị như sau:

1. Vì sao con đường đi trong đó không bằng phẳng?

2. Đó có phải là một lối cưỡng bức không?

3. Nguyễn Du đã cưỡng bức đủ điều. Heidegger đi tới đâu cũng cưỡng bức tràn lan tới đó. Cưỡng bức Nietzsche, Rilke. Rồi quay lại tự mình cưỡng bức chính mình.

4. Cổ kim có nhà tư tưởng nào tự mình cưỡng bức mình nhiều như Nietzsche, như Heidegger, như Sade? Sự đó có liên can mật thiết gì tới Khổng Tử, Jésus Christ hay không?...

*

Hoài Khanh

Qua sông là một nhịp cầu

Qua tôi là một kiếp sầu vô chung

(“Tự Tình” - Dâng Rừng)

Thế ra tôi đứng ra để đón lấy kiếp sầu vô chung? Tôi là Tại Thể? Da-sein? Tôi đón lấy sầu kia và thể nghiệm mối tương quan giữa Dasein và Sein? Giữa Tại Thể và Tồn Thể?

Qua sông là…

Qua tôi là…

Thy sĩ hai lần dùng tiếng là. Hai lần dùng tiếng qua.

Nhịp cầu là cái gì qua sông. Sầu vô chung là cái gì qua tôi. Ông Hedeigger trong cuốn Siêu Hình Học Là Gì, đã từng đem cái sầu, khắc khoải, làm tinh thể của Dasein, trong mối sầu đã “nhảy vọt” một cái, băng qua mọi thể hiện của dung nhật thường lệ, và tiếp giáp với mạch tồn thể uyên nguyên.

(Đó cũng là mối sầu bàng bạc khắp Truyện Kiều)…

Nhịp cầu là cái gì giúp qua sông, thì sâu vô chung cũng là cái gì giúp đáo bỉ ngạn.

*

Dịch

Từ trong tinh thể của nó, dịch là tái tạo. Sự ấy dường như quá hiểu nhiên. Ông Nguyễn Du, ông Nguyễn Khắc Hiếu đều tái tạo triệt để trong các bản dịch chuyện Tàu của các ông.

Nhưng nói gì xa xôi. Thử nói gần gũi hơn. Nếu bây giờ ta đem Truyện Kiều dịch trở lại bằng văn xuôi Việt Ngữ, hoặc bằng thơ thất ngôn, ngũ ngôn, thì ấy cũng là tái tạo.

Một ca nhi đem một bài ca, ca lên, cũng là tái tạo bài ca.

Xét cho cùng, mọi hành động và vô vi, cũng là tái tạo. Tái tạo bằng hơi thở riêng biệt một lần.

Tôi có cảm tưởng rằng lúc thật sự “sáng tạo”, tôi lại cũng đang dịch. Tôi viết vần thơ “độc đáo” nào, cũng là đang dịch. Tôi dịch lại ông Nguyễn Du, ông Hồ Dzếnh. Cũng như ông Nguyễn Du ông Hồ Dzếnh đã từng dịch người trước, và người trước đã từng dịch người xưa, hoặc dịch một cái gì đó ở trong vạn vật đang muốn hiển hiện liên tồn trong âm thanh ngôn ngữ.

Và những người cho rằng kẻ dịch không có tinh thần sáng tạo, những người ấy cũng đang dịch.

Vậy bây giờ chúng ta hay thi đua nhau dịch, và thi đua nhau bỏ dở dang cuộc dịch, và đừng thi đua gì hết cả, để cho cuộc dịch tự nó thành tựu thể thân nó. - “Trời có nói gì đâu… bốn mùa vẫn chuyển nhịp tuần hoàn… Trời có nói gì đâu…” (Khổng Tử)

*

Kể từ Nguyễn Du và Shakespeare

Hai ông này giống nhau nhiều nhất ở điểm: nêu sự tình bi đát cùng độ, để thỉnh thoảng cho len lỏi vào những lời thơ phiêu bồng thơ ngây khôn tả. Nghĩa là nói cách khác: nêu ra sự chấn động của toàn khối hiện thể để khiến người ta khơi lại mạch nguồn tồn thể (Đó cũng là dụng ý của Nietzsche).

Ông Khổng Tử ngày xưa thì lại cố tình che dấu hết mọi cuộc chấn động hỗn độn. Chẳng phải là ông không biết. Ông biết cùng cực nhưng ông không nói - tri hiểu nhi bất ngôn chi.

Ông Camus Nietzsche cốt cách giống như Khổng Tử, muốn sống và lập ngôn như Khổng Tử, nhưng không thể nào được. Lịch sử đi tới một buổi hoàng hôn riêng biệt.

Trong nền thi ca Việt hiện đại, Nguyễn Thị Hoàng và Trần Thy Nhã Ca là hai hình ảnh biểu hiện nỗi thống khổ cùng cực của lịch sử nhân loại. Những Thánh Nữ Simone Weil không còn lối bước đành làm miếng mồi mềm mại cho những trận Tẩu Hỏa Nhập Ma. Hình như ngành Y Khoa hiện đại đủ sức trị liệu chứng bệnh đó.

*

Dịch

Từ trong tinh thể nó, Dịch là làm điều cưỡng bức. Dịch văn xuôi là điều cưỡng bức. Dịch thơ lại càng là cưỡng bức triệt để hơn nữa.

Đừng nói chi tới sự vụ dịch thơ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Chỉ thử hỏi: Có thể nào đem thơ Việt, dịch ra trở lại làm thơ Việt được không? Có thể nào đem thơ lục bát dịch ra làm thơ thất ngôn, hoặc ngũ ngôn, hoặc song thất lục bát, hay là thơ tám chữ?

Nói triệt để hơn nữa: Có thể nào đem thơ lục bát dịch trở lại làm thơ lục bát? Chính ông Nguyễn Du, ông có thể nào tự mình đem thơ lục bát của mình dịch trở lại làm thơ lục bát?

Không. Lời thơ kia chỉ hiện ra một lần trong phong thái riêng biệt của anh hoa phát tiết một lần. Buộc nó phải hiện ra trở lại trong phong thái khác, thì anh hoa tài tử có thể cho phát tiết một lần nữa, nhưng lần sau không còn là lần trước.

Màu xanh của biển chiều thu năm nay không phải màu xanh của biển chiều thu năm ngoái. Màu xanh biển phút trước, không phải màu xanh biển phút sau. Luôn luôn trong vạn vật cũng như trong sinh hoạt tâm linh, có một trận tái tạo không ngừng. Phải chấp nhận sự đó như là điều hiển nhiên, thì mọi cuộc dịch dy mới có thể còn chút gì chính đáng trong cơn liên tồn cưỡng bức.

Trái lại, nếu quan niệm hẹp hòi, nếu cho rằng dịch phải thật “sát”, không được cưỡng bức dịch dy, thì mặc nhiên người ta đã cưỡng bức một cách không chính đáng. Vì cuộc cưỡng bức nọ không đưa tới tái tạo tinh hoa, mà dẫn tới nô lệ ngục tù, nghĩa là sát phạt tinh hoa.

Thử đưa một thí dụ. Truyện Kiều mở ra với bốn câu:

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

Nếu người dịch là kẻ tài hoa, ắt nhận thấy rằng điều cốt thiết trong mấy câu thơ kia, chẳng phải là cái ý tưởng nó hàm ngụ - ý tưởng “tài mệnh tương xung”, “cõi người ta trăm năm ngắn ngủi”, “cuộc biển dâu thương hải tang điền”… là những ý tưởng sáo. Trái lại, cái chỗ bất tử, cái chỗ huyền diệu của câu thơ kia lại là ở những điệp thanh, điệp âm, đối ngữ…

Trăm năm - một cuộc - những điều…

Trong cõi - trải qua - trông thấy…

Chữ tài - chữ mệnh…

Khéo là ghét nhau - mà đau đớn lòng…

Một cuộc tương tranh, một cuộc xô xát, trong một cõi trăm năm, được âm ỷ nêu ra âm thầm triền miên trong những đối ngữ, điệp âm nọ. Đó là cái chỗ thần diệu phát tiết của thơ. Vậy lời dịch làm sao tái lập được cái chất linh diệu đó?

Ông René Crayssac, ông Trương Cam Vũ, vô tình hoặc hữu ý đã tái tạo được trong hai bản Pháp Ngữ và Hoa Ngữ cái chất thơ âm thầm triền miên trong cốt cách lục bát Việt Nam. Mỗi ông theo mỗi lối, thuận theo tinh hoa ngôn ngữ mình, đã thể hiện trở lại trong bản dịch được chín phần mười tinh hoa ngôn ngữ.

Hãy xét bốn câu của Trương Cam Vũ trước:

Nghịch lữ nhân sinh bách tuế trung

Mệnh tài lưỡng tự xảơ tương xung

Nhất kinh thương hải tang điền biến

Mục kích tâm thương kỷ vãng tung

Có thể nghĩ rằng đó là do ngẫu nhiên mà Việt Ngữ và Hoa Ngữ đã hôn phối chặt chẽ. Cũng có thể nghĩ rằng ấy là do cuộc tương giao hằng bao thế kỷ mà nảy ra kết quả đẹp đẽ kia. Dù sao thì dù, lời thơ dịch đã không bỏ lạc cái cốt yếu trong thơ Nguyễn Du. Xin ghi ra những ngôn ngữ gùn ghè tịch hạp:

Bách tuế - lưỡng tự - nhất kinh (trăm năm - hai chữ - một trải qua.)

Đó là những đối ngữ. Và đây là những điệp thanh:

Tuế - tài - tự - tương - tang - tâm - tung nhất kinh - mục kích - thương hải - tâm thương…

Bốn câu dịch bốn câu, Trương Cam Vũ có thể tái lập được chừng đó điểm đặc biệt, lại còn dịch được tiếng “khéo là ghét nhau” ra làm “xảo tương xung” - Thế là người dịch đã thể hội huy hoàng cứu cánh của công việc vậy. Ông vừa thong dong đi sát ý, lại còn thể hiện được viên mãn cái hồn thơ.

Bây giờ xét tới lời dịch của René Crayssac. Crayssac sử dụng Pháp ngữ, Crayssac không thừa thụ những thuận lợi như Trương Cam Vũ - những thuận lợi do những tương giao lâu ngày giữa Hoa Ngữ và Việt Ngữ đem lại - Crayssac đã phải cưỡng bức như thế nào, theo đường lối nào, trong lời dịch?

Những đối ngữ đi mật thiết sát gót nhau trong bốn câu nguyên tác, Crayssac không cách gì thể hiện lại được, thì ông thể hiện theo lối khác bằng cách dịch dôi ra và đưa vào những điệp thanh phong phú.

Bốn câu của Nguyễn Du, ông phải dịch ra làm mười hai câu cả thảy mới tạm gọi là lột được phần nào tinh hoa nguyên tác:

Cent ans - le maximum d’une humaine existence!

S’écoulent rarement sans qu’avect persistance

Et comme si le Sort jalousait leur bonheur,

Sur les gens de talent s’abatte le malheur

Subissant l’âpre loi de la métamorphose,

On voit naitre et mourir si vite tant de choses!

Bien peu de temps suffit pour que fatalement

Surviennent ici-bas d’étranges changements,

Pour que des vert muriers la mer prenne la place

Tandis que, devant eux, ailleurs, elle s’efface!

Or, dans un temps si court, ce que l’observateur

Peut bien voir ne saurait qu’endolorir son coeur.

Nhận định thấy gì?

Những tiếng “trăm năm, một cuộc, những điều” của Nguyễn Du không còn có thể đi sát nhau đẻ gùn ghè mật thiết, vì chúng bị loãng mất trong mười hai câu dài dậm duộc.

Nhưng Crayssac ngược lại đã biết tận dụng những điệp thanh lai láng để thể hiện chất thơ bàng bạc của Nguyễn Du. Xin chép ra đây những âm thanh âm vận láy đi láy lại:

Cent ans - s’écoulent - sans que - comme si - le sort - sur les - s’abatte - subissant si vite - suffit - surviennent - s’efface - si court - ne saurait - son coeur -

Ngoài ra, những đối ngữ thật sự của Nguyễn Du mà Crayssac không thật sự tái lập được, thì ông cũng đã tái lập đối ngữ theo cách khác:

Sans qu’avec - et comme si - Bonheur - malheur

Nâitre - mourir

Tant de choses - bien peu de temps

Prenne la place - elle s’efface

Trên đây chỉ là một trong muôn ngàn thí dụ khác có thể đưa ra khi bàn tới chuyện dịch. Dù sao, điều cốt yếu, chẳng phải là đạt hay không, có lẽ… Điều cốt yếu, là ý thức về cái chỗ gay cấn kia, lúc khởi sự đọc văn thơ. Thơ Nerval, thơ Apollinaire, Baudelaire, Whitman, Dickinson, Rilke, Nietzsche, Heidegger, vân vân, đã bao phen khiến người dịch đành phải bó tay, bó chân, xin nhảy lùi từng trận.

Vậy nên kẻ biết dịch là kẻ biết nhảy lùi. Vì dịch là tư tưởng một cách nghiêm mật. Kẻ tư tưởng thâm viễn bao giờ cũng nhảy lùi. Kẻ biết dịch tối cao, là kẻ không bao giờ chịu dịch. Trường hợp buộc phải dịch, thì đành cưỡng bức. Cưỡng bức để đưa tới đề huề. Trường hợp không thể đưa tới đề huề, thì đành tái điệp nhảy lùi, song trùng bỏ cuộc. Bỏ cuộc thì kể cũng đìu hiu. Bèn nhảy vô cuộc trở lại. Rốt cuộc? Rốt cuộc, con người tẩu hỏa nhập ma sa vào giữa một vòng lẩn quẩn kỳ quặc. Trong cái vòng lẩn quẩn kỳ quặc ấy, hốt nhiên lời thơ Nguyễn Du lại thị hiện một cách não nùng:

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

Thơ Nguyễn Du thị hiện một cách đoạn trường như thế, thì sự cố nào xảy ra cho thằng tài tử? Ấy là sự cố Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn… Mọi bài thơ tôi viết ra, đều là vịnh thơ Nguyễn Du tại chỗ gay cấn âm thầm nhất. Dịch thơ từ đó biến ra làm Vịnh Kiều, trong từng cơn cưỡng bức. Thơ Nguyễn Du cũng là tự mình cưỡng bức mình. Người ta công kích thơ tôi, chẳng qua chỉ vì người ta tưởng rằng tôi làm thơ đưa ra cái gì độc đáo lắm.

Lại có kẻ cho rằng thơ tôi làm u ẩn, súc tích, hơn thơ Nguyễn Du. Ấy chẳng qua là người ta không chịu đọc thơ Nguyễn Du trong nếp gấp của nguồn thơ ông đấy thôi.

*

Người Tàu dịch Tây

Có một số ngôn ngữ tôi dùng trong mấy cuốn sách dịch bị độc giả nhận lầm là ngôn ngữ lập dị. Chẳng hạn như: nhị bội, song trùng, tồn lưu, lưu tồn, khiêu dược, phản chạng, tẩu xuất lai, tòng đầu bột khởi, đột nham, sầm lãnh, kiền tình, kiệt tận miên bạc, phục quy, đàn hồi, vô sở thố trí v.v…

Đọc giả tìm trong Tự Điển Hán Việt Đào Duy Anh, có lẽ tìm không thấy. Nhưng trong các Từ Điển Anh Hoa hoặc Đức Hoa lại có đầy đủ.

Tiện đây xin trích dẫn vài thí dụ rút từ cuốn Deutsches Chinesisches Standard-Handwörterbuch.

Zweimal: nhị bội, nhị thứ

Zweifach: nhị bội đích, song trùng đích.

Zweiachsig: song trục đích, lưỡng trục đích

Zweiblumig, Zweiblütig: song hoa đích

Zweideutig: mô lăng lưỡng khả đích

Zweidoppelt: trùng phục đích; song sinh đích

Zweieckig: song giác đích

Zweifächerig: song tế bào đích

Zweiflüglig: song xí đích; hữu song xí hình đích.

Zweifrüchtig: song quả đích

Zweigesang: nhị bội hợp xướng (hoặc hợp tấu) chi ca khúc

Zweigestaltig: (đồng chất) nhị hình đích

Zweihenkelig: song bỉnh đích

Zweihöckerig: song phong đích

Zweiseitig: lưỡng diện đích, tương hỗ đích

Zweisilbig: song âm tiết đích

Zweistimmig: song âm đích

Wieder: tái, phục, trùng tân

Wiederanfang: tái hành khai thỉ (thủy), canh thủy, canh tân

Wiederholung: thu hồi, thu hoàn, trùng phúc, phục tập

Wiederanknüpfen: trùng hành kết hợp, trùng hành liên lạc

Wiederanmachen: tái hành hệ phược

Wiederanregen: tái hành kích thích, trùng đề

Wiederanschaffen: trùng hành trù biện

Wiederauffinden: trùng hoạch, thất nhi phục đắc

Wiederaufforsten: trùng thực sâm lâm

Wiederaufgehen: tái khai, trùng khải

Wiederaufnehmen: tái hành thụ lý, tái hành biện lý

widerbekehren: tái hành chuyển hoán, trùng hành cải tông

wiederberufen: trùng hành chiêu tập

Wiederbesinnen: tái phản tỉnh, tái hồi tưởng, tái khảo lự

Wiederbringen: quy hoàn, đái hoàn, huề hoàn

Wiedereinbringen: trùng hành bổ nhập

Wiedererinnern: trùng ức, hồi ức, truy tưởng

Wiedererzählen: trùng thuật, phục thuật, chuyển thuật

Wiedereröffnen: tái khai, trùng khai hành mạc

Wiedererreichen: tái hành để đạt, tái cập đáo

Wiedererscheinen: trùng kiến, tái xuất hiện

Wiedererzeugen: trùng tân sinh sản, tái tạo

Wiedergewinnen: trùng đắc, trùng hoặch, hoàn nguyên, hồi phục

Wiederhervorbringen: sử tái sinh sản, sử tái xuất hiện

Wiederhinaufsteigen: trùng hành thượng thăng, tái đăng

Wiederhinengehen: trùng hành nhập nội

Wiederkommen: quy lai, tái lai

Wiedersagen: trùng thuyết, trùng thuật

Wiedersammeln: tái tập họp

Wiederrsuchen: tái tầm mịch

Wiedervereinigen: tái liên họp, tái đoàn kết, tái hòa hảo

Wiederwählen: tái chuyển

Wiederzulassen: trùng hứa gia nhập, tái hứa nhập nội

Heraus: hướng ngoại lai, xuất lai

Herausarbeiten: chế tạo xuất lai

Herausbekommen: miễn lực thủ xuất lai

Herausbringen: huề đái xuất lai

Herausfinden: tầm xuất lai, phát hiện xuất lai

Herausfühlen: cảm giác xuất lai

Herausgreifen: bạt xuất lai

Herausgucken: hướng ngoại khuy vọng xuất lai

Heraushängen: huyền xuất lai, quải xuất lai

Herausheben: cử xuất lai, đề xuất lai

Herauslassen: dung hứa xuất lai, thích phóng xuất lai

Herauslegen: trí ư ngoại biên lai

Herauslocken: dẫn dụ xuất lai

Herausmüssen: tất tu xuất lai

Herausplatzen: bạo liệt xuất lai

Herauspoltern: hoang trương nhi xuất lai Heraussagen: thân thuyết xuất lai, minh ngôn

Heraussollen: lý ưng xuất lai

Herausstürzen: phao trịch xuất lai

Heraustreiben: khu trục xuất lai

Herauswollen: nguyện ý xuất lai

*

Hoài Thanh

Ngôn ngữ thơ Việt Nam thành tựu bởi Nguyễn Du. Văn xuôi Việt Nam đạt tới cõi thâm viễn với Hoài Thanh. Hoài Thanh bình Kiều, Hoài Thanh viết Thi Nhân Việt Nam, có những lời bất hủ. Thiên tài Hoài Thanh đủ tư cách dựng sừng sững những thiên tài đứng lên chót vót. Và ông mở ra không biết bao nhiêu con đường cho những thi sỹ và phê bình gia đi sau. Dù thỉnh thoảng cũng phải bài bác ông trong phép “cưỡng bức chịu chơi”, nhưng phải nhìn nhận rằng nếu không có Hoài Thanh, thì có lẽ ngày này chúng ta chẳng có thể viết nên một cái gì ra cái gì gì cả?

Hoài Thanh, Đào Duy Anh, Trần Đình Đàn… là ba ông thầy cũ của tôi. Ba ông thuộc nòi giáo sư xuất chúng. Rủi thay ngày học với ba ông, tôi đã thuộc Huy Cận, Nguyễn Du, Nerval, nên bài vở nhà trường của các ông chẳng đem lại chút gì đáng kể cho tôi. Nhưng cái phong thái trang nhã thâm viễn của các ông, vô hình trung, lại giúp đỡ tôi rất nhiều. Và vì thế sách vở của các ông, về sau tôi chịu khó đọc chậm rãi.

Bây giờ các bạn thử tưởng tượng. Nếu không có sách Hoài Thanh, Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim… thì ngày này có quả rằng chúng ta giống như những con gà con mất mẹ.

Riêng nói về Hoài Thanh, cái tâm hồn thi nhạc nơi ông còn cao xa hơn hầu hết mọi thy sỹ tôi đã gặp.

Tiện đây tôi xin tặng ông Hoài Thanh một bài thơ.

Cỗi nguồn quá vắng lặng sao

Câu kinh trầm thống phương nào dậy tuôn

Mộng thừa nhị bội bắt buông

Lừng vang tử trúc điệu buồn như mai

*

Đào Duy Anh

Trong buổi học, Đào Duy Anh trầm giọng buồn buồn bảo học sinh:

“Các anh nên nhớ rằng dù tôi có gắng giảng giải cách gì đi nữa, vẫn không thể nào khiến các anh ngờ ra hết những gì huyền diệu trong tác phẩm Nguyễn Du. Ngày sau nếu các anh có thể đi quanh một vòng thi ca thế giới, các anh đón nhận tinh hoa những nguồn thơ lạ thế gian, rồi các anh quay về với Nguyễn Du lúc đầu đã bạc, ngày đó họa chăng các anh mới rõ thiên tài Nguyễn Du cao độ nào”.

Hỏi ông về cuốn sách của Nguyễn Bách Khoa (Nguyễn Du và Truyện Kiều) ông lơ lửng đáp:

“Nguyễn Bách Khoa có tài, nhưng anh ta mới bước chân vào một vài học thuyết Tây Phương, anh ta say mê quá, tưởng đó là cái gì tân kỳ lắm lắm. Tuổi trẻ có những cái lầm đồ sộ”.

Tiện đây tôi xin tặng Đào Duy Anh một bài thơ:

Tiều phu đắn gỗ khô trên núi

Em bán than gánh củi một vài

Sau lưng ngày tháng chạy dài

Trận nhìn tiền diện an bài nắm xương

Tung bốn vó dặm trường ngựa ruổi

Mừng sát na theo đuổi máu xuân

Xương thu tủy hạ luống từng

Phổi tim quỹ đạo quây quần sang đông

*

Khổng Tử

Chất thơ tiềm ẩn trong ngôn ngữ Đức Khổng quả thực phi phàm. Nhưng muốn nhận ra phải có đủ đầy trăm năm đạo hạnh. Tại hạ chỉ mới có một phần tư rưỡi tuế nguyệt thôi. Nên chẳng thể dám nhận ra.

Có lẽ một vị bồ tát, một vị linh mục ngày sau sẽ tìm ra cái mạch nguồn âm thầm giao tiếp Dịch Kinh và Evangile, Luận Ngữ và Evangile, Luận Ngữ và Kim Cương Kinh, Dịch Kinh và Holzwege vân vân.

*

Ông Lý Bạch

Nhứt chi nùng diễm lộ ngưng hương

Vân vũ vu sơn uổng đoạn trường

Riêng hai câu ấy thôi của ông cũng đủ khiến tại hạ đem Truyện Kiều đề tặng ông chơi một trận.

Người Trung Hoa đã điên rồ thêu dệt những giai thoại ngơ ngẩn tưởng làm vinh dự cho ông, nhưng thực ra đã bôi nhọ ông một cách cổ kim chưa từng có. Tại hạ đã nhiều phen muốn nêu sự vụ kia ra, những vừa nghĩ tới đã cảm thấy buôn nôn gớm guốc khôn tả.

Dưới chín suối, ông hãy yên lòng. Bọn thy sỹ ngàn năm sau mãi mãi tự nhiên biết rằng những sự tình kia không hề có thật. Không thể nào thy sỹ như ông lại bắt kẻ khác cởi giày giép cho mình. Còn bài “Phượng Hoàng Đài” ông làm ra không phải vì ganh tài Thôi Hiệu, mà vì tương ứng với Thôi Hiệu.

*

Rỡn

Khổng Tử rỡn dịu dàng bao dong, Shakespeare rỡn toe toét thiên hình vạn trạng, Homère rỡn bát ngát phiêu bồng. Kim Cương Kinh rỡn ôn tồn thân ái, Nguyễn Du rỡn ngậm ngùi, Camus rỡn thống thiết, Malraux rỡn ráo riết chịu chơi. Xuân Diệu rỡn tào lao, Nerval Huy Cận dường như không thể rỡn, Hồ Xuân Hương rỡm tùm lum, Bà Huyện Thanh Quan không biết rỡn, Nguyễn Thị Hoàng rỡn xót xa, Trang Tử rỡn độc đáo gay cấn, Trần Thy Nhã Ca rỡn như thiên nữ lưu đày, Saint-Exupéry có định rỡn chút ít, nhưng bỗng nhiên dừng lại tê buốt, Gide rỡn ỡm ờ cò ke tỷ mỷ, Sade rỡn điên cuồng. Nietzsche rỡn chết gục, Nguyễn Thị Hoàng rỡn tan hoang, Hồ Xuân Hương rỡn đo rồi đếm, đếm lại đeo, đeo xong thì đắp xéo, Như Lai rỡn từ bi, Jésus Christ rỡn bác ái, Sophocle rỡn trang nhã thâm trầm kỳ tuyệt, Euripide rỡn ẩn ẩn hiện hiện, Ngoạ Long Sinh rỡn u nùng, Kim Dung rỡn bất tuyệt, Hồ Dzếnh rỡn nên thơ chân thiết, Tú Mỡ rỡn như đười ươi, Shakespeare rỡn như phượng hoàng, Nietzsche rỡn tan hoang xương máu, Gide rỡn lúc giật lúc buông lúc chùng lúc thẳng, Tô Man Thu rỡn não nùng, đốt cháy máu tim. Whitman rỡn như thánh hiền thi đua lội bơi với con nít, Apollinaire rỡn như thiên thần yêu dấu gái trần gian, Emily Dickinson rỡn kín đáo thơm tho, Faulkner rỡn cho vừa lòng ma quỷ, Goethe rỡn trung hòa đôn hậu, Heidegger rỡn với phong thái thần thánh đóng vai trịnh trọng giáo sư, Whitman rỡn cho thánh hiền chịu thua con trẻ, Gide rỡn cà gật uyên bác chịu chơi, Apollinare rỡn như dòng suối xuân ghẹo khe mùa thu sầu mộng, Tản Đà rỡn trong từng trận tẩu hỏa nhập ma, Mỹ Nga rỡn thi đua lên thăm chị Nguyệt, Việt Nam ngày xưa biết rỡn, ngày nay hết cơ hội để cùng tứ hải rỡn rồi rồi, Trung Hoa rỡn bất khả tư nghị, ông Kút Xếp rỡn chỉ được một thời gian ngắn, cô Phùng Khánh không thích thiên hạ đùa dai. Vì sao như thế? Vì đùa dai thì cái rỡn ắt biến thành cái rỡmmm…

*

Hồ Dzếnh

Giếng vàng ánh ngọc nghìn xưa

Giở trang sách cũ hương thừa còn bay

Mà sao người đó ta đây

Tình duyên phảng phất như ngày đã xa

Người về ta mới nhớ ra

Yêu là thế đấy, mơ là thế thôi

(“Phong Châu” - Quê Ngoại)

Lửa thơ bừng cháy giữa đời

Tình thơ thắm thiết cho người bán mua

Ý thiêng người thiếu ta thừa

Nghìn kho ân lộc trăm mùa mạnh Xuân

Khinh nẻo hẹp, ghét nơi gần

Mắt xa thẳm hỏi muôn lần dặm băng

Dẫu tàn trên đỉnh kiêu căng

Còn hơn muôn thuở cao bằng ngọn cây

Thơ về nắng sáng lừng lay

Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra

Cõi trần vẳng tiếng thiên nga

Thơ không tuổi ý không già muôn năm

Gối lên bắc đẩu ta nằm

Nghe rung chân lạ thơ thần mười phương

Non cao nên dáng non buồn

Tuyết sương thắm mãi linh hồn quạnh hiu

Non tuy run rét bao chiều

Vẫn đem cao cả tiêu điều gửi mây

(Hoa Xuân Đất Việt)

*

Phạm Thị Lan

Phạm Thị Lan là em ruột Phạm Quang Bình. Mười lăm tuổi. Làm thơ tuy không vững bằng Phạm Quang Bình, nhưng quả thật cùng nòi thiên tài nhỏ tuổi. Xin chép ra đây hai bài tiêu biểu.

Chị Hai

Chị hai xuống chợ tồi tàn

Ướt hai tấm áo một hàng nước mưa

Buổi đi sớm, buổi về trưa

Ướt một tấm áo còn chưa vừa lòng

Ở trên tôi tạm nói là “không vững bằng”. Thật ra sao gọi là vững? Sao gọi là không? Chất thơ thiên tài tuổi nhỏ phải là như thế mới được.

Cô Bạn

Cô bạn học không thuộc bài

Nghe mưa nghe nắng thở dài ngoài kia

Đầu hôm cho đến giữa khuya

Học bài không thuộc vở bìa giấy khô

Sợ thầy hay là sợ cô

Sáng nay không dám bước vô nhà trường

Đáng lẽ ra, đối với một học sinh còn nhỏ, ta chẳng nên nói với nó rằng nó là thiên tài. Nhưng trường hợp Phạm Thị Lan, thì lại khác. Bảo nó là thiên tài thì nó cười rộ đáp: “Thiên tài hay không, không cần thiết. Cháu chỉ xin bác mua cho cháu một quyển văn phạm thế là đủ”.

*

Albert Camus

Ông nêu vấn đề “cõi phi lý” cốt để nói cái gì khác? Nghĩa là nếu bây giờ ta thật sự muốn mở cuộc đối thoại chân chính với tư tưởng Camus, thì điều trước tiên là phải khai triển phần vô ngôn trong tư tưởng của ông. (Xem mấy quyển Tư Tưởng Hiện Đại).

“Thoại trung hữu thoại”, lời nói đơn giản đó của người Tàu xưa, dường như tới ngày này vẫn chẳng học giả nào lưu tâm tới.

Với Camus, với Heidegger vân vân, suốt mấy mươi năm, nói quanh quẩn vẫn không rồi. Heidegger nêu vấn đề Être và étant, vấn đề pensée méditante và pensée calculante, vân vân, ấy là ông muốn nhân đó mà đặt ra vấn đề khác. Nếu chỉ phải phân biệt đơn giản có thế thôi, thì hà tất phải lắm lời - cái “huyền ngoại chi âm” - thì dù tẩu hỏa nhập ma có tự nhận mình rõ biết cái điều Heidegger nói, ta vẫn ù lì nằm vĩnh viễn trong cõi pensée calculante.

Cái pensée calculante đó đã khiến người ta cứ tiếp tục ngộ giải Camus, Gide, là những nhà tư tưởng tương đối không có quá u uẩn trong phép lập ngôn. Và cho dẫu người ta không ngộ giải một cách quá hồ đồ, dẫu cho người ta thể hội được cái điều Camus Gide muốn nói, người ta cũng chỉ mới thấy cái “đương nhiên” mà chưa nhận ra cái “sở dĩ nhiên” - chỉ tri kỳ đương nhiên, nhi bất tri kỳ sở dĩ nhiên.

Chung quy vẫn cái pensée calculente cứ ám mãi, ngay trong lúc người ta tuyên bố chống lại nó.

Bấy giờ nếu chúng ta chịu sực bàng hoàn, chợt hồi tỉnh một chút, thì câu hỏi lù lù hiện ra trong đầu óc máu me, ấy là: - Sao gọi là mệnh đề phụ?

(Trong mấy tập một vài nhận xét về Truyện Kiều, một vài nhận xét về Lục Vân Tiên - Tân Việt xuất bản 1957 - có vài mệnh đề phụ đồ sộ, mà cho tới ngày nay vẫn chẳng có một ai lưu ý tới).

Bây giờ nếu thử một phen triệt để dứt khoát với mọi thứ luận lý chi ly của triết học Âu Châu, (chúng cứ ám lấy chúng ta tại chỗ vô hình trung, ngay khi ta nguyền rủa chúng), thật sự thử đọc Camus và những thi sỹ thiên tài Tây Phương hiện đại với những con mắt của những nhà tư tưởng và thi nhân Đông Phương (trong đó có Nguyễn Du), thì mọi nhận định của ta sẽ đổi khác từ ngọn ngành tới cội rễ. Và chúng ta sẽ càng hiểu được nguyên do cuộc lập ngôn tam bành của những ông Nietzsche, và trận cưỡng bức nghiêm mật của những ông Heidegger.

Người ta không bao giờ thật sự chiêm niệm, nên những điều đơn giản hiển nhiên, đối với người ta cứ như trở thành hồ đồ, không chính xác. Người ta thường chỉ trích tôi tư tưởng võ đoán, không mạch lạc, hoặc sai lệch điểm này, khuyết điểm nhầm lẫn chỗ kia. Không bao giờ người ta giật mình sực tỉnh trong thâm để linh hồn, để thể hội rằng: lúc bo bo công kích theo lối “đam đam khuy tứ” đó, thì chính người ta đã đang chịu làm miếng mồi mềm mại cho cái tinh thần máy móc hỗn độn của chính cái tinh thần duy lý thô thiển mà người ta đang công kích. Cái tư tưởng “calculante” nó luôn luôn còn cò kè xúi giục tủy não người tẩu hỏa nhập ma, bằng một đường lối luẩn quất kỳ dị. Nó cũng có cái tính chất “nhị bội” riêng biệt của nó

Hầu hết những điều Heidegger, Nietzsche, Gide, Camus… đã nói, là nói với Âu Châu Triết học, nơi giữa mảnh đất đai Siêu Hình Học. Thì dù nói cao, dù nói thấp, là chỉ cao thấp đối với Siêu Hình Học Âu Châu, vạch một đường cày trong mảnh đất Âu Châu. Không thể đem ra công kích hoặc tán dương theo lối tư tưởng một chiều, bỏ lạc cái lẽ “sở dĩ nhiên” trong phép lập ngôn của họ. Càng không thể đem ra ca ngợi nhằm chủ đích gián tiếp tàn phá ngôn ngữ bọn tài tử Đông phương.

Cho đến ngày nay người ta vẫn bảo rằng Nguyễn Du ký thác tâm sự “di thần triều Lê” trong tác phẩm của ông - thì như thế tư tưởng còn bước đi bước đứng như thế nào? Rồi những điều Nguyễn Du nói với ma, thì quỷ lại tưởng là nói với quỷ, lại tưởng là nói với thánh thần. Những ngộ giải chạy tràn lan. Quỷ không hài lòng về Nguyễn Du, thần thánh bực bội vì Nguyễn Du, thánh thần lại hoan hỷ vì Nguyễn Du!!! Thật không còn biết làm sao dò cho ra manh mối. Minotaure tha hồ chạy đú đỡn trong mê cung “hỗn thủy” đó để triệt để “mô ngư, tróc giãi”, từ trong Khung Cửa Hẹp tới mọi lối quanh quẩn của l’Étranger. Trong khi đó, Rilke bó tay, cặm cụi dịch thơ Valéry, dịch văn Gide. Chỉ một mình Rilke biết Gide muốn nói gì trong Khung Cửa Hẹp. Thì Minotaure lại vồ lấy Rilke để nuốt chửng La Porte Étroite.

Thế thì sao gọi là L’Immoraliste? Gide viết tiếp La Symphonie Pastorale. Camus viết tiếp La Peste.

Chạy đuổi theo Gide, Camus, Minotaure quay về o bế Walt Whitman. Lợi dụng Lá Cỏ để tàn phá Lá Cồn. Học đòi vài thể điệu Mưa Nguồn để xua đuổi Ngàn Thu Rớt Hột.

Vậy xin viết vài câu thơ lai rai.

Hoàng Hậu luống muộn màng Công Chúa

Nảy hoa xuân cành múa lộn vòng

Ba thu càng lắc càng đong

Càn đầy tâm sự cõi lòng càng vơi

*

Đỗ Long Vân

Cuốn sách của ông bàn về Kim Dung nằm trong vùng tư tưởng thâm viễn như cuốn Nho Giáo của Trần Trọng Kim. Chẳng những giúp người Việt Nam hiểu tư tưởng lớn của thiên tài Trung Hoa, mà còn khiến người Trung Hoa, người Đông Phương, Tây Phương nói chung ngày sau sực tỉnh. Tầm quan trọng của cuốn sách kia quả thật rộng rãi không cùng.

Tôi có thể đưa ra vài nhận định khác của ông ở đôi chi tiết. Nhưng không cần. Điều cốt yếu, ông đã nói xong, và những dư vang vô số sẽ tỏa khắp mọi chốn. Và sẽ còn khiến người ta thể hội cái mạch thẳm trong những tác phẩm của những thiên tài xưa nay, bất luận là Đông Phương hay Tây Phương.

Sách tôi bị cháy hết, nhưng tôi sẽ tìm riêng cuốn Trương Vô Kỵ Giữa Chúng Ta để đọc lại nhiều lần. Tiện đây tôi xin tặng ông một bài thơ lếu láo:

Chân hai gót bước đi sè sẹ

Bác tiều phu có lẽ nào quên

Lá rừng rậm rạp xuôi nên

Cây rừng cũng rậm ở trên rú rừng

Làm học giả nửa chừng biếng nhác

Vẳng đâu đây câu hát ngày xưa

Một hai ba bốn khôn người

Chép lời lá cỏ gọi bừa lá cây.

*

Lê Đình Thám

Ngày xưa ở Huế làm học sinh, tôi có tới chùa Từ Đàm nhìn và nghe ông Lê Đình Thám.

Về sau lại tình cờ nhìn thấy ông ngồi trên ghe ở một mặt hồ nước vùng núi Vĩnh Trinh. Ông tản cư qua làng tôi một độ. Trông ông như một đạo sỹ ngồi trên ghe tĩnh mịch như Nam Hải Điếu Đồ.

Tiện đây xin tặng ông một bài thơ:

Chân người ta gót người ta

Ma men sờ soạng cá hòa chan chim

Giây leo giậu đổ bìm bìm

Chim đêm gọi cá về tìm mưa sa

Giật mình đếm một hai ba

Trời xanh Thượng Đế Christ là Jésus

*

Trí Hải Ni Cô

Ngày ông Lê Đình Thám ở chùa Từ Đàm Thừa Thiên, chắc là Trí Hải Ni Cô chưa bao nhiêu tuổi.

Ngày nay trông ni cô còn đẹp hơn cả mấy người con gái của Ông Lê Đình Thám. Vậy tôi xin tặng ni cô một bài thơ:

Bạc mệnh diên trường dư nhất nhật

Tam sinh quyên đảo thất điên tam

Tiền đường hô hấp hội đàm

Trùng sinh tâm tự từ đàm tiểu lâm

Chân bước một tử phần riêng rẽ

Cánh tung đôi cô lẻ nhạn trời

Giỏ hoa người hốt nhiên rơi

Giậy lừng cung bậc ra đời điệu xoang

*

Ông Whitman ôi

Tại hạ làm thở nửa phần giống thơ ông, nửa phần giống thơ ông Dylan Thomas. Nhưng giống theo thể thái bê bối đười ươi chứ không có được cái phong độ thiên tiên cốt cách. Vậy bây giờ tôi cố gắng làm một bài thơ rất mực cốt cách thiên tiên để tặng ông chơi một trận. Tuy nhiên càng hì hục bắt chước thiên tiên càng lộ ra cái nết na đười ươi phong thói. Vậy tôi xin ngậm ngùi dừng bút, chẳng dám ký tên dưới tờ thư cay đắng.

*

Nietzsche Hölderlin Rilke

Rilke may mắn hơn Hölderlin Nietzsche, vì Rilke gặp những bạn bè thiên tài chân thành bắt tay ở Pháp. Trái lại Nietzsche Hölderlin. Hai ông này toàn gặp bạn bè phản phúc. Kẻ chân thành thì tư tưởng lại quá thấp, chẳng hiểu hai ông nói cái gì. Nietzsche rú lên một tiếng. Hölderlin lặng lẽ âm thầm đi vào cõi điên. Trong cõi điên, ắt ông chỉ gặp riêng oan hồn Nerval mà thôi. Chỉ riêng Nerval là kẻ đồng thanh khí, cùng chia với Hölderlin cái thảm kịch dị thường.

*

Shakespeare

Những hài kịch hý hước của ông đã đành là vui đáo để. Nhưng những bi kịch âm u nhất của ông cũng pha cái điệu cười ngầm bất tuyệt. Những nhân vật bê bối nhất cũng chịu chơi trong tấn tuồng quỷ loạn, và có cái vẻ khả ái riêng biệt.

Cũng vì lẽ đó nên đọc Shakespeare có cái chỗ nguy hại là: sách ông khiến cho người ta mất ngủ trong những trận cười suốt đêm.

Chỉ riêng một điều: ngôn ngữ Tây Phương không có phép nói lái. Do đó Shakespeare đã tiêu hao tài nghệ trong những trận cưỡng bức dữ dội. Ngôn ngữ không nói lái, mà những Tên Hề của ông, ông buộc chúng phải nói lái bằng bất cứ giá nào. Thì thử hỏi: làm sao thành tựu viên mãn cuộc nói lái cho được?

Thế mà Shakespeare vẫn cứ thành tựu được cuộc ấy như thường. Có lẽ ông đã tận dụng khả năng Anh ngữ trong cái kho văn chương bình dân bát ngát. Từ đó, những kịch bản của ông vượt hết mọi kịch bản Hy Lạp Eschyle Sophocle Euripide. Bởi vì trong kịch bản của ông có bao hàm mọi thứ dị thường của kịch bản Hy Lạp được đẩy tới tột cùng cuống rốn, mà còn thêm những màu sắc riêng biệt của thiên tài ông, không một thiên tài cổ kim nào bì kịp trong lãnh vực kịch trường.

Shakespeare có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời - đó là điều mà học giả Tây Phương không thể nào ngờ tới. Mọi sách biên khảo về Shakespeare đều bưng bít trong những nhận định tủn mủn, gò bó trong những nhận xét về tâm lý nhân vật, về nghệ thuật kịch bản - những định kiến bám sâu trong tủy não người học giả Âu châu trải mấy thế kỷ - trong khi anh hoa thiên tài là tái tạo, là tái lập mọi quy chế, là phá vỡ những lề luật vớ vẩn chỉ cần thiết cho bọn tài năng thông thường.

Những bản dịch Shakespeare ra Pháp ngữ đều chịu đầu hàng vô điều kiện trước phép nói lái của Shakespeare.

*

Hoài Thanh

Nếu cuốn sách của Hoài Thanh (Thi nhân Hiện đại) không ra đời, thì thi ca hiện đại Việt Nam ắt phải tang hoang tinh thể do sức tàn phá của cuốn sách Nhà văn Hiện đại Vũ Ngọc Phan. Trong thế hệ trước, ngoài Hoài Thanh ra, không còn một kẻ nào có thể ngờ ra thiên tài Huy Cận. Dẫu có ngờ ra ắt cũng không thể viết được như Hoài Thanh.

Hoài Thanh am hiểu thi ca Tây Phương, mà vẫn dám coi nhẹ Tây Phương trước thiên tài Huy Cận Nguyễn Du. Đó là điều hy hữu.

Hoài Thanh thừa biết rằng những thứ ta quen gọi là “chủ đề” trong thơ Huy Cận - những suy tư về thân phận con người, về cái chết, về tình yêu v.v… - những thứ đó chả có chi tân kỳ. Cũng như Truyện Kiều của Nguyễn Du chả có chi bí ẩn, nhưng thiên tài chính là kẻ làm “mới” lại những chủ đề cũ kỹ trong ngôn ngữ đơn giản của mình.

Thơ Xuân Diệu tràn lan những chất liệu thi ca Pháp. Nhiều phen ông nói toàn chuyện rỡm. Nhưng thiên tài của ông là ở chỗ: vì quá thâm hậu, nên đùa chơi suốt kiếp với chuyện rỡm.

Hoài Thanh cũng là kẻ riêng biệt âm thầm cảm thấy sự đó.

*

Huy Cận

A thân thể! một cái bình tội lỗi

Đất sơ sinh đã hóa lại bùn lầy

Một ý tưởng chẳng có chi mới lạ. Nhưng câu thơ của Huy Cận lại tươi mát như bầu trời.

Và cổ đứng như mình cây vững chãi

Và vai ngang như mặt nước xuôi dài

Viết câu thơ lai rai như thế mới đích thật là thiên tài. (Còn như bài “Tràng Giang” của ông chính ông cũng lấy làm đắc ý lắm, thật ra còn vướng vướng, không có chi huyền ảo cả.)

Và cái câu:

Tôi đội tang đen và mũ trắng

Ra đi không hẹn ở trên đường

Ông viết hai câu thơ kỳ tuyệt như thế, thì thử hỏi: còn chi đáng kể nữa? Ông thừa sức xô ùa Đường Thi chạy mất hút. Toàn khối thi ca Trung Quốc, toàn khối thi ca Tây Phương, hầu như bị nổ bung lông lốc, vì trái lựu đạn đơn giản đó của ông tung ra.

Và đôi mắt ấy biết nhìn xa

Khi ngoảnh gần bên biết đậm đà

Nhưng cũng biết gieo buồn khía cạnh

Lạnh đồng tê giá nét thu ba

Tại hạ mấy mươi năm nay đọc cũng nhiều loại thi ca ngoại quốc, mà tuyệt nhiên chẳng thấy một vần nào dám ngang nhiên đứng vững trước mấy vần thất ngôn của Việt Nam nọ.

Ấy bởi vì? Bởi vì thơ Huy Cận vốn là sầu, nhưng đó là loại sầu thượng đẳng Như Lai, nên chi trong cái nỗi sầu có pha chất gay cấn chịu chơi. Thơ Homère, Sophocle, Shakespeare, Nietzsche cũng thường có chất đó. Trái lại, thơ hoằng viễn như không của Nerval, Hoelderlin, Eluard, lại dường như không có. (Ấy bởi vì họ chịu chơi theo lối từ bi khác).

Dù sao ta cũng có thể nói rằng thơ Huy Cận quả có như là cõi miền huyền bí nhất của tinh thể Đông Phương

*

Martin Heidegger

Ông nằm giữa mê cung triết học Âu Châu, ông rỡn rỡn đùa đùa với mọi con Minotaure trong đó. Ông độ lượng bao dong, dù biết nó ngoan cố ông vẫn chậm rãi dạy dỗ nó, kiên nhẫn với nụ cười của ông nội, ông ngoại. Ông biết rằng mình thừa thãi công lực thâm hậu, không bao giờ có thể bị nó ám hại đến nỗi phải lâm vào tình trạng tẩu hỏa nhập ma và bị nó vồ nuốt, nên ông thong dong đi sát bên nó mà gùn ghè, ông đú đỡn nhảy lui nhảy tới, thỉnh thoảng ông giả vờ như mình bị bế tắc đầu hàng, để có thể ngấm ngầm bày vẽ cho nó những thế võ mới để nó có thể kéo dài cuộc tranh chấp với ông, nhiếp dẫn nó tới cõi đốn ngộ cuối cùng. Cổ kim, Tây Phương chỉ có một mình ông thượng đạt tới tót vời như Khổng Tử.

*

Thượng Đế

Nếu Thượng Đế quả thật yêu thương loài người, thì Thượng Đế nên tạo ra nhiều nương tử khổng lồ. Ấy là cốt để làm gì? Ấy là cốt phòng khi nào bọn chán đời muốn lọt vào lòng mẹ trở lại thì có chỗ để lọt đầu chui vào. Và như vậy sẽ còn cơ hội được sinh ra đời lần khác, khởi sự làm trở lại một thằng bé sơ sinh tuyệt nhiên không biết sao gọi là chán đời.

Tuy nhiên vì trái đất nhỏ hẹp quá, nếu tạo ra Nương Tử khổng lồ thì các nàng sẽ không có chỗ trú. Vậy trước tiên, Thượng Đế nên thổi phồng trái đất to ra gấp mười lần, thì sự tình sẽ được dàn xếp viên mãn về sau.

*

Ông Trời xanh

Ông trời xanh đã bắt đầu có địa vị trong nền thi ca Việt Nam, kể từ ngày cái chất bê bối của ông đượn thiên tài Nguyễn Du dựng lên sừng sững khắp chốn trong Truyện Kiều.

Gẫm hay muôn sự tại trời

Mọi biến cố xảy ra trong tác phẩm huyền diệu nhất nhân gian, đều do ông Trời Xanh bài bố.

*

Gauguin

Gauguin bỏ Âu Châu, dứt khoát với mọi trường trại lố nhố Tây Phương, thẳng tới một hải đảo Thái Bình Dương dựng lên một trận hỏa hoạn vô tiền khoáng hậu. Ông dựng toàn khối thảm kịch nhân gian trong con mắt thơ ngây người gái đảo. Thảm họa chạy tràn lan, ngập khắp mùi hương cây cỏ giữa sa mạc đại dương.

*

René Crayssac

René Crayssac dịch Truyện Kiều ra Pháp Ngữ, vướng vào những lối sống sượng không thể tránh được.

Nhưng với tất cả những khuyết điểm khổng lồ kia, vì lẽ gì bản dịch của ông vẫn sừng sững nằm trong văn học Tây Phương như một tòa lâu đài Hy Lạp?

Qua cuốn sách của ông, người Tây Phương có thể nhìn thấy toàn khối văn minh Đông Phương lấp lánh trong sương mù.

Và người Đông Phương ngày mai sẽ nằm trong định mệnh: chỉ còn có thể nhìn ra thiên tài Nguyễn Du là qua bản dịch của Crayssac mà thôi.

*

Hồ Dzếnh

Phải quên mấy bài lục bát của ông Hồ Dzếnh thì mới còn can đảm làm thơ. Hoặc còn chịu khó đọc thơ Tây thơ Tàu.

Nhưng mỗi phen đang giữa cơn chịu khó liên trì mà chợt sực nhớ cái bài “Phút Linh Cầu” của Hồ Dzếnh, thì ối thôi! ối thôi! Chẳng còn thể nào tiếp tục công việc gì nữa cả. Linh hồn bỗng nhiên xô ùa máu me chạy tuột đi hướng khác, vô phương nắm cầm lại…

Khói trầm bén giấc mơ tiên

Bâng khuâng trăng rải qua miền quạnh hiu

Tô Châu lớp lớp phù kiều

Trăng đêm Dương Tử mây chiều Giang Nam

Không còn một loại thơ kim cổ nào đứng nổi trước cái trận chiêm bao kỳ ảo kia. Tôi thách các bạn tìm bất cứ trong thi ca cổ kim một bài thơ nào đứng vững nổi trước mấy vần lục bát của ông bạn Minh Hương kia.

Hễ thong dong tự tại thả mình theo thơ đó, thì cảm thấy như mình biến làm thiên thần. Mà hễ hì hục cố bàn giải vào, thì bỗng nhiên tức thở, ngột hơi, cảm thấy mình là một con đười ươi lếu láo trơ trẽn, không biết xấu hổ là gì.

Lỡ viết ra đôi lời giải thích thì về sau sẽ ân hận, sẽ mòn mỏi máu me kịch liệt.

Cũng may cho ông Nguyễn Du sinh ra ở thế kỷ trước. Nếu sinh ra đồng thời với Hồ Dzếnh, ắt ông Nguyễn Du không còn chịu viết Đoạn Trường Tân Thanh làm gì.

Mọi thi sỹ ngày nay đều là kẻ bất hạnh. Bị đọa đày làm thi sỹ, trong khi cõi thơ không còn lối để bước. Mấy chục bài lục bát của Hồ Dzếnh là đại dương thi ca. Ta còn đem vài giọt nước rót vào đại dương làm gì?

Có lẽ Hồ Dzếnh cũng rõ điều ấy, và vì lòng từ bi, ông bèn làm thêm nhiều bài thất ngôn xoàng xoàng in xen lẩn vào. Cốt để che bớt cõi bao la của đại dương. Nếu không làm thế, thì mặc nhiên lên án tử hình hết mọi thi sỹ năm châu.

Ấy có nghĩa rằng: tập thơ Quê Ngoại của ông cho người đọc nhìn ra ẩn ngữ thơ mộng của mặt đất chỗ này: một tâm hồn nhỏ dại, quanh quẩn với những nhớ nhung nhõng nhẽo tâm tình bê tha, mỗi phút xuất thần kỳ ảo bỗng nhiên nhảy vọt một bước lên tột đỉnh thiên tài, không có gì giải thích được.

*

Tiêu Quỳnh

Lần này gặp lại tâm hồn của hai non nước Thừa Thiên Hà Tịnh giao thoa sương bóng.

Sương Bóng

Ngày qua tháng đưa năm về nguyệt

Tuyết rung rinh cự tuyệt thời gian

Đi qua hàng xóm xin hàng

Chữ trong nét bút đầu trang khuynh thành

Hẹn với nước màu xanh nguyên thủy

Góp chùm bông hương dị dị phai

Lời theo đẫm gió xuân dài

Đầu hôm cá biển cuối ngày chim non.

*

Mai Vân Thu

Tôi đọc lại nhiều lần mấy chục bài thơ của Mai Vân Thu, vẫn hồn hộn ngạc ngạc như lần đầu. Tuyệt nhiên không thể xác định được tinh thể điệu thơ của cô. Gắng hồi tưởng xem mình đã từng gặp điệu thơ ấy ở chân trời nào chưa, vẫn quả như là chưa hề gặp. Thơ của cô có vẻ như màu xanh nước biển quanh một vùng hải đảo nào tôi chưa có dịp tới. Hoặc như màu mây gió ở một hành tinh nào không giống như ở trái đất chúng ta. Xin trích ra đây một vài bài.

Chiêu hoa

Chiêu hoa mạch mạch hai dòng

Trổ xum xuê ngọn ngoài trong như vàng

Lục thành tam nguyệt vừa toan

Tấm thanh sam cũ chìm tan sương đồng

Tiểu nhi ý nguyện như hồn

Còn trong ý tứ khuôn tròn đong đưa

Một rằng thốt một rằng thưa

Bình minh trăng mọc ngọn dừa ngủ say

Tỳ tử hát

Tỳ tử hát tiếng ngang lời dọc

Cho yên vui màu tóc nữ vương

Một mai má đỏ môi hường

Rẽ sang bến khác còn mường tượng nghe

Chấm ngòi bút sắt se vào mực

Viết ra câu thúc giục sương mù

To son điểm phấn hư phù

Bước ra bờ cõi đất trù hoạch chi

*

Vui nhất và buồn nhất

Có lẽ thơ nói được cái buồn nhất. Nhưng làm sao nói được nỗi vui nhất? Nó như mây như khói, hay là như cái gì?

Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng

Nhưng sao gọi là vui nhất? Có cái vui rộn ràng nhất. Nô nức nhất. Hồi hộp nhất. Xao xuyến nhất. Cuống quýt nhất. Thanh bình tự tại nhất.

Nhưng sao gọi là nhất?

Ví đem vào sổ nhất trường?

Thì treo giải một mà nhường cho hai?

Cực độ của vui nhất, rất có thể khiến người ta vỡ toang linh hồn, rồi chết mất. Thế thì trong bình sinh con người ta, không bao giờ có cái gì gọi là nhất hết cả? Có lẽ…

*

Hölderlin

Cây trong rừng lớn mạnh mỗi cây

Cọp trong hang mỗi hang mỗi cọp

Tỳ tử ngậm bóng sương huếch hoác

Nữ vương đùa toe toét miệng môi

Ra đi hết đứng lại ngồi

Khung trăng lữ thứ trong đời cõi ma

Tam bành nhị bội tăng gia

Hàng chân chữ bát bước qua giậu rào

Chùm nộ phóng lũy hào phồn thịnh

Lam phù dung núng nính lưng tôm

Môi son miệng mở đỏ lòm

Diotima ạ, ngó dòm cái chi?

Sinh đã biệt thì ly luôn tử

Rượu hư vô nốc thử ly này

Hai hàng tay chắp trong tay

Mnemosyne ạ sau này gặp nhau.

(“Thơ Vịnh”)

*

Hàn Mạc Tử

Làm sao nói gì về Hàn Mạc Tử? Ông gào kêu trong thơ thảm họa của đời ông. Mà đời ông là chỗ về tụ tập của mọi thảm họa nhân sinh.

Thơ ông là một tiếng thét và một lời than. Tiếng thét đầy máu, tiếng than tràn ngập hư vô. Lúc hãi hùng khiếp đảm, lúc quạnh quẽ lạc phách xiêu hồn.

Tôi không đọc thơ ông. Tôi đứng xa xa, người ta hỏi tôi về thơ ông thì tôi xin đánh trống lãng.

Thơ tôi làm, một lần tôi tặng ông trong Mưa Nguồn - ngoài ra mọi làn sóng bành bái trong mấy cuốn thơ của tôi chỉ là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Đi vào giữa trung tâm bão giông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu chuồn chuồn, đem phó thác thảm họa trần gian mang trên hai cánh mỏng bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm, bay về Sương Hy Lạp, ghé Clavaire viếng thăm một vong hồn bát ngát, rồi quay trở về đồng ruộng làm mục tử chăn trâu. Làm mục tử không xong bỏ trâu bò chạy lạc, phá phách mùa màng khoai sắn,thì tôi chạy về bẩm báo với ni cô cho phép con chuồn chuồn của tôi cư lưu một phút giây trong linh hồn bao dong phương trượng. Ni cô xua đuổi tôi thì tôi ra bờ sông nằm ngủ khóc một mình thơ dại giữa chiêm bao. Trong chiêm bao, thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao:

Một hôm đếm một ra hai

Lộn là lạ lắm lai rai bốn lần

Trăng Châu Thổ rất mực gần

Mà ra tại hạ vô ngần chiêm bao

*

Đinh Hùng

Chúng ta khóc như một bầy thú dữ

Lòng dã man nghe trái đất tan tành

Câu thơ như thế đủ giúp mọi người bước vào cung cấm Mê Hồn Ca, chậm rãi đón nghe cái lời gì trong linh hồn vân thạch.

Tặng ông Đinh Hùng vài vần cảm khái:

Bị thường bách tân toan dự khổ

Ngọc vẫn hương tiêu tộ thử thân

Vẳng nghe hàng xóm lối gần

Chân đi gót bước cơ trần đa đoan

Hoàng hậu luống muộn màng công chúa

Nảy hoa xuân cùng múa lộn vòng

Ba thu càng lắc càng đong

Càng đầy tâm sự nỗi lòng càng vơi

Ngày ông còn sống, tôi gặp ông mấy lần. Câu chuyện cứ lạc lõng âm thanh. Ông đánh mất ông, tôi đánh mất tôi. Không hề gì, không hề gì.

Tặng ông một bài nữa:

Tam thiên thủ lạc thiên trường đoản

Tiểu viên hương vũ loạn mông lung

Cuồng ca túy hậu điệp trùng

Diệu từ tiền diện bách tùng tiểu tiên

Hà xứ khán minh niên minh nguyệt

Thử sinh hòa thử tuyết thử sương

Vô thanh ngân hán đoạn trường

Mộ vân thu tận vô thường vân tiêu.

*

Phổ Đức

Đọc thơ Phổ Đức nghe hân hoan như vào vườn cây đủ mọi thứ trái. Trái nào cũng muốn ăn chơi.

Đúng là như thế. Đọc thơ Tạ Ký, Hoài Khanh có cảm giác như uống rượu. Mà đọc thơ Phổ Đức thì quả thật là như ăn trái cây, như leo cây bẻ trái. Hoặc leo cây rồi nằm ngủ trên cây, không muốn tuột xuống đất.

Sài Gòn thành phố thân yêu

tặng Nga

Hỡi em yêu dấu!

mỗi lần về anh ghé thăm em

Sàigòn thành phố thân yêu

em ở đó làm sao xa được

Sàigòn là hơi thở của cơ thể anh

thành phố của áp phe

môi trường của văn học

anh ước ao được thất nghiệp ở Sàigòn

hơn làm có tiền ra tỉnh lẻ

tiền có làm gì khi thiếu em

và bạn bè thân thuộc

thiếu em là hồn anh mất điểm tựa

xa bạn bè là hết văn nghệ rồi em!

Sàigòn Quán Chùa có Toàn, có Mậu

Kim Sơn có Ly, Bô Đa có Sơn, có Ngọc, có An

và biết bao nhiêu người nữa

ở Đêm màu Hồng ở Mác-Xim

ở Quán Gió, Thằng Bờm, Bão, Thơ, Mai, Lú

Phấn Thông Vàng, Mai Hương, Thanh Bạch…

đang chờ anh từng phút từng ngày

gặp nhau dù chỉ để bắt tay

hay hỏi vay tiền cũng đều cần thiết

ngày vào lính anh xa thành phố

Sàigòn thân yêu nhìn rõ lòng người

bộ mặt đời đã tầm thường càng tầm thường hơn nữa

danh liệt rồi chỉ còn em hiểu anh thôi

anh từng xuôi ngược khắp Miền Nam

Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt

Vũng Tàu, Cần Thơ, Vĩnh Long, Cà Mau, Long Xuyên

đâu cũng chẳng bằng Sàigòn thành phố thân yêu

quê hương mưa nắng hai mùa

anh đã trưởng thành ở đó

nên xa Sàigòn anh vô cùng khổ sở

bảy tháng rồi em

(hơn 210 ngày và hơn 5.040 giờ đúng 302.400 phút đúng 18.144.000 giây)

anh chờ lại Sàigòn

với bạn bè, thơ văn, sách báo

với những ngày lang thang

cơm bình dân, mì, bò kho, đầu đường, xó chợ

rồi chui vào rạp Rex ngủ trưa

đợi chiều đi dạy giết thời giờ

với những đêm thức trắng làm thơ

hay xoa mà chược

bảy tháng rồi em

ai đưa em đi xoa?

ai đón em đi ăn bánh cuốn Phan Đình Phùng

hẻm Casino Sàigòn, ngã tư Quốc tế cầu Tân Thuận

đợi Rex, Đại Nam, Eden, Vĩnh Lợi đổi phim

truyện Kim Dung đã xem hết chưa em?

đọc để an ủi cái bất hạnh của từng nhân vật

bè bạn mình chắc cũng có người cưới nhau

nhưng tin vui chỉ bằng 1/10 tin buồn, cáo phó

bây giờ xem báo

anh lật trang chót trước

đọc để chau mày, nhăn mặt, cúi đầu

lệ chảy nhiều nên khô cả thương đau

thân làm đĩ chai đá mòn ân ái

quê hương rách như đời mình hiện tại

dù muốn dù không em hãy tin định mệnh an bài

em yêu ơi!

anh sẽ về dù gió, mưa, bão, đạn

dù hết tiền xe, dù nhảy rào, dù bị cạo trọc đầu

anh quyết về với thành phố thân yêu

để nhìn thấy mặt em và bè bạn

để hơi thở được tự do

và nụ cười được cởi mở

cho những cuộc hẹn hò còn tiếp nối

để dựng lại đời trong đổ vỡ chông chênh

và nguyện sẽ chẳng bao giờ xa Sàigòn

như chẳng bao giờ anh xa em

Tuổi đời ba mốt

vào tuổi ba mươi mốt để thấy phần đời còn lại

để nhận rõ mình và hiểu người nhiều hơn

tuổi cay nghiệt nếu không muốn nói là định mệnh

đay nghiến hồn gần vỡ mặt - nát thân

ba mươi tuổi lẻ tôi biến thành chong chóng

xoay đủ chiều trong vũng cạn tối tăm

mặt đã lem tôi cố chùi thêm loang lổ

nên xua tay như chiếc lá giữa dòng

tôi rong ruổi đó đây từ năm 18 tuổi

13 năm sau người ta trói chân tôi

con số 13 - con số bất hạnh dù lật ngược nó

như tóc cạo nhẵn rồi - râu mọc dài thêm

tôi đã đổi dạng thay hình khi nhận tuổi 31

nên mọi người đều nhìn với dửng dưng

đời tôi lao như xe tuột dốc

phanh đứt lìa - bánh chạy mãi không dừng

em đã hiểu - tôi thầm cảm ơn Phật, Chúa

cho niềm tin đủ soi sáng đời mình

tâm hồn em là dòng sông lớn

tôi là thuyền chở mộng nổi lênh đênh

đúng mùa xuân em đầy hai mươi

tuổi của gần nhau hiểu chuyện đời

chiến tranh đã làm chúng mình xa cách

dù góc biển, chân trời - hãy nguyện cầu còn đủ chân tay

tôi chờ đây với những ngày dài nhất

nỗi chết không rời ám ảnh quanh tôi

buồn trùng điệp đến vây gần nghẹt thở

tôi như ếch giam đáy giếng trông trời

sáng đến chiều qua đêm đã hết

tôi đếm ngày tháng từng phút từng giây

niềm tin héo như cuộc tình đánh mất

sau mỗi lần yêu như canh bạc đen hoài

tôi treo võng đời trên dây kẽm gai

móc hồn gần rơi gió lay đưa mỏi

tôi muốn nhảy sợ thọt chân mù mắt

nên lờ im nằm thoi thóp đợi chờ

ba mươi mốt tuổi - nửa đời thất bại

những ngày về sau lại tối tăm thêm

tôi ngồi đây như thằng gù chờ mở số

vé bị cắp rồi cứ tưởng còn nguyên.

Phổ Đức (Giấu mặt)

*

Hoàng Trúc Ly

Một thứ rượu chua chát nhất ở thành phố.

Ở Sài Gòn

Soi gương lạ mặt bao giờ

Nửa đêm lãng đãng tôi mờ bóng tôi

Ở đây vụng dại với người

Nghiến răng nhai mãi nửa lời vô duyên

Cõi dấn thân

Tôi còn yêu cho biển còn xanh

Mây còn bay cho chim chắp cánh

Ngựa què rồi em cởi lưng anh

Tôi cứ yêu khốn nạn cứ cười

Chim cứ bay cho mây gãy cánh

Em chết rồi ai ám sát tôi?

Tạ Ký nói chuyện cay đắng, Tạ Ký còn can đảm kiên nhẫn viết ra một trang năm ba chục câu thơ. Đến như Hoàng Trúc Ly, ông chỉ viết bốn câu, sáu câu. Ấy bởi vì cái thứ rượu ông dọn ra là cái loại rượu quá chát. Kẻ tửu lượng thượng thừa, cũng chỉ nhấm vài giọt là choáng váng tối tăm mày mặt.

Nằm mộng thấy nữ sinh

Ta từ giấc mộng bước gần em

Đường phố đầy trăng hay mặt trời chìm

Ô hay con gái bay nhiều thế

Hai cánh tay mềm như hai cánh chim!

Như cuống của hoa như cội của cành

Em đến bao giờ là em của anh

Thôi đã vô cùng cô liêu bóng cả

Như chim xa rừng tội nghiệp rừng xanh

Tuyệt mù giấc mộng mỏng như sương

Vai áo hào hoa tê tê bụi đường

Ra đi ta đắp thêm sông núi

Trời rộng sông dài nỗi nhớ thương

Cõi dấn thân

Tôi còn yêu cho biển còn xanh

Mây còn bay cho chim chắp cánh

Ngựa què rồi em cởi lưng anh

Tôi cứ yêu khốn nạn cứ cười

Chim cứ bay cho mây gẫy cánh

Em chết rồi ai ám sát tôi?

Vĩnh biệt

Rồi mai khởi sự ra đời

Chuyến xe trăm tuổi đưa người nghìn năm

Trăng sao bốc cháy chỗ nằm

Áo xanh mây lá vết bầm núi non

Ca sĩ

Từ em tiếng hát lên trời

Tay xao dòng tóc tay mời âm thanh

Sợi buồn chẻ xuống lòng anh

Lắng nghe da thịt tan tành xưa sau

Trời em tiếng hát lên từ

Âm ba tóc rối lững lờ vòng tay

Áo dài lùa nắng vào mây

Dấu chân hồng nhạn rụng đầy gió sương

Ở Sài Gòn

Soi gương lạ mặt bao giờ

Nửa đêm lãng đãng tôi mờ bóng tôi

Ở đây vụng dại với đời

Nghiến răng nhai mãi nửa lời vô duyên

*

Bích Yên

Cô nữ sỹ này làm thơ chân thành. Nếu cô đi tu, ắt sớm thành quan âm bồ tát.

Mưa tháng bảy mưa trôi vào quá khứ

Đứng che hồn nghe lạnh khắp châu thân

Vòng ân ái khép em vào tăm tối

Vì yêu anh em khổ biết bao lần

Khổ như thế, thì phí đi. Cô nên đem tình yêu kia trao gửi cho Như Lai ắt là hết khổ.

Nói như J. Leiba:

Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá

Lệ lòng xin cạn chốn am Không

Cửa thiền một đóng duyên trần dứt

Quên hết người quen chốn bụi hồng.

Đi tu chơi vài năm, lúc bấy giờ cô sẽ nghĩ sao khi đọc lại những vần thơ trầm trọng ngày trước:

Niềm tin vỡ như nắng tan mặt biển

Kỷ niệm buồn chĩu nhánh khắp thân em

Đời con gái được mấy lần hò hẹn

Dĩ vãng còn đau xót làm sao quên!

Cô làm thơ như thế, đi tu chơi một trận, ắt sớm đắc quả A Na Hàm hơn cô Thúy Kiều.

Tại hạ nhân tiện chép tặng cô một câu kinh: “Như thị đại nguyện, thế giới vô tận, chúng sinh vô tận, nghiệp cập phiền não nhứt thiết vô tận, ngã nguyện vô tận”.

*

Hồ Xuân Dzếnh

Tôi thêm chữ xuân vào tên ông, ấy chẳng phải là hoàn toàn làm điều phi lý. Chính ông đã có tập thơ Hoa Xuân Đất Việt. Tôi không thể tự ban thêm cho mình một tiếng xuân vào trong tên tuổi. Nhưng riêng biệt với Hồ Dzếnh, chúng ta được quyền gọi ông là Hồ Xuân Dzếnh. Chính ông cũng đã ngang nhiên tuyên bố:

Ý thiêng người thiếu ta thừa

Nghìn kho ân lộc trăm mùa mạnh xuân

Một loại xuân kỳ lạ cứ về kêu gào làm nứt rạn những vần lục bát của ông. Nứt rạn không phải là vỡ toang. Nứt rạn là cái vùng ẩn mật để cho mọi thứ mùa xuân có chỗ len lấn đi về trong một mùa xuân. Chất thơ xuân của ông từ đó mang tính chất hàm hỗn bát ngát. Xuân vui mà nghe như buồn. Xuân buồn mà nghe như vui.

Ý thiêng choán hết linh hồn

Còn đâu gió nhớ cung hồn buồn mà ca

Ông vừa dứt câu, quyết liệt như thế, thì mọi người bỗng nhiên tê lạnh cả máu me, vì biết rằng cái cung buồn kỳ ảo đang lù lù thị hiện trong câu thơ đòi xóa sạch cung vui. Và quả thật người ta không lầm. Trong Hoa Xuân Đất Việt bốn câu này vẫn nằm sừng sững đó:

Ngoài kia niên thiếu ca xuân mới

Trong lũy tre xanh đời vẫn buồn

Ai biết để lòng yêu một buổi

Bay về thăm viếng mái cô thôn

Bài “Mái Lều Tranh” ghi lại hình ảnh đối kháng nhau; đi sát bên nhau, vẫn không làm sao hòa vào nhau cho được. Hai hình ảnh thăm thẳm riêng biệt trong lịch sử người ta:

Mẹ tôi sống lặng trong làng nhỏ

Đâu biết thời gian đổi mới rồi

Lòng vẫn đau buồn thiên vạn cổ

Nào hay Non nước hãy reo vui

Cái tiếng “hãy” đơn sơ kia lại đang làm nứt rạn câu thơ một lần nữa. Cung như tiếng “đâu biết, đổi mới rồi”. Còn tê buốt hơn tiếng “Đau buồn thiên vạn cổ”.

Vú mẹ đã khô nguồn sữa cũ

Tình con còn lại bấy nhiêu thôi

(“Trang sách xưa”)

Trở lại với Quê Ngoại, chép bài “Phong Châu”:

Giếng vàng ánh ngọc nghìn xưa

Giở trang sách cũ hương thừa còn bay

Mà sao người đó ta đây

Tình duyên phảng phất như ngày đã xa

Người về ta mới nhớ ra

Yêu là thế ấy mơ là thế thôi.

*

Đinh Hùng

Con người nguyên thủy, ta không thể rõ tâm tình họ như thế nào. Đứng trước những quyền lực thiên nhiên, những bão giông sấm chớp, nhìn lại phận thân mình, họ khủng khiếp kinh hoàng, hay là hồn nhiên chấp thuận? Nhìn xác đồng loại bị rắn độc cắn, hoặc bị cọp beo vồ nát, họ rú lên nhưng âm thanh hãi hùng như thế nào, ta không hình dung nổi. Nhưng đêm đông mưa bão rét buốt, ẩn thân trong những hang đá lạnh lẽo, họ suy gẫm những gì về kiếp sống phù du của mình? Họ không được che chở trước trời đất. Đời sống vật chất cũng như tinh thần, đều hoàn toàn phó thác cho hiểm họa diêu mang. Không một đức lý, triết lý nhân sinh vũ trụ nào che chở linh hồn họ. Không một thánh hiền nào thiết lập một Hình Nhi Hạ để họ chui vào nằm yên ổn giữa cương thường.

Ngày nay, con người có được nhiều chốn “nương tựa”. Rượu đế, la de, cà phê, khiêu vũ, xi nê… Nếu những thứ đó không còn chi cám dỗ nữa, thì còn người chạy đi đào sâu những hang hố siêu hình, tồn thể, hết đào hang xuống tận ruột rà trái đất, lại đào hang lên khắp cõi thanh thiên. Hoặc chạy ra đại hải đuổi theo con cá vô hình của trùng khơi. Hoặc chạy vào sa mạc, đuổi theo con chim vô dạng của hư vô. Rồi vẽ vời bao nhiêu luyến tiếc, chờ mong, hoài vọng, thiên hình vạn trạng để che lấp khoảng trống vắng dị thường của phù sinh hư huyễn. Rốt cuộc vẫn đối diện với cái khối lù lù bất khả tư nghị do Tử Thần dựng lên ở giữa đường. Cái khối dị dạng nọ quả thật gay cấn khôn hàn. Xua đuổi nó không được. Trừ khử nó không tan. Thôi đành ôm chầm lấy nó ve vuốt mà bảo rằng: - Tử Thần ôi! Em chính là lẽ sống của ta. Ta sống bao nhiêu tuế nguyệt lao đao lận đận, là chỉ cốt để thành tựu đời mình trong cái Chết Thơ Ngây Man Mác. Ta ôm lấy em và cảm thấy ấm cúng vô song. - Tử Thần ạ, lại gần đây đối mặt! Trao bàn tay cho ta nắm bên miền…

Đó là một lối tự dối mình vậy. Tô son phết phấn vào khuôn mặt Tử Thần, kể cũng đà thiểu não lòng người bấy nay. Mà kể ra, suốt bình sinh, con người ta đeo bám vào những thứ gọi là văn minh tiến bộ, gây dựng nên những thứ gọi là công nghiệp lưu tồn, chẳng qua cũng chỉ là một cách tự dối mình đấy thôi.

Đinh Hùng Mê Hồn Ca muốn nhảy vọt một trận, trút bỏ hết mọi thứ “quà” của văn minh gạt gẫm, đi giữa thế kỷ hai mươi, ông muốn sống lại tâm tình người nguyên thủy về đối diện với xã hội văn minh. Ông muốn khước từ hết mọi thứ xây dựng êm ấm của xã hội văn minh, muốn trơn trụi gào kêu giữa lạnh lùng vạn vật.

Chúng ta khóc như một bầy thú dữ

Lòng dã man nghe trái đất tan tành

Trái đất chưa tan tành, nhưng liên miên như đang tan tành, vì kể từ nguyên thủy, linh hồn con người và thể xác con người đã nối đuôi nhau tan tành giữa vạn vật. Và mọi cuộc xây dựng chân chính nào của con người, rốt cuộc vẫn như oái oăm góp phần thêm vào mọi thứ tàn phá ở mọi bình diện.

Người thi sỹ thâm cảm sự tình éo le đó trong tuổi xuân xanh, và nỗi phẫn nộ không sao giập tắt được. Không còn tìm đâu ra con đường “phục vụ”. Mọi cố gắng giữa nhân gian, dường như phó thác hết cho diêu mang hỗn độn “giữa chợ đời vất vưởng bóng sầu nhân…” Thì văn minh, thì đức lý, thì thì thì? Phân biệt thị phi, hư thực thế nào? - “phù dung bên phù thể, cõi nào thực cõi tiêu tao? Hồng phấn lẫn hồng trần, đâu đã vì đâu ô trọc?”

Thì tiếng gào thét của con người nguyên thủy trở thành tuyệt đối trắng trợn dã man cho vừa tầm diêu mang của cõi đời hỗn độn:

Ta lảo đảo vùng đứng lên cười ngất

Ghì chặt nàng cho chết giữa mê ly

Rồi dày xéo lên sông núi đô kỳ

Bên thành quách ta ra tay tàn phá

Giữa hoang loạn của lâu đài đình tạ

Ta thản nhiên đi trở lại núi rừng

Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng

Nhưng chỉ có thể thét lời ấy trong thơ, và thét một lần. Rồi ân hận tới. Trong cơn đoạn trường, vị “bạo chúa” kia đã nằm thiêm thiếp khóc. Vì cuộc tàn phá kia, chẳng giải tỏa được gì. “- Giết đi hồn nguyệt hoa chiều? Giết đi cả dáng diễm kiều của xuân?” Tàn phá trong tưởng tượng xong một trận, lại tha thiết nguyện cầu cho nguôi lãng.

Đi vào mộng những Sơn Thần yên ngủ

Em! kìa em! đừng gọi thức hư không

Hãy quỳ xuống đọc bài kinh ái mộ

Hồn ta đây thành tượng giữa Vô Cùng

Toàn tập Mê Hồn Ca, vẳng lên một tiếng thét và một lời than. Tiếng thét của bạo động, của phản kháng, và lời than của ân hận nguyện cầu. Tiếng thét đạt tới chỗ cuồng loạn thống thiết nhất. Lời than cũng thê thảm sâu xa nhất.

Tiếng thét và lời than trầm thống của Đinh Hùng “Sầu trong tà dục, vui ngoài hiện tâm” dội lên song song với Hàn Mạc Tử, mở ra cuốn sổ đoạn trường của con người thế kỷ hai mươi, không còn nơi cu trú. Cuốn sổ đoạn trường mở ra như thế để làm gì? Không biết. Không biết. Nhưng cuộc mở ra nào cũng đi tới một trận khép lại.

Đinh Hùng trong Đường Vào Tình Sử, vốn đã có một lối khép lại của riêng ông sau cái trận Mê Hồn Ca, một lối “dùng độc dược thử lòng thế tục”. Chúng ta còn có nhiều lối “tịnh hạp” khác. Xin để tùy mỗi người tìm lối riêng của mình.

Ngôn ngữ thơ trong vài thế kỷ này đã nẩy nở xum xuê, thiên hình vạn trạng. Hoặc ẩn mật thần bí, hoặc đơn giản như một lời ca dao, thi ca vẫn có sức đưa dẫn người ta vào giữa huyền nhiệm của cuộc sống. Cuộc sống vừa khủng khiếp vừa nên thơ, cuộc sống không thể nào đem ra lý luận một cách máy móc. Luận lý học đã gạt gẫm người ta, người ta thi đua nhau tán dóc. Thằng thi sỹ không thể nào nhảy vào vòng luận lý đú đởn để hơn thua. Nó cảm thấy chán chường khi phải cùng người luận lý bàn luận thị phi. Tha hồ để cho bọn họ mặc sức tán hươu tán vượn, ngấm ngầm dùng mọi thủ đoạn để sát hại thi ca và thằng thi sỹ.

Nhưng thằng thi sỹ có tội lỗi gì đâu. Nó chỉ ghi lại một đường trăng tê dại, vẻ lại một màu tuyết lạnh, ngắt một chùm bông ở trên núi chiêm bao đem về làm tặng vật cho con người được rồ dại chịu chơi giữa chốn phù vân hoặc bụi hồng lông lốc. Mở ra những cuộc tình yêu rờn rợn vô thủy vô chung, o bế những cơn mơ tuyệt vọng, thì kể cũng hơn o bồng hôn hít mãi những con vợ già cục mịch cằn nhằn. Đêm tân hôn chỉ có một lần, buổi ly dị cũng chỉ ra tòa một bận, uống rượu ly bì cũng tới lúc tỉnh ra, chém giết nhau cũng mất công đào huyệt… Chi bằng vớ lấy bài ca mê hồn, thì lúc nào cũng có thể mở trận đảo tứ điên tam, ngang tầm với tứ khuynh ngũ phúc của cuộc thế dâu biển ngục tù. Tuyệt vọng? Thì thà rằng tuyệt vọng với những Kỳ Nữ Chiêm Bao, những Nữ Chúa Thái Cổ, những màu mắt nâu vô ngần của Gái Hải Đảo sơ khai, cũng hơn là tuyệt vọng vì những thiếu phụ đẩy đà ngồi trước quày hàng đếm những đồng tiền dị dạng… Một tay đếm tiền, một tay gãi vào chùm lông nách… thì như vậy còn chi là khói trầm bén giấc mơ tiên? Còn chi là bâng khuâng giải qua miền quạnh hiu? Ôi ông Hồ Dzếnh!

Thơ về nắng sáng lừng lay

Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra

Cõi trần vẳng tiếng Thiên Nga

Thơ không tuổi, ý không già: muôn năm

Gối lên Bắc Đẩu ta nằm

Nghe rung chân lạ, thơ thần mười phương.

(Hoa Xuân Đất Việt)

*

Vũ Hoàng Chương

Đá đâu lên tiếng thay vàng

Gỗ đâu mở mắt hai hàng bạch dương.

Nhiều người đã nói tới ông Vũ Hoàng Chương. Tại hạ còn biết nói thêm được lời gì bây giờ

*

Hàn Mạc Tử

Thưa, tôi không dám si mê

Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền

Bây giờ tôi dại tôi điên

Chắp tay tôi lạy cả miền không gian

Ông nói lời như thế mặc nhiên xóa sạch hết mọi nguồn thơ thế gian. Còn ai có thể làm thơ được nữa.

Thưa, tôi không dám si mê

Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền

Bây giờ tôi dại tôi điên

Chấp tay tôi lạy cả miền không gian

Tôi lạy cả miền không gian? Hãy để yên cho tôi điên tôi dại. Đừng ai nói đến tôi. Và nhất là đừng có bàn đến thơ tôi. Tôi không dám si mê, cũng không dám hoài vọng. Một mai tôi chết. Nghĩa là bây giờ tôi không còn sống. Tôi sống trong cơn dại cơn điên. Tôi làm thơ trong cơn điên cơn dại. Nghĩa là tôi chết hai ba lần trong trận sống. Tôi lạy cả miền không gian đừng có bắt tôi chết thêm một trận thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, chủ nhật…

Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền

Còn bây giờ không có ngọc tuyền đâu để tôi đến một bên tôi chết.

Bây giờ tôi dại tôi điên

Chấp tay tôi lạy cả miền không gian

Người yêu đừng bén mảng tới. Bạn bè hãy đi xa. Để tôi một mình tha hồ tôi điên tôi dại. Ai có đến gần thì hãy thử điên dại như tôi.

Tôi vẫn còn đây hay ở đâu

Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu

Người đi một nửa hồn tôi mất

Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ

Ông xua đuổi người đi vì ông không thể kêu gào người ở lại. Bởi vì nếu người ở lại, thì ông sẽ giết chết mất người. Ông giết chết mất người vì ông không thể đấm cho vỡ toang vũ trụ.

Bao giờ mặt nhật tan thành máu

Và khối lòng tôi cứng tợ si?

Nhưng vì sao ông muốn mặt nhật tan thành máu? Tan thành máu để cùng nhân gian chìm ngập trong đoạn trường? Mặt nhật chưa tan thành máu, thì chỉ riêng con người chịu đau khổ mà thôi. Hàng triệu triệu con người bị dìm trong máu. Trong oan nghiệt không cùng. Hàng triệu con người cũng đang cầu nguyện cho lòng mình cứng tợ si.

Cả thế giới này đang cùng Hàn Mạc Tử chia một thảm họa.

Em cố nghĩ ra một chiều vàng úa

Ngày nay người ta không cần cố gắng cũng thấy rõ sờ sờ một chiều vàng úa kia.

Em cố nghĩ ra một chiều vàng úa

Lá trên cành héo hắt gió ngừng ru

Một khối tình nức nở giữa âm u

Một hồn đau rã lần theo hương khói

Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi

Một lời run hoi hóp giữa không trung

Cả niềm yêu ý nhớ cả một vùng

Hóa thành vũng máu đào trong ác lặn

Hàn Mạc Tử biết rằng trừ ông ra, ngàn thế kỷ sau không còn ai có thể nói tới tận cùng thảm họa nhân gian. Nên ông phải dốc hết tim phổi nói một lần. Đó cũng là lời cầu nguyện cho nhân gian. Lời cầu nguyện sẽ phát khởi từ thảm họa dâng lên tới trời xanh. Lời cầu nguyện vang dội song song với lời nguyền rủa, vì có lẽ đó là chỗ bất khả tư nghị của từ tâm. Chúng ta có thể đọc ẩn ngữ kia trong mấy câu:

Ánh trăng mỏng quá không che nổi

Những vẻ xanh xao của mặt hồ

Những nét buồn buồn tơ liễu rũ

Những lời năn nỉ của hư vô…

Ánh trăng mỏng quá không che nổi, thì lời năn nỉ của hư vô đã khiến Hàn Mạc Tử dốc hết bồ đề tâm của mình ra trong tiếng gào thét hỗn độn của Caligula…

*

Hồ Dzếnh

Bài “Giang Tây”, và bài “Phút Linh Cầu” khiến tôi bải hoải tay chân. Không còn can đảm đọc thơ Nguyễn Du Huy Cận Hàn Mạc Tử Nguyễn Bính gì được nữa.

Hồ Dzếnh cũng không thể nào làm thơ tiếp được nữa.

Gauguin bỏ chạy trốn Âu Châu, tìm tới một hải đảo vô biên vô tế, suốt bình sinh ngồi vẻ lại màu mắt gái trùng khơi trong những buổi hoàng hôn đại hải, ấy cũng là một lối đi tìm cái dư vang nào trong thơ Hồ Dzếnh.

Biển chiều vang tiếng nhân ngư

Non xanh thao thiết trời thu rượu sầu

Nhớ thương bạc nửa mái đầu

Lòng nương quán khách nghe màu tà huân

*

Thơ

Thơ là cái gì không thể bàn tới, không thể dịch, diễn gì được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa rào bằng lời thơ. Thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phát động một trận mưa rào, hoặc một cơn gió thu. Mà muốn thực hiện sự đó, thì ngoài việc làm thơ ra, con người không còn phép gì khác. Thế có nghĩa là: muốn bàn tới một bài thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác.

Người xưa am hiểu sự đó, nên họ chỉ vịnh thơ, chớ không bao giờ điên rồ gì mà luận bàn về thơ. Người đời này trái lại. Họ buộc phải luận thơ cho có mạch lạc luận lý, không được “bốc đồng” (!) vịnh lăng nhăng. Cái chỗ ngu sy đó là điều bất khả tư nghị vậy.

Sự ngu si đã tràn lan khắp chốn, thì kẻ hiểu thơ đành phải tuân theo khắp chốn để mở trận ngu sy.

Từ đó nảy ra không biết bao nhiêu trận luận về thơ theo lối bửa củi, dịch thơ theo lối gặm xương gà (gặm được chút da, nhưng không hút được cái tủy).

Muốn hút được chút tủy, đảnh phải liều nhắm mắt cắn mạnh một cái. Cắn mạnh một cái, thì gãy mất hai cái răng. Thì còn bù vào đâu mà hút tủy được nữa. Kể đà thiểu não lòng người bấy nay.

Ông Crayssac dịch Kiều, ông có hút được nhiều chút tủy, và đã chịu gãy bao nhiêu cái răng của ngôn ngữ Pháp. Sau đây là một thí dụ của hút tủy và gãy răng.

Sinh rằng lân lý ra vào

Gần đây nào phải người nào xa xôi

Được rày nhờ chút thơm rơi

Kể đà thiểu não lòng người bấy nay

Bấy lâu mới được một ngày

Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là

Cái chất tủy trong thơ Nguyễn Du là: dừng chân gạn chút, được rày nhờ chút, người nào xa xôi, gần đây nào phải, lân lý ra vào, kể đà thiểu não, bấy lâu mới được, lòng người bấy nay, mới được một ngày, dừng chân gạn chút …vân vân.

Hãy xem Crayssac dịch:

Et le jeune homme alors à Thuy Kiéou répondit:

“Je suis votre voisin; j’habite près d’ici…

Ne voyez pas en moi quelque étranger, ma chère

Arrivant, impromptu, d’une lointaine terre…

Grâce à cet incident, j’ai respiré, très doux,

Quelque peu du parfum qui rayonne de vous,

Mais, hélas! de combien et de combien d’angoisses

Mon coeur dut-il subir les étreintes tenaces,

Et combien dut attendre, ô Ciel, mon triste amour

Avant de recevoir l’ivresse de ce jour!

De grâce, arrêtez-vous; que je puisse, de suite,

Montrer les sentiments intimes qui m’agitent…”

Ông dịch thơ Việt ra thơ Pháp như thế, kể còn trúng cách điệu hơn người Âu Châu dịch thơ người Âu Châu.

Henri Michaux có bốn câu vịnh “Băng Sơn” (Icebergs) đơn sơ bát ngát, mà bản dịch ra Đức ngữ đã chịu gãy mấy cái răng?

Icebergs, Icebergs, dos du Nord-Atlantique, augustes Boudhas,

Gelés sur des mers incontemplées,

Phares scintillants de la Mort

Sans issue, le cri éperdu du silence dure de siècles

Bản dịch:

Eisberge, Eisberge, Rücken des Nord-Atlantik, großartige

Gefrorene Buddhas auf den unruhigen Meeren.

Blitzende Leuchtfeuer des Todes ohne Ende wilder

Schrei des zähen Schweigens der Jahrhunderte.

Tiếng incontemplé (vô quan chiêm) lại dịch ra làm bất an, dao động… Le cri éperdu du Silence dure des siècles, trong bản dịch biến ra làm: le cri sauvage du dur silence des siècles.

Thế là nghĩa lý gì? Không biết. Không biết.

Duy có điều: dù sai lệch bao nhiêu chăng nữa, thì tinh thể ngôn ngữ Âu Châu vẫn nhiều điểm tương đồng, khiến dịch giả không đến nỗi phải chịu phận gãy răng lang bối bất kham.

Trái lại, giữa ngôn ngữ Âu Châu và ngôn ngữ Á Đông, có quá nhiều hang hố. Và những kẻ tự phụ cho mình đạt, công kích kẻ khác dịch là diệt, những kẻ đó hãy thư thả gẫm lại xem. Nếu những kẻ đó chịu bỏ ra vài chục năm suy gẫm vấn đề, ắt chẳng còn bao giờ dám tự phụ nữa.

*

Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử

Trang Tử vốn thường dùng phép ngụ ngôn. Vậy thì cái việc Trang Tử nói về sự vụ Khổng Tử tìm tới Lão Tử để “vấn Lễ”, sự đó thật là có hay là không có?

Nếu không có, mà Trang Tử dựng lên làm có, thì ý Trang Tử muốn gì? Trang Tử thật có ý muốn dìm Khổng Tử, hay đó chỉ là một phép lập ngôn cưỡng bức của ông để đẩy lùi bọn nho hương nguyện? Lời đáp hiển thị một cách quá hiển nhiên.

Còn nếu sự vụ vấn lễ kia quả là có thật, thì ta nghĩ sao về Khổng Tử? Nếu quả thật ngài có nói với môn đệ rằng “con chim thì ta biết nó bay, con cá thì ta biết nó lội, còn con rồng thì ta chẳng thể rõ nó lội lúc nào, nó bay lúc nào. Ta nay gặp Lão Tử như thấy rồng vậy”.

Nếu quả thật ngài trở về với môn đệ như thế, thì chúng ta nghĩ sao? Lời đáp cũng lại quá hiển nhiên.

Đừng nói chi tới Lão Tử là một bậc đại hiền (mà Khổng Tử biết rằng bọn môn đệ mình không đứa nào bì kịp), ngay đối với những nhân vật thường thường mà có được vài đức tính, ngài cũng không tiếc lời khen ngợi.

Vào thái miếu, việc gì sự gì ngài cũng hỏi. (Tử nhập thái miếu, mỗi sự vấn…) Ấy chẳng phải là vì không hiểu mà hỏi, ấy chỉ vì - thị Lễ giã.

Cái lời đơn sơ “vô khả, vô bất khả” của ngài, còn bàng bạc bao trùm hết mọi tư tưởng Trung Hoa - nó cho phép Lão Tử đưa cái đạo vô tri ra đời, nó cũng lại mở đường cho Trang Tử được phép cà gật đú đởn với lối lập ngôn “triêu tam nhi mộ tứ, triệu tứ nhi mộ tam”.

Đọc lại Khổng Tử, Trang Tử, Lão Tử, ta còn nhận ra một điều dị thường bất khả tư nghị này: Trang Tử cà gật, nhưng Trang Tử quán xuyến cái lẽ đương nhiên, và cái lẽ sở dĩ nhiên nào đã quyết định cái đạo của Khổng Tử. Trái lại Lão Tử có thể là đại hiền, nhưng không phải đại thánh hoặc thượng trí, thái tiên. Có thể rằng Lão Tử còn chấp trước. Có thể rằng Lão Tử còn khư khư bo bo với cái đạo vô vi của ngài. Có thể rằng ngài không rõ cái “sở dĩ nhiên” nào đã quyết định Khổng học. Có thể rằng Lão Tử không ngờ gì hết, không đủ tế mật để nghe ra cái lời đạm nhiên của Khổng: “thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an. Nhân yên sưu tai, nhân yên sưu tai!”

Ngôn ngữ Lão Tử có tính cách bộc trực, cực đoan, một chiều. Trang Tử đã lợi dụng Lão Tử để tấn công môn đệ Khổng Học, nhưng trong thâm tâm, Trang Tử có thể xem thường Lão Tử, mà kính phục Khổng Tử một cách không bến không bờ.

Trang Tử lập ngôn luôn luôn theo thể thái song trùng nhị bội, ông chừa những khoảng trống, những khe hở miên man, để cho cái duplicité de l’Être (tính chất nhị bội của Tồn lưu) có thể luôn luôn thong dong còn cơ hội đi về. Đó là điều thiếu hẳn trong ngôn ngữ Lão Tử… (Thật ư? Không hẳn…)

Trang Tử gần Khổng Tử trong lối lập ngôn song trùng nhị bội. Nhưng khác Khổng Tử ở điểm Khổng Tử đạm nhiên, ẩn mật, hoằng đại bao dong; Trang Tử du côn ăn nói toe toét, có pha chất quỷ quyệt.

Những thiên tài tư tưởng hiện đại của Trung Hoa, ngày nay lao mình vào cuộc viết truyện vũ hiệp, bỏ lại trận đồ triết học cho bọn học giả ru rú. Bàn luận thị phi với bọn học giả đó, người tư tưởng cảm thấy chán chường. Đó có lẽ là nguyên do sâu xa đã khiến tư tưởng Trung Hoa chìm đắm mấy ngàn năm. - Khổng Tử ngày xưa cũng đã thâm cảm sự đó. “Bất đắc trung hành nhi dữ chi, tất dã cuồng quyến hồ! Cuồng giả tiến thủ; quyến giả hữu sở bất vi dã”.

(Ta chẳng được hạng người theo đúng đạo trung để truyền đạo, ắt hẳn phải tìm đến bọn cuồng, bọn quyến vậy! Bọn cuồng có chí tiến thủ, bọn quyến có điều chẳng chịu làm).

Người Trung Hoa ngày nay chỉ có thể bắt đầu học tập tư tưởng là khi họ dám thử liều bước suy nghĩ rằng: đối với Khổng Tử quá cao viễn, tìm không được bọn người trung hành, thì thà ngài tìm đến bọn người cuồng - là Trang Tử, tìm đến bọn người quyến - là Lão Tử.

Người Trung Hoa hãy nên gột rửa sạch sẽ tinh thần mình, trừ khử khỏi đầu óc mình cái ý tưởng bo bo đem xếp Trang Tử, Lão Tử ngang hàng với Khổng Tử, rồi lăng nhăng sun soe mãi với những tiếng tam đạo, tam giáo, tam lý, tam ngu, tam hiền, tam thánh, v.v…

*

Xuân Diệu

Trưa hôm nay con ngồi như trẻ nhỏ

Giữa đáy trưa trong lòng mẹ vô cùng

Con là sáo, Mẹ là ngàn vạn gió

Mẹ là trời, con là hạt sương rung

Sương uống mãi chẳng bao giờ hết sáng

Của trời cao chói lói mỗi chiều ngày

Sáo ca mãi, lòng mẹ run choáng váng

Gió vẫn đầy ngàn nội bốn phương bay

(“Mẹ Việt Nam”)

Thơ Xuân Diệu thường có chất bát ngát hồn nhiên như thế. Tây Phương Đông Phương cổ kim không có nguồn thơ nào sánh kịp. Chúng ta quen thói chạy theo đuôi phong trào sùng phụng những Nerval, Hoelderlin, Rilke, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Tagore, chúng ta không còn cách gì ngờ ra rằng nguồn thơ Xuân Diệu có thể bao la hơn bất cứ một nguồn thơ thi sỹ nào. Việt Nam đã có một Nguyễn Du đi khắp cung bậc đoạn trường gay cấn, về sau có một Huy Cận tiếp hậu ngậm ngùi, một Phạm Hầu cô tịch, một Nguyễn Bính man mác ca dao. Thử hỏi: chúng ta còn cần chi tới bất cứ một nguồn thơ Tây Phương nào? Dù là Nerval hay Rilke, dù là Whitman hay Henri Michaux?

Chúng ta cần Xuân Diệu. Cần một vài vần lục bát của Hồ Dzếnh. Chúng ta đứng xa xa, nguyện cầu cho Hàn Mạc Tử, Chúng ta phải để cho thơ Xuân Diệu rúc vào tủy xương mình. Vì y đủ thói bông lông thắm thiết của con người thượng đạt. Y trẻ dại, y lăng nhăng, y nói tới nỗi đời rồi y xóa đa đoan dâu biển. Y hồn nhiên giũ áo, nắm lây cung cầm Tăng Điền đánh lên giữa mùa Xuân…

Có một suối thơ chảy từ gần gũi

Ra xa xôi và chảy đến gần quanh

Một suối thơ lá ngọt với hoa lành

Nói trong xóm và rỡn cười dưới phố

Nguồn thơ mới tuôn ra từ vũ trụ

Có lẽ là hơi là gió cũng nên…

(“Suối”)

“Thiên hạ xuôi xuôi ngược ngược, khệnh khạng kềnh càng, còn ta, ta hồn hồn ngạc ngạc ca hát như trẻ thơ… Hãy để cho trẻ thơ tới bên ta… Chim chóc tới bên ta… Các ngươi hãy gột rửa cái thói học đòi bác học đi. Các ngươi hãy mù lòa đi, và các ngươi sẽ không còn tội lỗi…”

Chân nhân đời xưa nói gì? Nói rằng: các người đừng dùng thủ đoạn, đừng lợi dụng những ông Nietzsche để sát hại trẻ con. Thảm họa của Nietzsche không phải là ở chỗ bị công kích, cũng không phải bị mấy ông linh mục lên án. Thảm họa của Nietzsche là ở chỗ: bị bọn hãnh tiến lôi về phe cánh mình để tiện bề gây rối loạn.

*

Nguyễn Bính

Mẹ cha thì nhớ thương mình

Mình đi thương nhớ người tình xa xôi

Đó cũng là tâm sự Đức Khổng Phu Tử vậy. Quê hương nước Lỗ thì nhớ ông. Mà ông thì cứ giũ áo ra đi lang thang chu du lữ thứ tìm kiếm khắp nước Tàu cái vong hồn tồn lưu nào chẳng rõ. Rồi san định bao nhiêu cuốn kinh, ghi chép cái ngấn tích phiêu bồng đã trôi tuột từ bao…

*

Huy Cận, Xuân Diệu

Huy Cận đi từ Lửa Thiêng tới Hội Hoa Đăng, Tặng Em Mười Sáu, tức là ông đi cái bước tối hậu, tại bách xích can đầu. Cũng như Nguyễn Du đã dẫn cung cầm bạc mệnh Thúy Kiều tới giai đoạn “đầm ấm dương hòa”. Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy? Xuân Diệu già trước tuổi, nên ngay từ đầu, ông đã xóa tiếng đoạn trường bạc mệnh bằng cái thể điệu ngấm ngầm niêm hoa vi tiếu bàng bạc trong thơ ông. Già trước tuổi? Nghĩa là phản lão hoàn đồng? Nghĩa là quá già nên hóa ra trẻ nít trở lại? Quá già kể từ đâu? Kể từ cõi Nguyễn Du vậy. Kẻ nào chưa hiểu rõ chỗ tận cùng tàn sơn thặng thủy trong cung bậc Nguyễn Du, kẻ đó không thể nào hiểu Huy Cận Xuân Diệu đã vì đâu mà già, do đâu mà trẻ.

(Xét lại xem Shakespeare đã đánh cung bậc nhị bội như thế nào kể từ Hamlet Macbeth Othello sang những vở hài kịch bát ngát của ông. Xét lại Sophocle: bên bi kịch Oedipe, còn có vở kịch Philoctète)

Nguyễn Du

Bấy giờ ai lại biết ai

Dù lòng biển rộng sông dài thênh thênh

Câu thơ hàm hỗn bát ngát dị thường đó, mọi bản dịch đều dịch một chiều. Không ai ngờ gì cả về cõi lập ngôn tủng bạt ráo riết của Nguyễn Du niêm hoa vi tiếu.

*

Phương Tâm

Thơ bà Phương Tâm mang nhiều màu sắc hải ngoại.

Mặt biển

Mặt biển xanh

Con tàu trắng

Con chim biển

Ôi

Con

Chim

Biển

Người bạn

Người bạn chết rồi

Một hôm ra khơi

Xa xôi nhỏ bé

Nhỏ bé

Xa

Xôi

Mùa xuân đã rụng mất rồi

Con cá

Con cá hôm qua ấy

Gặp con cá hôm nay

Hôm qua ấy hôm nay

Hôm nay ấy chính hôm qua

Kể từ cuống ruột tới rà

Kéo lê lếch giữa mù sa biển vàng

Con cá hôm nào thế

Một hôm con cá đi về

Từ khơi biển mặn cát đè lên tim

Từ trùng dương rộng đi tìm

Hội kim châu rụng trong miền phù du

*

Thích Thiên Thư

Nguồn thơ vị sư này chảy về từ cõi uyên nguyên Phật Giáo tràn ngập vào lục bát Việt Nam, trở thành một dòng riêng biệt bát ngát.

Đọc thơ ông và nghe ông ngâm thơ, tưởng chừng như chết lặng mất linh hồn và trùng sinh trong cõi khác.

Lời thơ như gột rửa máu me thể phách và vương vấn tâm thần như khói chiên đàn tụ về ngưng bích phủ sương mây Lãm Thúy.

Lời thơ giục giã lên đường Thái Hư, lại như thôi thúc yêu đương hoàng hậu Ai Cập. Lại như xóa bỏ mất cung thành để ngồi nghe âm thanh sa mạc. Lại như… Lại như… Lại như… Lại như… Lại như...Lại như...Lại như... Tôi muốn viết luôn một ngàn tiếng lại như để cuối cùng có thể nào biến lại như ra làm như lại và mất dấu nặng để trở thành Như Lai?

Cỗ xe mặt trời

Cỗ xe phía mặt trời chiều

Một con ngựa xoải về theo mặt trời

Cờ trên ải núi chơi vơi

Đứng buồn muôn dặm xa khơi còn tìm

Xe về dưới núi nằm im

Chim kêu rời rạc trên miền đất xa

Nghĩ mình cũng thủa thăng hoa

Chân đi viễn tượng đường xa khói mù

Lá cờ đen vọng muôn thu

Nghìn tâm sự để cho dù biển xanh

Chiều lên thác bạc sương ghềnh

Dưới khe khói núi cũng dầu nhớ nhau

Đá rừng vai tượng thiên thâu

Về em thêm một lần câu tình hoài

Sớm mây phố chợ tên người

Cỗ xe gác ngựa nuôi lời lớn khôn

Mù sương trên vai

Trên cao phố lẻ mặt trời

Cây nghiêng hàng dựng rã rời chim bay

Nghe chừng gió cuộn đâu đây

Bãi xa tiếng quạ dâng đầy nước sông

Ta về người đi buồn không

Mùa thu hoa trắng cho lòng nhớ em

Con tàu than hú ga thâu

Cây cao loáng lẻ buồn trên hồ cầm

Anh còn bạo động thâm tâm

Sương trên Vai tượng buồn câm nín chiều

Gửi đóa hoa về người yêu

Nhớ em đau đớn cho nhiều tầm tay

Anh ngồi qua một đêm nay

Đêm trên hầm rượu với cây kèn đồng

Vào thu

Với dung nhan cỏ hoa này

Chim di cũng lại từ ngày sang thu

Áo ai mây trắng bên hồ

Nghe như gió cũng gieo mùa phiêu bay

Nghe rừng xao xác trăm cây

Chim nao tiếng rụng bên ngoài nội hoa

Từ em cồn giấy mai hoa

Thơ trăm chữ đọng ý sa giọt buồn

Từ em ngơ ngác mùa sương

Nghiêng nghiêng nắng đổ còn vương ít nhiều

Từ em ngọn bút mai kiều

Anh mang dáng vóc mây chiều trên vai

Từ em đôi búp tay dài

Mười con chim nhạn bay ngoài cồn trăng

Từ em cài nụ hoa vàng

Từ em suối tóc bên hàng giậu bay

Lạnh mùa chim đi

Xao xác chừ mấy hàng cây

Mà trăng tĩnh mặc bên ngoài hàng hoa

Chim đôi tiếng rụng trong mù

Nghiêng nghiêng cõi núi vi vu gió mùa

Về từ hàng ngọn cờ xưa

Mây du đãng nhớ tang Vua nội thành

Nao nao một giọng cầm tranh

Mười hai ải khói trên thành gỗ thơm

Tay em hạc nội mây cồn

Chừ nghe tóc rũ nao hồn gió thu

Cơn mưa đáp bụi bay vù

Còn anh thân lạnh với mùa chim di

*

Thích Trung Tử

Vị sư này có giọng thơ phóng dật như thơ Đỗ Mục. Người rất điềm tĩnh, ai ngờ đâu thơ lại nồng nàn đắm đuối hơn kẻ si tình.

Xác thân

Xác thân này một cung say

Độ vui này một tháng ngày mộng du

Trí không này một ngục tù

Tóc em này một rừng thu quên về

Chiều lên thú vật lạ lùng

Lửa chân trời đỗ vỡ tung miên trường

Ta cười cuồng ngất khói sương

Rồi nghe biển động con đường thụy du

Trầm ca

Trầm ca heo hút với rừng

Tiếng lên trăm giọng tắt vừng Thái Hư

Bay rồi sương khói mùa thu

Còn đâu ải bắc lạnh từ dòng chim

*

Mẫu Thân Phùng Khánh

Nhiều người hỏi tôi có quả thật Phùng Khánh đã có đẻ tôi ra đời chăng. Bà đẻ ra tôi lúc nào?

Sự thật là Phùng Khánh chẳng hề có đẻ ra tôi một phen nào cả. Tôi nay bốn mươi bốn tuổi đầu. Phùng Khánh chỉ mới hai mươi sáu tuổi. Làm sao một thiếu nữ hai mươi sáu tuổi lại có thể đẻ ra được một ông cụ luống tuổi bốn mươi bốn, bốn mươi lăm? Nếu muốn đẻ ra được tôi, thì ít ra Phùng Khánh cũng phải lớn hơn tôi một vài tuổi mới được. Chẳng thể nào kẻ nhỏ tuổi lại đẻ ra một người lớn tuổi. Như vậy là trái đạo trời. Đạo trời không cho phép một con người mang nặng đẻ đau lúc người ấy chưa ra đời. Trường hợp hy hữu cũng có vài kẻ đẻ đau mang nặng ngay từ thuở sơ sinh. Thì mẹ và con có thể bằng tuổi nhau được lắm. Tuyệt nhiên không thể nào xảy ra trường hợp con lớn hơn tuổi mẹ được

Thế thì bởi đâu Phùng Khánh lại là mẫu thân của tôi, mặc dù bà không đẻ ra tôi? Ấy là bởi vì cái đường tơ luận lý học như thế này: Phùng Khánh vốn là bà mẹ Việt Nam. Tôi lại là con dân Việt Nam. Vậy thì tất nhiên Phùng Khánh là mẹ của tôi vậy. Nếu tôi không nhận Phùng Khánh là mẹ, thì chẳng ra tôi là người Lào? Hoặc người Cao Miên? Hoặc con dân Âu Mỹ ư?

Huống nữa là: Phùng Khánh là bà mẹ loài người. Tôi là con người. Vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi. Nếu tôi không phải là con của Phùng Khánh, thì chẳng ra tôi chẳng phải con người? Chẳng ra tôi là con vật?

Phân tích nghiêm mật luận lý học ra như thế, rành rành Phùng Khánh là mẹ của tôi.

Huống nữa là: trong cõi mộng mơ chiêm bao tại bình diện thi nhạc phiêu bồng, Phùng Khánh đích nhiên cũng lại là mẹ của tôi nốt. Tôi vốn là Trung Niên Thy Sỹ. Ai đâu có ngờ rằng những bài thơ bất tử tôi làm ra là do Phùng Khánh cả đấy? Mỗi phen tôi mơ màng nghĩ tới dung nhan diễm lệ Phùng Khánh thì giòng thơ bát ngát lại tuôn ra ào ào. Vậy thì hiển nhiên như nhiên thiên tài của tôi là do liên tồn Phùng Khánh đẻ ra vậy.

Tôi suy ngẫm suốt bao nhiêu năm trời, nhận ra sự tình cố kỳ nhiên đó, mới dám mạo muội mạnh bạo gọi Phùng Khánh bằng một tiếng Mẫu Thân. Há đâu dám bốc đồng mà gọi bướng!

*

Đặng Tấn Tới

Nguồn thơ ông rất đặc biệt. Đọc mấy thi phẩm ông, tôi còn giữ lại một cảm tưởng hiu hắt. Rủi sao, tập thơ ông, tôi bỏ lạc đâu mất, nên không thể dám mạo muội viết nhận định ra đây. Xin một dịp khác.

*

Trí Hải Ni Cô

Ni cô vừa rời bỏ Vạn Hạnh đi tu tiên ở trên núi. Nguyên nhân là: các vị sư ở Vạn Hạnh chế ni cô đã đẻ ra Bùi Giáng già nua, ni cô bẽn lẽn bèn giũ áo ra đi. Sự tình nông nỗi ấy, Thích Minh Châu phải chịu trách nhiệm một phần lớn.

*

Sách Vũ Hiệp

Mỗi bộ sách Vũ Hiệp dài mấy ngàn trang. Đọc vài ba chục bộ, ắt mòn mõi mắt môi miệng. Đó là một hiểm họa lớn. Si mê rượu chè còn khá. Si mê sách Vũ Hiệp thì sự tình là bất khả vãn hồi. Mấy năm nay, tại hạ chẳng còn tâm hồn đâu làm văn nghệ hoặc thong dong thưởng thức những thi phẩm mới của những nhà thơ trẻ trung tài tử, ấy chẳng qua vì linh hồn tại hạ toàn thể bị sách Vũ Hiệp xâm chiếm.

Nhiều kẻ làm văn nghệ chuyên môn tở mở phè phỡn bảo rằng tại hạ có thái độ cô đơn cách biệt đối với hàng ngũ văn nghệ hôm nay. Nghĩ mà bượch cười vỡ bụng!

Cô đơn cách biệt cái khỉ khô xơ mốc gì. Ơn ích gì đâu mà cô độc! Bảnh bao gì đâu mà đứng riêng một mình đối thoại với hư vô! Thà chui đầu vào tà xiêm Marilyn Monroe nằm ngủ mà liên miên thầm gọi Phùng Khánh mẫu thân, có phải là thơ mộng hơn không!

Ôi mẫu thân ôi! Mẫu Thân nỡ nào giũ áo đi tu tiên ở trên ngọn núi quai nhai như thế! Bỏ con ở lại Sàigòn tắt nghẽn trong từng tiếng kêu than!

*

Giải thích

Có kẻ hỏi tôi: - Các hạ đọc sách Vũ Hiệp lu bù như thế, tại sao bàn về sách Vũ Hiệp, các hạ lại bàn lai rai, thua xa ông Đỗ Long Vân?

Đáp rằng: - Ấy chính bởi tại hạ đọc lu bù mà ra nông nỗi ấy. Đọc lu bù thì đâm ra mù quáng. Cũng tỷ như bọn mê gái lu bù quàng xiên. Mê một gái thì sáng suốt nói về hồng nhan, còn mê trăm ngàn gái, thì tất nhiên điên tam đảo tứ, còn đâu bình tĩnh sáng suốt mà nhận định tố chất thiên hương?

Cũng tỷ như bọn mê đàn cầm. Nếu chuyên đánh dương cầm thì chỉ nên đánh dương cầm. Trái lại, một tay đánh dương cầm, một tay lại đèo bồng vĩ cầm, môi miệng lại đa mang ống tiêu, ống sáo, thì làm sao có thể cung thương làu bậc ngũ âm?

Cũng tỷ như bọn mê chuồn chuồn. Mê một con đã đủ. Hà tất phải mê hàng ngàn con! Làm sao theo dõi hàng ngàn cánh chuồn chuồn bay khắp không gian thiên thu vạn đại cho được? Ắt lâm vào tình trạng Tẩu Hỏa Nhập Ma.

(Tản Đà xưa bị Tẩu Hỏa Nhập Ma, ấy cũng tại ông ham uống rượu quá mức. Uống một lu đã đủ. Hà tất phải uống cho đủ bốn lu?)

Cũng tỷ như bọn ham đánh giặc. Đánh chơi một năm đã đủ, hà tất phải đánh tới hai ba mươi năm!

Cũng tỷ như bọn ham có mẫu thân. Có một Phùng Khánh mẫu thân đã đủ bát ngát lắm rồi. Hà tất phải tham lam có luôn cả Brigitte mẫu thân, Marilyn mẫu thân, Kim Cương Thái Thanh mẫu thân, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca mẫu thân.

Cũng tỷ như bọn ham có đồ đệ. Có một thằng đủ rồi. Hà tất phải lọm cọm đa mang như ông Khổng Tử có tới ba ngàn môn đồ như vua nhà Tần có tới ba nghìn cung nữ. Té ra ông Khổng Tử cũng lại là một loại bạo chúa ru.

Lại cũng như ông Nguyễn Du ham có hơn ba trăm năm có kẻ khóc mình. Có một mẫu thân Phùng Khánh cho con bú trong hiện tại đã đủ rồi, và dỗ cho nín bây giờ đã đủ rồi, hà tất phải dỗ con nín khóc ba trăm năm sau.

*

Ponce Pilate

Ponce Pilate muốn cứu Jésus, nhưng không cứu được. Một mặt đám đông la ó tràn lan. Một mặt Jésus không chịu nói. Hoặc có nói, thì nói lờ lững đâu đâu.

“Bọn chúng lên án Ngài tùm lum như thế, Ngài nghĩ sao?”

Ponce Pilate cố khơi ý cho Jésus, để ông có thể dựa vào lời đáp của Jésus mà tìm cách biện hộ. Nhưng Jésus không đáp.

Cuối cùng quẫn bách quá, Ponce Pilate phải sai người lấy roi quất túi bụi cho rách áo quần Jésus, quàng lên đầu Jésus một vòng gai nhọn, dẫn tới trước mặt đám đông bảo: - “Ecce Homo!”

(Đó, là người ấy đó!)

Nghĩa là: người ấy tội lỗi thế nào, chưa rõ, nhưng đã chịu trừng phạt như vậy, thế đã vừa lòng bọn các ngươi chưa?

Người ta có thể hỏi: Nếu quả thật Ponce Pilate có ý ủng hộ Jésus, thì tại sao ông lại bắt chẹt Jésus một cách gay cấn? Lúc Jésus nói “Kẻ nào đi theo chân lý, kẻ đó bước theo ta”, thì Pilate lại chơi khăm hỏi vặn: “Chân lý là gì?”

Ấy mới là chỗ thống thiết. Lời hỏi kia của Pilate biểu hiện nội tâm Pilate lúc bấy giờ. Chân lý là cái gì khó xác định, thị phi là cái gì khó phân biệt, ngài có tội lỗi hay không, tại hạ không thể quyết đoán… Tại hạ lóng cóng. Mà bọn chúng thì cứ la ó nhốn nháo cả lên… Ngài thì im lặng.

Vậy chỉ còn một phương sách dung hòa. Tại hạ xin đắc tội với Ngài vậy. Ngài hãy chịu qua loa một trận đòn, thử xem có giập tắt bớt cơn cuồng nộ của bọn chúng hay không…

“Ecce Homo” từ đó được Nietzsche chọn làm nhan đề một tập sách của mình. Ấy là một cách nêu trở lại ẩn ngữ Phúc Âm.

*

Đốn tre

“Khó nhất là đốn tre, khó nhì là ve gái.” Người thường dân thường khuyên bảo dạy dỗ con cái như thế. Thấy thằng con sỗ sàng ve gái, họ không trực tiếp ngầy ngà. Họ không nói: “Ve gái khó lắm lắm. Con phải chậm rãi từ từ…”

Họ nói quanh: “Khó nhất là đốn tre, khó nhì là ve gái”.

Lời nói ấy về sau sẽ khiến đứa con suy nghĩ. Nó tự nhủ: Bố bảo khó nhất đốn tre? Nhưng mỗi ngày ta có thể đốn được năm mươi gốc tre một cách dễ dàng. Khó nhì là ve gái? Sao suốt mấy tuần lễ nay ta ve con Mận mà nó vẫn dửng dưng chưa có bề nào ngã ngũ?

Từ đó cái câu “khó nhất đốn tre, khó nhì ve gái” đã giúp đứa con thể hội chân lý ngược lại. Ấy là: khó nhất ve gái, khó nhì đốn tre.

Đi vào cõi tư tưởng, chúng ta luôn luôn phải lưu ý tới cái lối ăn nói nghịch lý của người tư tưởng. Họ nói một đường để ta suy ra một ngả.

“Ngựa trắng không phải là ngựa”. Đó là lời Công Tôn Long.

Ông này là nhà tư tưởng Trung Hoa bị đam ngộ nhiều nhất.

*

Viết lại Nam Hoa Kinh

Nếu Trang Tử trùng sinh trong thời đại này ắt ông sẽ viết Nam Hoa Kinh như sau:

1. Nhe răng cười trong bóng tối, ấy là đạo vậy.

2. Không bao giờ bắt chuồn chuồn mà cứ bảo rằng mình luôn luôn bắt chuồn chuồn, ấy là đạo vậy.

3. Ngồi làm quan ở triều Nguyễn mà tự xưng mình là Nam Hải Điếu Đồ, ấy là đạo vậy.

4. Leo lên máy bay đi ra giữa biển Thái Bình Dương thả bom xuống cho bọt sóng tung lên chơi, ấy là đạo vậy.

5. Không thiết chi đọc sách, mà vẫn cặm cụi đọc hoài, ấy là đạo vậy.

6. Đi ngắm phong cành Bà Rịa và bảo rằng đây là phong cảnh Thừa Thiên, ấy là đạo vậy.

7. Suốt năm khắc khoải loay hoay mà tự cho mình thanh thoát phiêu bồng, ấy là đạo vậy.

8. Gọi Phùng Khánh bằng mẫu thân, ấy là đạo vậy.

9. Chiêm bao thấy Nam Phương Hoàng Hậu tỉnh dậy làm thơ tặng Gái Núi, ấy là đạo vậy.

10. Trong lòng khâm phục Khổng Tử mà mở miệng ra là công kích ông ta, ấy là đạo vậy.

11. Sống ngược hẳn giáo lý ông Khổng, mà cứ ca ngợi ông ta mãi, ấy là đạo vậy.

12. Thích Minh Châu không hề tương tư Thúy Kiều, mà cứ bảo bừa rằng ông ấy tương tư Thúy Kiều, ấy là đạo vậy.

13. Chán chường thi ca, mà cứ làm thơ hoài, ấy là đạo vậy.

14. Đêm tối ở trần gian đau đớn vô cùng mà vẫn bảo rằng trần gian lộng lẫy, ấy là đạo vậy.

15. Thấy người da trắng cũng đẹp bằng người da đen, ấy là đạo vậy.

16. Thấy đạo lù lù hiện ra khắp nơi, thì bảo rằng đạo rất mực vô hình vô ảnh, ấy là đạo vậy.

17. Đọc xong một bộ tiểu thuyết Vũ Hiệp, bỏ ăn năm ngày, ấy là đạo vậy.

18 - Bỏ ăn năm ngày, lại bảo rằng bỏ ăn năm ngày rưỡi, ấy là đạo vậy.

19. Không bỏ ăn, mà bảo có bỏ ăn, ấy là đạo vậy.

20. Viết cuốn Tân Thanh, chuốc sầu vạn đại thì bảo rằng mua vui cũng được một vài trống canh, ấy là đạo vậy.

*

Tư Tưởng và Thi Ca

Chân nhân đời xưa đưa ra một “chủ thuyết” nào, đều có như là tình phi đắc dĩ. Chẳng đừng được mà phải nói. Nói ra, mà vẫn có chỗ như là chẳng có muốn nói ra.

Chẳng đừng được mà phải nói tới nhân nghĩa lễ nghĩa, như Khổng Tử. Chẳng đừng được mà phải nói bỏ nhân nghĩa lễ nghĩa đi, như Lão Tử. Chẳng đừng được mà viết tề vật luận, như Trang Tử.

Trang Tử thường dùng phép “chi ngôn”, ấy là bởi ông đứng ngay giữa cơn lốc của sự tình bất đắc dĩ: muốn gát bỏ chuyện thị phi, mà vẫn cứ bị bó buộc phải nêu mãi chuyện thị phi.

Ta thường đem tư tưởng Khổng Lão Trang ra đối kháng nhau (kẻ chủ trương vô vi, kẻ hữu vi, kẻ xuất thế, kẻ nhập thế …) nhưng nếu xét tới cái lẽ “sở dĩ nhiên” của những chủ trương “trái ngược” kia, ắt mọi lời phân biệt phải dừng lại. Mọi lời biện bác bỗng có tính cách phù phiếm.

Và dường như không còn ai còn có thể đưa ra được một “tổng hợp” dưới hình thức một học thuyết.

Sau ba cái khối Khổng Lão Trang, tư tưởng Trung Hoa đã đi vào phiêu nhiên trong cung bậc Đường Thi. Rồi nó kết tinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Truyện Kiều là chỗ dung hợp của Khổng Lão Trang Phật.

Người tư tưởng không còn dám viết gì về tư tưởng nữa. Trang Tử tái sinh sẽ nghĩ sao về cuốn Nam Hoa Kinh của ông? Ông sẽ viết một bộ Tân Nam Hoa Kinh, hay là ông hồn nhiên ngâm câu thơ Hồ Dzếnh?

Thơ về nắng sớm lừng lay

Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra

Hoặc câu thơ Xuân Diệu?

Trưa hôm nay con ngồi như trẻ nhỏ

Giữa đáy trưa trong lòng mẹ vô cùng

Con là sáo mẹ là ngàn vạn gió

Mẹ là trời con là hạt sương rung

Sương uống mãi chẳng bao giờ hết sáng

Của trời cao chói lọi mỗi chiều ngày

Sáo ca mãi, lòng tre run choáng váng

Gió vẫn đầy ngàn nội bốn phương bay

Thơ như thế là cái chốn của “tâm vô thố hồ thị phi, hưu hồ thiên quân”.

*

Hồ Dzếnh

Thơ về nắng sớm lừng bay

Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra

*

Trần Xuân Kiêm

Ôi má người từ nay thôi hồng!

Thật là khủng khiếp! Ông Trần Xuân Kiêm còn trẻ hết sức mà đã khám phá ra cái chân lý khổng lồ như thế!

Ôi má người từ nay thôi hồng!

Trong chiêm bao thấy má người hồng. Môi người càng hồng hơn nữa. Tỉnh ra thấy…? Thấy gì? Có lẽ tỉnh ra thấy như cái điều ông Trang Tử đã thấy.

Thuở xa người

Một sớm người đi theo mây bay

Ta say nằm lạnh buốt đêm dài

Tỉnh ra thấy cụm hoa đầu ngõ

Ta vẫn còn, hay nỗi tàn phai?

Nửa đêm tỉnh dậy thấy sao rơi

Ta nghĩ người đang ở cuối trời

Ơi những đám mây còn lãng tử

Xin để hồn chùng trong đêm khơi

Ôi má người từ nay thôi hồng

Gió cũng trầm thương tóc thôi hong

Mai sau thoảng nhớ mây vườn cũ

Ta yêu người bằng mối tình không

(1-11-69)

Nguồn: Bùi Giáng, Thi ca tư tưởng (Sổ đoạn trường - Tức Đi vào cõi thơ cuốn II), Ca Dao xuất bản lần thứ nhất 12/69, Sài Gòn - Việt Nam. Bản điện tử do talawas thực hiện.

______________________

2

Hoặc phiêu bồng tâm sự tân toan lệ

Hoặc phiêu bồng tâm ý du dương tiếu

Hoặc phiêu bồng tâm mộng trúc loạn ty

Hoặc sao thì hoặc

Dù sao thì dù

Thể thái sao thì thể thái

Cốt cách nghiễm nhiên rất mực

Vẫn là bất tuyệt phiêu bồng

Vậy kẻ nào

Tự xét mình

Từ trong tinh thể mà ra

Chả có chi là phiêu bồng tí chút

Thì chả nên cưỡng cầu

Tự ép uổng

Ghé vào thi ca thâm xứ làm chi

Cho luống cái công lao trí hải

Cho phí cái công trình bình sinh tâm nguyện

Nay kính cẩn đề kê khai vô dữ ngữ

(Bùi Giáng)

Ví đem vào Sổ Đoạn Trường

Thì treo giải Một mà nhường cho hai

(Thúy Vân và Tam Hợp Đạo Cô)

Phạm Hầu

Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận

Chẳng biết xa lòng có những ai

Đó là hai câu thơ cuối bài “Vọng Hải Đài”. Đó cũng là bầu khí hậu mênh mang sầu cô độc bàng bạc khắp mấy bài thơ của Phạm Hầu còn rơi rớt lại chúng ta ngày nay.

“Chúng tôi đã cố công sưu tầm nhưng chỉ được đãi ngộ sáu bài thơ. Âu cũng lấy đó là niềm vui vậy.” (Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến)

Hai ông Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng đã viết một bài hoàn hảo về Phạm Hầu.

Chẳng biết trong lòng ghi những ai?

Thềm son từng dội gót vân hài

Hỡi ơi! Người chỉ là du khách

Giây phút dừng chân vọng hải đài

Kể từ ngày gặp Phạm Hầu trong Thi Nhân Việt Nam (của Hoài Thanh Hoài Chân) tới nay đã ngót một phần tư thế kỷ. Thằng học sinh đầu xanh nay tóc đã bạc. Nó xin đọc ôn lại thơ Phạm Hầu.

Mãi dân trọn hồn vui muôn độ trước

Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi thêm chi?

Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi

Gió bốn hướng dằn co trong tử biệt

Phạm Hầu viết những lời như thế thuở ông hai mươi mấy tuổi đầu. Hai mươi mấy tuổi mà dường như đã có đủ trong hồn một trăm năm đạo hạnh. Ông đi vào thi ca, nghệ thuật, với tâm hồn con người thanh tu đạt đạo. Người thanh niên ấy đã biết khước từ hết mọi thứ “dưỡng chất trần gian” và âm thầm gửi cho trần gian một chút tặng vật nho nhỏ.

Ngờ đâu tặng vật nho nhỏ kia lại khổng lồ như một Kim Tự Tháp nằm giữa sa mạc mênh mông để ghi lại ngấn tích một nền văn minh huyền ảo nhất thế gian.

Ông là con nhà thế phiệt trâm anh. Ông được kế thừa “y bát” của phụ thân Phạm Liệu. Y bát chân truyền kia đã đặt toàn khối văn học tư tưởng Trung Hoa tới đứng trước trận gió Tây Phương thổi lại. Thơ Phạm Hầu từ đó là cái vùng kết tinh của hai thể tinh văn minh. Hai văn minh đang gặp gỡ nhau, gùn ghè gắn bó hay tương tranh tiêu diệt nhau chơi? Chẳng rõ. Nhưng cái Tại Thể Thi Nhân của Phạm Hầu đã chịu hiến dâng thân mình ra làm Trường Sở Trụ cho cuộc cơn kia. Ông chấp thuận cuộc hôn phối cũng như cuộc giằng co. Và đem thân mình làm chiếc dương cầm cho ngân lên những cung bậc mênh mang chưa từng thấy trong văn chương kim cổ.

Mãi dâng trọn hồn vui muôn độ trước

Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi thêm chi?

Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi

Gió bốn hướng dằng co trong tử biệt

Trong Thi Ca Tiền Chiến, đã có một Xuân Diệu làm người thanh niên ráo riết, một Huy Cận làm người thanh niên ngậm ngùi, một Hàn Mặc Tử làm người thanh niên đau khổ cực độ, Chế Lan Viên làm người chứng nhân cho điêu tàn, Hồ Dzếnh làm người đề huề giao hảo…lại thêm một Phạm Hầu làm người nghệ sỹ cao vời trang trọng mang một thánh tính u u ẩn ẩn như Nerval. Phạm Hầu mở ra trở lại chân trời bát ngát của Nguyễn Du trong giai đoạn cuối buổi Hoàng Hôn. Ông nói ít hơn Nguyễn Du, ông không đi vào giữa những thiên vạn thể của biển dâu, ông chỉ đơn sơ có mấy lời, nhưng mấy lời đào sâu khôn tả trong mạch giếng tân thanh. “Mãi Dâng Trọn Hồn Vui” là một kỳ tác muốn chìm sâu xuống mạch thẳm sinh tồn. Rồi khi ta cũng chịu ngập mình xuống đáy thẳm kia, thì kỳ tác nọ bỗng hiện thị như một Tòa Cổ Tháp nguy nga. Xin chép hết ra đây bài thơ đấy.

Mãi dâng trọn hồn vui

Mãi dâng trọn hồn vui muôn độ trước

Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi thêm chi?

Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi

Gió bốn hướng dằng co trong tử biệt

Tiếng rên siết giờ tàn khi chấm hết

Cảnh thường xuyên đêm sáng đổi thay màu

Tim nhói lên nức nở những Ban Đầu

Những giờ cuối rơi rơi thầm tuyệt vọng

Hay đời hỏi thịt êm và tủy nóng

Tôi xin nằm yên ổn cả chân tay

Nắng có lên không mượn rợp cây bày

Mưa có xuống thêm băng hàn chút nữa

Trong đầy ải mình trần tê ngọn lửa

Tiệc chim bằng rỉa rói một lòng đơn

Nếu tôi đau mà người nhẹ căm hờn

Chắc hoa núi vui lay ngàn đóa mộng

Muôn miệng thắm tươi nụ cười hé rộng

Muôn chân say lay động khúc quân thiều

Nếu tôi đau mà người được tin yêu

Trang sách nhỏ nâng niu hồn xứ lạ

Trên đêm thúy hoa nô liều áp má

Đôi bạn đời tay dính nhựa a-giao

Nếu tôi đau, Trời đẹp! Nếu tôi đau

Mà muôn đời mưa nắng hiểu lòng nhau.

Jesus Christ lúc lên Calvaire, ắt Ngài cũng âm thầm nguyện cầu như lời đó. Ngài đã về giữa bụi hồng, rửa chân cho bụi hồng nhân gian, bây giờ Ngài vĩnh biệt nhân gian, bây giờ Ngài vui lòng vĩnh biệt, và lời chúc phúc tối hậu của Ngài hẳn nhiên là: bụi hồng ở lại hãy tiếp tục rửa chân cho nhau.

Còn Như Lai? Như Lai ỡm ờ niêm hoa vì tiếu:- “Ta có thấy bụi hồng nào đâu? Ta đâu nào thấy đâu có bàn chân chi đâu mà rửa với chẳng rửa? - Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà?..”.

Như Lai có cái tài tình trong phép đánh trống lảng. Đọc mấy bộ kinh Phật, ta xin xóa hết những nhan đề “Kim Cương Kinh, Bát Nhã Kinh, Bà Là Mật Kinh, Hoa Nghiêm Kinh, Pháp Hoa Kinh, Diệu Hoa Kinh, Huyễn Hoa Đệ Nhị Kinh, Ảo Hoặc La Treizième Kinh…” Xóa hết và chép lại là: “Như - Lai - đích - đánh - trống - lảng - tài - tình - tuyệt - kỹ - kinh.

*

Hồ Dzếnh

Ta không muốn nắn cung đàn

Đêm xưa dạo dưới trăng vàng đợi em

Bền gì thấp thoáng hương duyên

Đẹp gì mấy sợi mây huyền gọi mơ

Thơ dâng ngùn ngụt sắc cờ

Máu tươi hoen ố những giờ ái ân

Quên chân là khách dương trần

Trái tim đau xót bao lần vì yêu

Bình minh về ánh cao siêu

Lên thay lửa sống tiêu điều ngày xưa

Ta cười thấy cháy duyên mơ

Hân hoan khi xé những tờ… rất thơm

Ý thiêng choán hết linh hồn

Còn đâu gió nhớ cung buồn mà ca

Lần đầu trước bóng em xa

Không nghe run trái tim và…rất vui

(Hoa Xuân Đất Việt)

*

Nguyễn Du

Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân…

Những câu thơ đẹp thiên hình vạn trạng, Nguyễn Du đã dành riêng cho Thúc Sinh một bồ rất lớn.

Mày xanh trăng mới in ngần

Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa…

Lưu tâm tới những vần riêng biệt Nguyễn Du dành riêng cho Thúc Sinh, ắt ta sẽ nhận ra một ngụ ý sâu thẳm của Nguyễn Du. Người ta sẽ không xô bồ đứng trên quan điểm tâm lý học để bảo rằng Nguyễn Du đã tả được linh động một nhân vật nhu nhược, sợ vợ, hèn nhát, v.v…

Hình ảnh Thúc Sinh sẽ đứng tại Trung tâm cái vùng tư tưởng thăm thẳm của Liệp Hộ, mà Dịch Kinh sẽ chiếu cố tới bằng những tiếng chả hạn như: “nhứt tịch nhứt hạp vị chi Biến, vãng lai bất cùng vị chi Thông…”

Hoặc: “phù kiền thiên hạ chi chí kiện dã. Đức hạnh hằng dị trĩ tri hiểm. Phù khôn thiên hạ chi chí thuận dã. Đức hạnh hằng giản dĩ tri trở…”

Hoặc: “Nguy giả, an kỳ vị giả dã. Vong giả báo kỳ tồn giả dã. Loan giả hữu kỳ trị giả dã. Thị cố quân tử an nhi bất vọng nguy, tồn nhi bất vọng vong, trí nhi bất vọng loạn…”

Vân vân vân vân. Và mọi thứ vân vân đều có thể lược giảm về một tiếng đơn sơ “vô khả, vô bất khả”.

Riêng một sự nhầm lẫn dị thường của học giả bấy nay về Thúc Sinh, đủ khiến chúng ta kinh dị hãi hùng, chẳng còn biết ăn nói gì ra gì được cả. Chẳng còn biết phải đặt vấn đề từ đâu ra đâu.

(Đã như vậy, còn biết rớ vào đâu mà bừa bãi nêu câu hỏi về Shakespeare, Homère, Lý Bạch, vân vân?)

Cái cuộc Kim Kiều dễ hiểu. Cuộc Từ Hải Kiều, cũng không rắc rối gì lắm. Nhưng cái cuộc Thúc Sinh Kiều, Hoạn Thư Kiều, lại là cái cuộc hàm hỗn gây náo động nhiều nhất trong tác phẩm Nguyễn Du.

Đừng nói chi xa xôi. Chỉ thử hỏi: - Riêng cái việc Kiều tắm hoa trong một mùa Hè, lúc lửa lựu lập lòe đơm bông ở đầu tường, riêng cái việc cô Thúy tắm thôi, đã có gì như một “biến cố” hãi hùng, đến nỗi Nguyễn Du đã phải để chàng Thúc vịnh vào chỗ đó, bằng một bài Đường Thi - nghĩa là bằng cả lịch sử thi ca Trung Quốc? Đem cả một khối lịch sử kia về mở đối thoại với cái tòa thiên nhiên dày sẵn đúc kia, Nguyễn Du có dụng ý gì? Và từ đó Thiên Nhiên (Phusis) đã thành Tượng?

Người ta sẽ xô bồ đáp một cách nông nổi rằng: - Nguyễn Du chả có đặc biệt dụng ý gì hết cả. Ông phỏng theo truyện Tàu, trong truyện Tàu có bài thơ vịnh Kiều tắm, thì ông Nguyễn Du cũng nhắc qua loa cái chuyện Thúc Sinh Vịnh Kiều tắm đấy thôi. Hỡi ôi! Nếu xét cho cùng kỳ lý, thì trong truyện Tàu lại còn tỷ mỷ ghi chép bài thơ nảy lửa nọ ra:

Dạ nguyệt thanh lâu đảo ngọc hồ

Mỹ nhân thừa túy khiết cù du

Băng cơ thỏ phách tranh minh mỵ

Tuyết thái hoa âm bán hữu vô

Sở khởi đái tu hô bạn thức

Dạ hành hàm tiếu thiến nhân phò

Lâm ty khoái nhập phù dung trướng

Chẩm thượng đê thanh xướng chá cô….

Bây giờ chúng ta nghĩ sao? Có phải rằng bấy lâu nay những lời bàn tán của chúng ta về Nguyễn Du, chẳng qua chỉ là tán hươu tán vượn? Nếu có đúng chăng nữa, thì cũng phải nên trả hết những lời ấy về cho truyện Tàu của Thanh Tâm Tài Nhân?

Nếu câu hỏi não nùng ra như thế, bỗng nhiên chúng ta chạm phải một ẩn ngữ không cách gì trực tiếp giải đáp.

Trong truyện Tàu, quả thật Thanh Tâm Tài Nhân đã có dành cho cặp Thúc Sinh Thúy Kiều một chỗ nằm ngồi rộng rãi tình tứ miên miên. Há đâu phải đợi tới ông Nguyễn Du mới có!

Kiều tiễn Thúc Sinh đi, đề mười bài miên man những tán thán “kim tịch thi hà tịch?” những thở than “vấn quân hà nhựt tái quy đầu? Bất tri hà nhựt thị quy kỳ?”, chiêm vọng hương quan hà xứ thị?”…Thúc Sinh đi rồi, Thúy Kiều nằm trong giường mê man hoài niệm ngâm vịnh sáu bài trùng trùng điệp điệp những “tự quân chi xuất hỹ”, những “bất cảm thượng thanh lâu”, những “bất ngôn diệt bất ngữ”, những “vô nhựt bất nam tư”, “tư quân quân bất chí… vân vân…

Kinh khủng thật.

Những lời nồng nàn cháy bỏng máu me liên tồn thốt ra như thế, quả thật không còn coi trời đất ra gì. Chúng ta không dám nấn ná ở lại lâu. Ở lại lâu trong bầu khí hậu đó, ắt sẽ loạn mất tâm thần, tiêu ma tinh thể, còn đâu bình tĩnh sáng suốt mà nhận định đâu vào đâu để bàn tới dụng ý ông Nguyễn Du hay là dụng tâm của ông Du Nguyễn. Xếp lại mọi thứ đó, câu hỏi được nêu thành chất vấn như sau: “Cả ông Nguyễn Du, cả ông Thanh Tâm Tài Nhân, cùng có dụng tâm dụng ý gì, mà lại tả cái cuộc Thúy Kiều Thúc Sinh một cách não nùng thiết tha như thế?”

*

Phạm Hầu

Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân

Xa nắng chiều hoe nhạt mấy phần

Một cột đèn cao mơ góa bụa

Đường dài toan nối hận gian truân

Bốn câu thơ đầu bài “Lý Tưởng” của Phạm Hầu dường như kết tụ cả mối sầu của lớp người ngày trước… Sầu trong Lửa Thiêng, sầu trong những vần tịch mịch nhất của Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính… cùng tìm về đây hội họp. Bốn câu quá sức mênh mang trầm tịch. Dường như tất cả những buổi chiều cô tịch Việt Nam đã ngưng đọng lại một lần. Những buổi chiều Thừa Thiên, chiều Hà Tịnh, chiều Quảng Ngãi Nam, chiều Sơn Tây…

Nhưng mà thật ra trong bài thơ kia Phạm Hầu không có dụng ý tả buổi chiều gì cả. Nhan đề là “Lý Tưởng”. Người thy sĩ đi theo bóng lý tưởng đã bắt gặp màu sắc chiều tàn. Lý tưởng ở đâu? Thiết tha theo đuổi, nhưng chỉ nhìn thấy hoang vu. Chẳng ra lý tưởng là hoang vu hư không? Phải o bế hư không? Hôn phối với hư không, để thành tựu mộng hờ lý tưởng? Lý tưởng là mộng hờ? Biết rõ mộng hờ mơ góa bụa, sao vẫn cứ đeo đai đòi giao hoan với góa bụa?

Biết rằng vô ích sao tôi vẫn

Phung phí đời tôi mấy độ tươi

Cổ kim có một thi nhân, nghệ sỹ, hiền nhân chân chính nào, lại chẳng nhận ra chính mình trong lời thở than đó của Phạm Hầu?

Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc

Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ

Nói theo ngôn ngữ bình dân thì ấy chính là cái cuộc:

Thả mồi bắt bóng

Bóng bắt chẳng được

Mồi kia không còn

Há chẳng là

Đáng tiếc lắm ru?

Vâng. Biết rành rành rằng thế là đáng tiếc, mà sao vẫn cứ lu bù mài miệt trong cuộc đáng tiếc kia? Vì sao như thế?

Ấy bởi lẽ trầm trọng sau đây:

Thằng thi sỹ có cái cảm tưởng cắc cớ rằng: nếu từ bỏ cái cuộc cặm cụi loay hoay bắt bóng nọ, đã đành là trách được một cuộc đáng tiếc, nhưng vì lẽ gì, hỡi ôi! Chính cái sự tình tránh được cuộc đáng tiếc, lại chính đó là điều đáng tiếc khôn hàn, gay cấn trong mọi sự đáng tiếc ở đời.

Do đó, dù biết rằng đuổi đeo là đáng tiếc, là mòn thân mỏi thể, thân tàn ma dại, v.v… vẫn cứ ù lỳ đuổi theo mãi mãi suốt một bình sinh.

Thì cũng chẳng khác chi ông già Heidegger suốt một bình sinh cố công nhọc sức chạy đi kiếm tìm hư vô, để nắm lấy cái hư vô mà dắt dìu dẫn nó về cho Tại Thể đem nó ra mà thiết lập căn cơ cho Siêu Hình Học!!! Một hai lận đận nói mãi rằng Tồn Lưu chỉ có thể nhận diện mình là lúc Tồn Lưu chịu soi bóng mình trong tấm gương vô dạng của Hư Vô!

Một trận hiện diện dị thường trong khiếm diện gây nên một tình tự vừa hoang vắng vừa chan hòa, một khuyết phạp thường hằng lại để mọc ra xum xuê những lá cây viên mãn cứ xô ùa nhau rụng mãi.

Đó là cái tạm gọi là rappochement des extrêmes: participation totale et solitude.

Bây giờ chúng ta nên thư thả đọc lại bài “Lý Tưởng” kia, suốt từ đầu tới cuối, thử đọc thuộc một trận chơi, để xem mai sau trong chiêm bao, có còn cơ hội điều tra ra manh mối chập chờn kia của “Lý Tưởng”.

Lý Tưởng

Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân

Xa nắng chiều hoe nhạt mấy phần

Một cột đèn cao mơ góa bụa

Đường dài toan nối hận gian truân

Tôi theo tư tưởng vô cùng tận

Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu

Sáng sớm: rạng đông, chiều: chạng vạng

Những giờ mới lạ có bao nhiêu?

Thuở nhỏ đêm mơ nằm thấy bướm

Giờ không mơ bướm lại mơ thơ

Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc

Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ.

- Ao ước ngày mai sắc nắng thơm

Chiều mai thôi ráng nhuộm cô đơn

Chiều qua gió thổi lời tôi nguyện

Quên thổi giùm tôi hận chập chờn.

Tôi đợi người đây, Tuyệt Đích ơi!

Dẫu xa, xa cách mấy phương trời

Biết rằng vô ích sao tôi vẫn

Phung phí đời tôi mấy độ tươi.

Nếu bây giờ chúng ta đem cái tiếng “lý tưởng” của Phạm Hầu ra bài xích theo lối thô thiển của những người chuyên môn đẽo gọt từ ngữ theo lối phân tích tủn mủn “hợp thời trang”, thì ắt cái lý tưởng kia không còn đất đứng. Phải xóa sạch nó đi để dọn đường cho khoảnh khắc hiện tại. Người ta quên mất rằng mọi ngôn ngữ thi ca là của riêng thi ca. Chúng không có liên can chi tới cái ngôn ngữ máy móc. Chúng nằm trong cái mạch sinh động tuôn trào như một làn phi tuyền từ lòng đất uyên nguyên. Chúng nói lên cái niềm ngạc nhiên nguyên thủy của con người đối diện với cõi thế lưu ly. Nó quên bẵng mọi thứ nhân tuần cập kè trong xã hội ganh đua. Vì thế nó khai trừ cái “ký ức” lếu láo, cái “kinh nghiệm” bon chen, để phục hồi cái ký ức mênh mông, cái kinh nghiệm bát ngát trong những cuộc Lữ dị thường “trải qua một cuộc biển dâu…”

Muốn quên, thì phải có nhớ. Muốn nhớ thì phải có quên. Nhưng quên cái gì và nhớ cái gì? Người ta xao lãng sự xác định đó. Người ta hí hửng a dua lao đầu tới ghì chộp viên kẹo “mới” và cứ tưởng mình tân kỳ biết coi thường cái bánh cũ.

Nếu bây giờ chúng ta thử quên hết mọi giáo lý mà Ki Tô Giáo cũng như Phật Giáo ngày nay nói với ta, thì ắt cái hình ảnh nguyên thủy của Chúa Ki Tô và Như Lai sẽ hiện ra trong một niềm kinh thán bao la. Nếu ta quên đi hết mọi bài giảng giải chuyện Kiều của giáo dục nhà trường và của mọi ông học giả, ắt Nguyễn Du uyên nguyên sẽ hiện trở lại với cái vùng sương bóng của cuộc Lữ mênh mông Liệp Hộ, và của cơn Tịch Nhiên bất động của Thanh Hiên. Từ đó sẽ nảy ra một cuộc Hiện Diện vô ngần trong một cuộc Đối Thoại vô tức vô thanh. Vô tức vô thanh, vì nó không liên can chi tới những âm thanh của học giả. Vô ngần nghĩa là vô ngấn tích. Cuộc hiện diện vô ngấn tích vì nó nằm trong một trận khiếm diện dị thường đối với mọi thứ mưu toan thủ đoạn.

Bài thơ của Phạm Hầu đi về giải thích cho Gia Long cái thái độ im lìm của Nguyễn Du. Giải thích cho Gia Long? Nhưng có đời nào Gia Long hiểu. Những ông vua Gia Long là những ông Chúa Tể Vạn Vật, Những ông ấy không bao giờ chịu làm Kẻ Láng Giếng thơ mộng của Tồn Lưu. Biết rõ rằng những ông ấy không bao giờ nghe ra gì gì cả, nhưng Khổng Tử xưa cũng cứ mở cuộc Lữ Chu Du tới bên gùn ghè đối thoại. Đó cũng là một cách chịu chơi với Sa Mạc. Cuộc Chu Du của Khổng Tử từ đó mang trọn cái ý nghĩa câu thơ:

Một cột đèn cao mơ góa bụa

Đường dài toan nối hận gian truân.

*

Ngân Giang nữ sỹ

Xin tặng bà mấy câu thơ tôi lắp lại thơ bà một buổi chiều lỡ dở:

Hoa đào ngỏ vắng rụng mong manh

Tỉnh giấc trà suông liễu rủ mành

Đất lạnh xóm nghèo hoa chậm nở

Can tràng ai hẹn với ngày xanh

Ngày xưa chúng tôi không được đọc thơ bà. Sách Hoài Thanh Hoài Chân đã bỏ sót. Nay gặp bà trong sách của Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng. Thấy ông Bùi Khánh Đản họa thơ bà, tôi cũng xin nối điệu chút ít. Tôi không biết họa thơ. Xin gieo vài lời vịnh lạc lõng:

Mưa thu buổi sáng ướt thềm

Tiếng rên rỉ nọ còn thêm nỗi gì.

Dâng lên từng đợt lỗi nghì

Mùa xuân đã chết ai về gọi thu

Tôi đọc kỹ những bài thơ và văn xuôi của bà trong cuốn sách ấy. Tôi biết nói gì bây giờ? Chẳng lẽ lại lảm nhảm nói một điều quá hiển nhiên rằng thơ bà cũng quan trọng như thơ bà Huyện Thanh Quan? Đằm thắm não nùng như linh hồn Đoàn Thị Điểm? Bà hiện giờ ở đâu? Nếu quẩn quanh có mặt ở Sài Gòn? Thì chắc tôi xin rúc ra khỏi gian nhà, đi tìm thăm viếng bà.

Bài “Xuân Tưởng”, bà có ghi: “Dám mong các bạn thơ trả lời bằng những câu hỏi thơ này”.

Tôi cũng không thể trả lời bằng thơ. Trả lời bằng văn xuôi cũng không thể. Chỉ có thế viết câu hỏi của bà đã nêu ra:

Hoa đào múa cánh cuối đông rồi

Một vẫy tay tiên đủ tám bài

Ngày muộn trường văn tàn nét bút

Người làm thơ muộn đấy là ai?

Là ai? tôi không biết. Nhưng người làm thơ muộn có thể biết. Vậy để nhờ người ấy đáp.

Cách mấy mươi năm giấy mực già

Bất ngờ trùng hiện gió xưa hoa

Người làm thơ muộn nêu câu hỏi

Kẻ muộn làm thơ họa há là…

Tạm đáp dở dang như thế. Bây giờ tạm gọi là bình tĩnh yên ổn. Xin chậm rãi chép lại vài bài thơ của bà ra đây.

1. Ngày xưa

Ngày xưa có một người thơ

Vào rừng thông lạnh đợi chờ gió reo

Chim hôm loáng thoáng qua đèo

Cảnh chiều buông tiếng chuông chùa ngân nga…

2. Thế ra

Thế ra thu đã đến rồi

Thảo nào mưa gió tơi bời mấy hôm

Xa xôi ai đấy có buồn?

Thôn Dương ngành liễu võ vàng tương tư

3. Đêm mưa

Gió mưa ướt áo đủ rồi

Sao còn ngấm lạnh lòng tôi thế này

Ốm đau đã mấy tuần nay

Nét cười đã với tháng ngày trôi xa

Giờ không gạn chút vui thừa

Tựa song quạnh vắng nhìn mưa rơi buồn

Nhờ ai chắp hộ mảnh hồn

Đã vì đau giận rũ tan khắp trời

Mưa rơi từng giọt mưa rơi

Lòng ai có lạnh như tôi thế này

Kính thưa Ngân Giang nữ sỹ!

Vãn bối nhận thấy rằng thơ và văn xuôi của tiền bối đều đạt tới mức lô hỏa thuần thanh. Tiền bối hồn nhiên đạt tới như thế là vì tâm hồn tiền bối mênh mông? Hay là tiền bối có chịu khó luyện tập nhiều năm nên mới đạt được thập thành công lực?

Nay mai nếu tôi làm được bài thơ nào, tôi xin đề tặng tiền bối. Và nếu tiền bối cần thỉnh giáo điều gì, tại hạ cũng sẽ sẵn sàng chỉ vẽ cho. Chả hạn? - Chả hạn: tại hạ vốn là thằng thy sỹ đi khắp cõi uyên nguyên, siêu thực, gặp từ con chuồn chuồn nguyên thủy bão giông, tới con hùm thiêng thủy nguyên giông bão, vì lẽ gì tại hạ lại còn chiều chuộng những bài thơ chả có chi bão tố phong ba? - Đáp rằng: tại hạ đã chán ngấy hết mọi thứ phong ba bão tố rồi. Tại hạ thấy nó cũng ù lý le lói ra một thứ nhà ma đó thôi. Ích gì mà triền miên lâu ngày ở trong đó. Nên bế mạc sớm cho xong. Tại hạ tìm tới viếng thăm tiền bối, xin uống một tách nước trà đạm nhiên là đủ. Chỉ cầu mong một điều: trà kia không có pha thêm những bột phấn phồn hoa, và bàn tay pha trà không phải là bàn tay của một kẻ tốt nghiệp chuyên môn nơi một trường cao đẳng Trà Đạo, Trà Lý gì gì hết cả.

*

Vân Đài

Đọc ông Nguyễn Du mãi cũng chán. Rồi từ Đường Thi, nhảy vọt qua Tây Phương, chạy tìm những Tượng Trưng, Siêu Thực, Siêu Thể, Siêu Hình, hơn hai mươi năm, kể cũng đà tới lúc ớn khắp linh hồn. Thơ Nguyễn Công Trứ là một con zéro. Thơ Cao Bá Quát là một con zéro rưỡi. Thơ theo thể Đường Luật của các ông Nho học uyên bác, toàn là rờ rẫm cóp nhặt Tàu, những bộ xương khô quái gỡ. Hàng vạn bài na ná giọng điệu giống nhau.

Chỉ còn mấy bài của Ngân Giang nữ sỹ và Vân Đài nữ sỹ là có linh hồn. Hai bậc tiền bối này quả có chân thành. Có sống trọn linh hồn. Bài thơ hai bà làm đúng là bài thơ sông núi. Dù có sáo chăng nữa, thì đấy cũng là cái sáo của sông núi phát tiết ra.

Yêu thương dậy lại đầy trời

Lòng ơi! Đường cũ núi đồi còn đây

Đọc câu thơ như thế, quả thật tại hạ muốn làm đứa bé xách giép cho bà, đi sau chân bà, ủng hộ bà trong cuộc ngao du sơn thủy.

Kể chuyện Nerval! Heidegger cho bà nghe.

Bà cũng biết uống rượu

Giốc cạn duyên thơ quá chén rồi

Men nồng thắm đỏ khắp hồn tôi

Vui không có bạn sầu không có

Nằm giữa lòng trăng khóc giữa trời

Đầu ngã cành xanh vai vũ trụ

Tay ôm hương sắc những mùa tươi

Quên nghe thời khắc quên năm tháng

Say uống hương hoa giữa suốt đời

Cái thứ rượu bà uống say kia té ra không phải la de hoặc rượu đế. Tại hạ mừng hụt. Phải chi tiền bối uống rượu thật sự, thì mỗi phen nhậu nhẹt, ắt tiền bối gọi tại hạ tới cho nhấm chút ít.

Dù sao hai câu thơ đồ sộ bát ngát của tiền bối cũng an ủi vãn bối phần nào:

Vui không có bạn sầu không có

Nằm giữa lòng trăng khóc giữa trời

Quả thật bốn ngàn năm văn hiến Việt Nam, chỉ có thể cho nảy hột tinh hoa ra hai câu thơ như thế. Phải chi ông Nguyễn Du, ông Nguyễn Trãi còn sống thì vãn bối đem hai câu thơ ấy đọc cho hai ông nghe.

Lục bát của bà trong bài “Biệt ly” cũng thật dịu dàng. Ta phải coi Vân Đài nữ sỹ như bà ngoại bà nội chúng ta, thì mới cảm hết cái chỗ mênh mông trong mấy vần này:

Lòng ta tràn ngập nỗi buồn

Như người đứng ngã ba đường nhớ ai

Trái tim hồi hộp thở dài

Hòa theo với tiếng bốn trời tiễn đưa

Sáng nay mây trắng bơ phờ

Gió ngừng mặc rặng lau thưa bên nguồn

Thuyền đi sông nước ngại ngùng

Bến xanh xanh vẫn ngóng trông tháng ngày

Giang lăng cách trở đâu đây

Nghe đêm vượn hót nghe ngày chim kêu.

(“Tặng cảnh Cát Bà”)

*

Xuân Diệu

Nếu đọc Vân Đài và Ngân Giang, phải nghĩ rằng đó là lời thơ của bà ngoại bà nội chúng ta, mới cảm thấy hay thấm thía - thì đọc Xuân Diệu, ắt nên nghĩ rằng đó là thơ của một thằng em. Sự tình tứ đó sẽ đổi hẳn tính cách.

Sau ba mươi năm dài, trải bao trận phiêu du ngoài đời, cũng như lưu ly trong thi ca tư tưởng, ngày nay cầm lại cuốn Thơ Thơ, tại hạ cảm thấy một cái gì không thể tả. Đọc lại thơ Nguyễn Bính, thơ Lưu Trọng Lư, có thể không bồi hồi chi mấy. Nhưng đọc Thơ Thơ, lại khác hẳn. Dường như toàn thể tuổi xuân bỗng sống dậy kêu gào.

Xóa đi những lời lếu láo lải nhải, còn lại những lời chân thật riêng biệt chân thành của tuổi trẻ:

Không có cánh nhưng vẫn thèm bay bổng

Đi sâu trong sân mà nhớ chuyện trên trời

Trút thời gian tong một phút chơi vơi

Ngắm phong cảnh giữa hai bề lá cỏ

Thơ hồn nhiên rộng rãi như thế đúng là thơ của thiên tài tuổi trẻ.

Đi trong sân mà nhớ chuyện trên trời

Ngắm phong cảnh giữa hai bề lá cỏ

Chúng ta đã ngột ngạt vì thơ đoạn trường của Nguyễn Du, thơ đìu hiu của bà huyện Thanh Quan, thơ ồ ạt lếu láo của Nguyễn Công Trứ, thơ trắng trợn của Trần Tế Xương… thơ già trước tuổi của những thi tài nảy ra trong vòng mười năm nay…

Thì bây giờ cũng đã tới lúc xua ùa đi hết mọi thứ thơ não nùng kia, và đọc lại Xuân Diệu:

Vì sao giáp mặt buổi đầu tiên

Tôi đã đày thân giữa xứ phiền

Không thể vô tình qua trước cửa

Biết rằng gặp gỡ đã vô duyên

Kể từ sau 1945, các loại thơ này vốn không mảy may rung động chúng ta được nữa. Chúng ta đứng trước những phong ba, linh hồn chúng ta mang những ưu tư khắc khoải khác. Thơ trữ tình, thơ yêu đương vớ vẩn nhớ nhung kia, chúng ta bỏ trôi mất hút, không một chút bận tâm.

Nhưng rồi phong ba cứ dồn dập, càng ngày càng mang tính cách nhố nhế thêm ra, tủn mủn đầu độc thêm ra, thì ưu tư khắc khoải trở thành chuyện tầm phào, siêu thi, siêu tưởng, siêu triết… trở thành chuyện đĩ điếm. Văn chương văn nghệ trở thành chuyện bán cá ngoài trợ. Nợ tang bồng vay trả trả vay, trở thành chuyện phỉnh phờ con nít. Lưu thủ đan tâm, trở thành chuyện tán gái đâm toang. Chiếu hãn thanh, trở thành chiếu chăn mài cọ lầu xanh meo mốc.

Ngót hai mươi năm rồi, ngụp trong đó, chúng ta lừa lọc nhau và tự lừa dối mình. Bây giờ đã thấm mệt với cái trò nhảy nhót nhấp nháy kia. Thôi xin từ giã mọi thứ đó. Xin chạy theo sau thằng thanh niên ngây ngô ngày trước chơi một trận.

*

Hồ Dzếnh

Bài “Rằm Tháng Giêng” của Hồ Dzếnh quả thật là một bài thơ hay:

Chị tôi vào lễ trong chùa

Hai chàng trai trẻ khấn đùa hai bên

Lòng thành lễ vật dâng lên

Cầu cho tiểu được ngoài giêng đắt chồng

Chị tôi phụng phịu má hồng

Vùng vằng suýt nữa quên bồng cả tôi

Tam quang ngoài mát chị ngồi

Chị nghe đoán quẻ chị cười luôn luôn

Quỉ thần thóc mách mà khôn

Số này chồng đắt đẻ con cũng nhiều

(“Rằm tháng Giêng”)

Người Việt Nam có thể không đọc Nguyễn Du, nhưng không thể nào không đọc bài thơ kia của Hồ Dzếnh.

Bài “Lời Về” của ông riêng bốn câu cuối cũng đủ là một tuyệt tác cổ kim:

Vó ngựa từ ngày vỗ xuống Nam

Truông mòn đưa lối Hải Vân San

Áo nâu phai nhạt màu cây cỏ

Lá rụng hoa rơi đất nước Chàm

Một bài tứ tuyệt như thế đúng là một tặng vật của Đường Thi. Nhưng Đường Thi ghé xuống Việt Nam, Đường Thi đã nhảy một bước vô biên. Không còn Lý Bạch, Thôi Hiệu, Tô Đông Pha nào chạy kịp được nữa.

Vì trong đó có ba sử lịch đang gùn ghè nhau. Sử lịch Trung Hoa, sử lịch Việt Nam, sử lịch Chiêm Thành:

Lá rụng hoa rơi đất nước Chàm

Một câu thơ đơn giản như thế mang toàn khối Như Lai trong mấy trăm bộ kinh Phật. Và thừa dư công lực hư vô để thiết lập căn cơ cho Siêu Hình Học Tây Phương. Ông Heidegger khỏi phải bận tâm hỳ hục lôi cả Hoelderlin, Sophocle, Parménide, vào trong cuộc thiết lập cơ sở mới làm gì.

Cái cuộc Lữ dị thường của Khổng Tử bỗng nhiên tiếp giáp với Thái Hư Tịch Mịch trong bốn câu thơ kia của Hồ Dzếnh. Đó là điều mà trong tập Điêu Tàn của Chế Lan Viên, ta mỏi mắt tìm không thấy.

*

Đinh Hùng

Nguồn thơ của Đinh Hùng trong Mê Hồn Ca là nguồn thơ lạ nhất trong thi ca Việt Nam.

Tới Đường Vào Tình Sử, thì nguồn thơ kia bỗng như tắt ngấm. Đinh Hùng trở thành kẻ rờ rờ rẫm rẫm. Tuy nhiên, trong Đường Vào Tình Sử cũng còn mấy bài bát ngát ở lại buồn bã vô song.

*

Trần Thy Nhã Ca

Chợt tiếng buồn xưa động bóng cây

Người đi chưa lại dấu chân này

Bàn tay nằm đó không ngày tháng

Tình ái xin về với cỏ may

Rồi lá mùa xanh cũng đỏ dần

Còn đây niềm hối tiếc thanh xuân

Giấc mơ choàng dậy tan hình bóng

Và nỗi tàn phai gõ một lần

Kỷ niệm sầu như tiếng thở dài

Khuya chìm trong tiếng khóc tương lai

Tầm xa hạnh phúc bằng đêm tối

Tôi mất thời gian lỡ nụ cười

Đời sống ôi buồn như cỏ khô

Này anh em cũng tựa sương mù

Khi về tay nhỏ che trời rét

Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ

Bài “Thanh Xuân” của Trần Thy Nhã Ca nghe như lời chiếu cố của một vị Quan Âm Bồ Tát.

Tưởng chừng như nếu các vị Tổng Thống phu nhân ở thế giới tình cờ đọc được, ắt các phu nhân vui lòng cạo đầu sạch sẽ để đi tu.

Tôi tiếc mình không có tài bàn giải như Kim Thánh Thán Mái Tây, nên tìm không đủ lời tuyệt đối viết ra. Ngày mai ắt tôi sẽ chết không nhắm mắt được.

Thử nêu câu hỏi: Nếu như những ông Khổng Tử đọc bài thơ đó, ắt sẽ gây ra sự gì? Tất nhiên là các ông sẽ chẳng bận tâm hỳ hục soạn Kinh Thi, Kinh Dịch làm gì nữa.

*

Martin Heidegger

Ông ở lại trên mảnh đất đai Siêu Hình Học Âu Châu, ông cày bừa trên mảnh đất ấy. Suốt hơn một phần ba thế kỷ, ông cặm cụi vạch gai góc và gieo vài hạt giống trên mảnh đất ngổn ngang.

Những hạt giống đầu tiên gieo vào mảnh đất đầy chướng ngại, phải là những hạt giống thích hợp.

Thích hợp với cái gì? Với mảnh đất đai kia với những hàng rào vây bọc mảnh đất đai kia, với bầu khí hậu phong tỏa mảnh đất đai kia. Những gai góc đủ loại đã mọc đầy, bầu khí hậu bị vẩn đục, con người Siêu Hình Học Âu Châu không còn có thể nhìn ra tinh thể những “hàng cây sơ thủy” vốn đã mọc trên đó. (Trong tập thơ Lá Hoa Cồn ngày trước, tôi có ý muốn nói tới sự tình đó, trong những bài “Hàng Cây Sơ Thủy”, “Vào Nguyên Thủy Giục”, “Logos”, vân vân).

Những “hàng cây” nọ cần phải được nhìn ngó trở lại, muốn nhìn ngó trở lại, trước tiên phải tẩy gột những gì làm vướng nhãn quan.

Nhìn ngó trở lại để làm gì? Để đừng sa vào tình trạng vong bản. Quên mất cội nguồn bát ngát ban sơ, đó là lý do đã khiến những triết gia cận đại Âu Châu không cách gì mở đối thoại với Đông Phương.

Heidegger luôn luôn bảo rằng ông chẳng có ý dựng triết thuyết gì cả. Tư tưởng của ông chỉ là một tư tưởng chuẩn bị - nhứt điều chuẩn bị đích tư tưởng. (Xem Sương Bình Nguyên và Trăng Châu Thổ).

Chuẩn bị cho cái gì? Đáp: cho một trận đối thoại về sau giữa Tây Phương và Đông Phương.

Do đó Heidegger lập ngôn trong một Nếp Gấp Nhị Bội, mà các triết gia Âu Châu ít chịu lưu ý tới. Cái điều đối với Heidegger chỉ là điều tạm thời, tạm bợ, người ta cho đó là điều cốt yếu. Cái điều cốt yếu thì Heidegger lại nói thoảng qua trong những mệnh đề phụ - là những hạt giống lơ thơ gieo ra trong một vùng sương bóng vô tức vô thanh tiếp giáp với lục bát thi ca Việt Nam bất tuyệt.

Waehlens theo dõi tư tưởng Heidegger nhiều ngày, vẫn không nhận ra điều cốt yếu nọ. Mọi triết gia bàn tới Heidegger đều bàn lui bàn tới những thứ ở ngoài mép rìa. Nghĩa là: đăng đường thì có, mà nhập thất thì không.

Chung quy có lẽ chỉ vì họ mãi mãi ở trong cái tình trạng: thấy sự vụ đương nhiên là thế, mà không rõ đâu là nguyên do sử lịch đã quyết định sự vụ là thế.

Hoặc nói theo ngôn ngữ người Trung Hoa:

“Tha môn hiển nhiên thị chỉ tri kỳ đương nhiên, nhi bất tri kỳ sở dĩ nhiên”.

Khổ thay. Nếy bây giờ chúng ta lò dò chạy hỏi ông Heidegger xem sự tình gay cấn đó có phải có nguyên nhân éo le như thế chăng, thì Heidegger ắt lửng lơ niêm hoa vi tiếu theo lối Khổng Tử ỡm ờ: - Tại hạ quả thật cũng chả rõ đâu vào đâu cho lắm… Kính thưa các hạ ạ! Kỳ trung nguyên nhân, lão hủ nhứt thời giả thuyết bất thanh sở. Phản chính cứ lão hủ sở kiến, tam thành tựu thị giá dạng đích lặc…”.

Đó là phong thái của những nhà đại tư tưởng cổ kim. Họ đáp theo lối lửng lơ. Trong khi học giả xô bồ, bao giờ cũng tấp nập nối đuôi nhau tấn công ông già kia một cách ráo riết.

Cái thái độ ráo riết kia đã bao phen khiến cho mọi cuộc đối thoại chân chính đành phải chịu phần chấm dứt ngay khi mới vừa khởi đầu.

Nếu bây giờ chúng ta thử bỏ ra khoảng chín mươi chín năm đọc lại Heidegger, ắt là chúng ta sẽ dần dà nhận thấy rằng: cái hạt giống mong manh mà Heidegger đã gieo vào mảnh đất Siêu Hình Học Âu Châu, cái hạt giống bé bỏng đó quả thật đã manh nha mọi thứ cây cối đồ sộ, mà về sau thiên hạ sẽ thi đua nhau về leo trèo hái ngắt mọi thứ hoa quả và có thể tưởng lầm rằng hoa quả ấy là của riêng mình trồng trọt ra, chứ chẳng phải của ông Heidegger hoặc Martin gì ráo!

Định mệnh của những tư tưởng hoằng viễn xưa nay, vẫn mãi mãi là như thế. Những kẻ gieo giống chả bao giờ thấy cây mọc, chẳng bao giờ thấy đâm hoa kết quả, chẳng bao giờ thu hoạch mùa màng. Họ chỉ phụng bồi cho cuộc gieo hạt, và hơn nữa, phụng bồi cho cuộc soạn sửa gieo hạt mà thôi.

Il ne servent qu’aux semailles, et même, plutôt à là préparation de celles-ci. Sie diene der Aussaat und eher noch der Vorbereitung dieser.

(Xem Trăng Châu Thổ, trg 467-468).

Heidegger là kẻ nhìn thấy rất rõ duyên do cuộc tẩu hỏa nhập ma của những Nietzsche, Hoelderlin, và - nhẹ hơn - của Rilke. Ông muốn tránh cho những nhà tư tưởng, những kẻ sáng tạo mai sau khỏi lâm vào tình trạnh tẩu hỏa nhập ma - đó cũng là một trong những duyên do dã khiến ông lập ngôn một cách dị thường ẩn mật.

Nếu bây giờ chúng ta suy gẫm về Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, nếu ta nghĩ rằng viết Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du tuyệt nhiên chẳng có ý ký thác tâm sự riêng tây của “di thần triều Lê” gì gì cả, thì sự vụ ắt còn rọi vài tia sáng vào cuộc lập ngôn của Heidegger. Nếu như Nguyễn Du viết Truyện Kiều với cứu cánh trực tiếp mở đối thoại với Gia Long? Gián tiếp mở đối thoại với Trung Hoa? Và rộng rãi hơn: mở đối thoại với sử lịch Đông Phương? Hoặc: mở đối thoại với tứ hải? - Thì từ đó, những nếp gấp khôn hàn nào trong Truyện Kiều sẽ chậm rãi mở ra? Và từ đó chúng ta sẽ “làm thơ” theo thể thái nào để đáp ứng?

Bây giờ để thử tránh lỗi tư tưởng một chiều. Chúng ta hãy nêu vài câu hỏi liên can tới tới Nietzsche.

Sự tình “đương nhiên” là Nietzsche có xô bồ công kích Jésus Christ. Nhưng đâu là cái lẽ “sở dĩ nhiên” của cuộc đó? Sau cuộc đó, Nietzsche bị tẩu hỏa nhập ma. Ông thật “bị” tẩu hỏa nhập ma, hay là ông cố tình lao đầu vào chịu trận tẩu hỏa nhập ma? Nếu ông có cố ý, thì đâu là duyên do sự cố ý ấy? Nếu đem sự tình kia ra hỏi Nguyễn Du, thì Nguyễn Du sẽ đáp bằng câu thơ nào trong Truyện Kiều? Khổng Tử sẽ phụ họa vào câu thơ đó bằng cái lời nào của Ngài? Thằng thi sỹ Việt Nam ngày nay có nên nêu mọi sự đó ra bàn luận trực tiếp? Nietzsche có bằng lòng thuận để cho nó nêu ra hay là Nietzsche sẽ bảo rằng: “vấn đề đối với các hạ bây gờ là nên sớm đánh mất tại hạ đi!” Đánh mất bằng cách nào? Sao gọi là đánh mất? Lặng lẽ giũ áo ra đi, hay là lao mình tới công kích? Hay là vừa công kích, vừa bỏ đi, vừa thân tặng ông vài vần thơ lây lất? Hay là chịu chơi gay cấn bảo rằng: - Nhân danh là thi sỹ Việt Nam, tôi xin nguyện làm nô lệ ông suốt đời?

*

Nguyễn Du

Từ rằng: ân oán hai bên

Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh

Nàng rằng: nhờ cậy uy linh

Hãy xin báo đáp ân tình cho phu

Báo ân rồi sẽ trả thù

Từ rằng: việc ấy để cho mặc nàng

Hai lần Từ Hải dùng tiếng “mặc nàng”. Để cho mặc nàng. Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh.

Rồi Từ Hải im lặng suốt buổi. Trong cơn im lặng, Từ Hải đã nhìn thấy Kiều chẳng minh mẫn gì hết. Nhưng không hề gì. Điều trầm trọng là cái tiếng “mặc nàng” Nguyễn Du đã để cho Từ Hải thốt lúc bấy giờ.

Hai tiếng “mặc nàng” đó ngày sau sẽ quyết định cuộc đầu hàng của Từ Hải. Việc bây giờ để cho mặc nàng, thì mọi việc về sau cũng sẽ để cho mặc nàng quyết định.

Nghe lời nàng nói mặn mà

Thế công Từ mới đổi ra thế hàng

Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng

Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh

Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng. Nguyễn Du dùng tiếng “vội vàng” một cách thật kỳ bí. Càn khôn vũ trụ gì cùng theo nhau điên tam đảo tứ hết cả, trong hai tiếng vội vàng kia. Cái “triều đình riêng một góc trời” của Từ Hải đang lăn lóc quay lông lốc trong hai tiếng vội vàng.

Từ Hải “chịu chơi” đến cái mức bất khả tư nghị. Tuyệt đỉnh của thiên tài Từ Hải là ở chỗ đó. Trong một nháy, đem xô ùa hết cả cứu cánh đời mình để đáp lại những lời “nhạt như nước ốc” của Kiều. Nhạt như nước ốc, mà chàng thấy mặn mà khôn tả, ấy bởi vì cõi lòng của kẻ anh hùng vốn là: đã chịu chơi, thì bất kể lam hồng tạo bạch. Từ Hải và Tú Bà là hai thái cực. Nhưng đáo cùng, hai thái cực khác nhau ở hai điểm:

Chơi cho liễu chán hoa chê

Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời

Từ Hải đã vì Thúy Kiều mà nghênh ngang dựng một cõi biên thùy, theo chàng nói:

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng loa giậy đất uy linh rợp đường

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nường nghi gia

Nhưng bây giờ Kiều đã bảo “Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào” thì lập thời Từ Hải vội vàng xóa bỏ hết cái cuộc kia.

Tin lời thành hạ yêu minh

Cái niềm tin thật sự của chàng đã mất, thì bây giờ chàng trở thành đứa bé thơ ngây, tin mọi thứ tầm phào vậy.

Tin lời thanh hạ yêu minh

Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng…

Từ công hờ hẫng biết đâu

Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên

Những tiếng “hờ hẫng, trễ tràng, ngơ ngác”, Nguyễn Du dùng một cách não nuột quỷ khốc thần sầu.

Tôi viết vội vã. Tôi không có một ngàn năm ở trước mặt. Nhưng kẻ nào có được trước mặt một ngàn năm, thì hãy thư thả đọc lại Nguyễn Du và sẽ khám phá ra nhiều thứ thiên thu vạn đại khác.

Heidegger bảo rằng: “nhà tư tưởng càng hoằng viễn, thì phần vô ngôn trong sách họ càng khôn lường”. Lúc nói câu đó, Heidegger ắt là có nghĩ tới Nguyễn Du vậy.

Phần vô ngôn khôn lường? Khôn lường đối với mọi người và khôn lường tự mình đối với mình. Người tư tưởng (cũng như thi nhân) không bao giờ lường được hết tư tưởng mình. Đọc tư tưởng, đọc thi ca, từ đó chúng ta chỉ có thể nêu những câu hỏi đại khái kỳ dị như sau:

1. Vì sao con đường đi trong đó không bằng phẳng?

2. Đó có phải là một lối cưỡng bức không?

3. Nguyễn Du đã cưỡng bức đủ điều. Heidegger đi tới đâu cũng cưỡng bức tràn lan tới đó. Cưỡng bức Nietzsche, Rilke. Rồi quay lại tự mình cưỡng bức chính mình.

4. Cổ kim có nhà tư tưởng nào tự mình cưỡng bức mình nhiều như Nietzsche, như Heidegger, như Sade? Sự đó có liên can mật thiết gì tới Khổng Tử, Jésus Christ hay không?...

*

Hoài Khanh

Qua sông là một nhịp cầu

Qua tôi là một kiếp sầu vô chung

(“Tự Tình” - Dâng Rừng)

Thế ra tôi đứng ra để đón lấy kiếp sầu vô chung? Tôi là Tại Thể? Da-sein? Tôi đón lấy sầu kia và thể nghiệm mối tương quan giữa Dasein và Sein? Giữa Tại Thể và Tồn Thể?

Qua sông là…

Qua tôi là…

Thy sĩ hai lần dùng tiếng là. Hai lần dùng tiếng qua.

Nhịp cầu là cái gì qua sông. Sầu vô chung là cái gì qua tôi. Ông Hedeigger trong cuốn Siêu Hình Học Là Gì, đã từng đem cái sầu, khắc khoải, làm tinh thể của Dasein, trong mối sầu đã “nhảy vọt” một cái, băng qua mọi thể hiện của dung nhật thường lệ, và tiếp giáp với mạch tồn thể uyên nguyên.

(Đó cũng là mối sầu bàng bạc khắp Truyện Kiều)…

Nhịp cầu là cái gì giúp qua sông, thì sâu vô chung cũng là cái gì giúp đáo bỉ ngạn.

*

Dịch

Từ trong tinh thể của nó, dịch là tái tạo. Sự ấy dường như quá hiểu nhiên. Ông Nguyễn Du, ông Nguyễn Khắc Hiếu đều tái tạo triệt để trong các bản dịch chuyện Tàu của các ông.

Nhưng nói gì xa xôi. Thử nói gần gũi hơn. Nếu bây giờ ta đem Truyện Kiều dịch trở lại bằng văn xuôi Việt Ngữ, hoặc bằng thơ thất ngôn, ngũ ngôn, thì ấy cũng là tái tạo.

Một ca nhi đem một bài ca, ca lên, cũng là tái tạo bài ca.

Xét cho cùng, mọi hành động và vô vi, cũng là tái tạo. Tái tạo bằng hơi thở riêng biệt một lần.

Tôi có cảm tưởng rằng lúc thật sự “sáng tạo”, tôi lại cũng đang dịch. Tôi viết vần thơ “độc đáo” nào, cũng là đang dịch. Tôi dịch lại ông Nguyễn Du, ông Hồ Dzếnh. Cũng như ông Nguyễn Du ông Hồ Dzếnh đã từng dịch người trước, và người trước đã từng dịch người xưa, hoặc dịch một cái gì đó ở trong vạn vật đang muốn hiển hiện liên tồn trong âm thanh ngôn ngữ.

Và những người cho rằng kẻ dịch không có tinh thần sáng tạo, những người ấy cũng đang dịch.

Vậy bây giờ chúng ta hay thi đua nhau dịch, và thi đua nhau bỏ dở dang cuộc dịch, và đừng thi đua gì hết cả, để cho cuộc dịch tự nó thành tựu thể thân nó. - “Trời có nói gì đâu… bốn mùa vẫn chuyển nhịp tuần hoàn… Trời có nói gì đâu…” (Khổng Tử)

*

Kể từ Nguyễn Du và Shakespeare

Hai ông này giống nhau nhiều nhất ở điểm: nêu sự tình bi đát cùng độ, để thỉnh thoảng cho len lỏi vào những lời thơ phiêu bồng thơ ngây khôn tả. Nghĩa là nói cách khác: nêu ra sự chấn động của toàn khối hiện thể để khiến người ta khơi lại mạch nguồn tồn thể (Đó cũng là dụng ý của Nietzsche).

Ông Khổng Tử ngày xưa thì lại cố tình che dấu hết mọi cuộc chấn động hỗn độn. Chẳng phải là ông không biết. Ông biết cùng cực nhưng ông không nói - tri hiểu nhi bất ngôn chi.

Ông Camus Nietzsche cốt cách giống như Khổng Tử, muốn sống và lập ngôn như Khổng Tử, nhưng không thể nào được. Lịch sử đi tới một buổi hoàng hôn riêng biệt.

Trong nền thi ca Việt hiện đại, Nguyễn Thị Hoàng và Trần Thy Nhã Ca là hai hình ảnh biểu hiện nỗi thống khổ cùng cực của lịch sử nhân loại. Những Thánh Nữ Simone Weil không còn lối bước đành làm miếng mồi mềm mại cho những trận Tẩu Hỏa Nhập Ma. Hình như ngành Y Khoa hiện đại đủ sức trị liệu chứng bệnh đó.

*

Dịch

Từ trong tinh thể nó, Dịch là làm điều cưỡng bức. Dịch văn xuôi là điều cưỡng bức. Dịch thơ lại càng là cưỡng bức triệt để hơn nữa.

Đừng nói chi tới sự vụ dịch thơ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Chỉ thử hỏi: Có thể nào đem thơ Việt, dịch ra trở lại làm thơ Việt được không? Có thể nào đem thơ lục bát dịch ra làm thơ thất ngôn, hoặc ngũ ngôn, hoặc song thất lục bát, hay là thơ tám chữ?

Nói triệt để hơn nữa: Có thể nào đem thơ lục bát dịch trở lại làm thơ lục bát? Chính ông Nguyễn Du, ông có thể nào tự mình đem thơ lục bát của mình dịch trở lại làm thơ lục bát?

Không. Lời thơ kia chỉ hiện ra một lần trong phong thái riêng biệt của anh hoa phát tiết một lần. Buộc nó phải hiện ra trở lại trong phong thái khác, thì anh hoa tài tử có thể cho phát tiết một lần nữa, nhưng lần sau không còn là lần trước.

Màu xanh của biển chiều thu năm nay không phải màu xanh của biển chiều thu năm ngoái. Màu xanh biển phút trước, không phải màu xanh biển phút sau. Luôn luôn trong vạn vật cũng như trong sinh hoạt tâm linh, có một trận tái tạo không ngừng. Phải chấp nhận sự đó như là điều hiển nhiên, thì mọi cuộc dịch dy mới có thể còn chút gì chính đáng trong cơn liên tồn cưỡng bức.

Trái lại, nếu quan niệm hẹp hòi, nếu cho rằng dịch phải thật “sát”, không được cưỡng bức dịch dy, thì mặc nhiên người ta đã cưỡng bức một cách không chính đáng. Vì cuộc cưỡng bức nọ không đưa tới tái tạo tinh hoa, mà dẫn tới nô lệ ngục tù, nghĩa là sát phạt tinh hoa.

Thử đưa một thí dụ. Truyện Kiều mở ra với bốn câu:

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

Nếu người dịch là kẻ tài hoa, ắt nhận thấy rằng điều cốt thiết trong mấy câu thơ kia, chẳng phải là cái ý tưởng nó hàm ngụ - ý tưởng “tài mệnh tương xung”, “cõi người ta trăm năm ngắn ngủi”, “cuộc biển dâu thương hải tang điền”… là những ý tưởng sáo. Trái lại, cái chỗ bất tử, cái chỗ huyền diệu của câu thơ kia lại là ở những điệp thanh, điệp âm, đối ngữ…

Trăm năm - một cuộc - những điều…

Trong cõi - trải qua - trông thấy…

Chữ tài - chữ mệnh…

Khéo là ghét nhau - mà đau đớn lòng…

Một cuộc tương tranh, một cuộc xô xát, trong một cõi trăm năm, được âm ỷ nêu ra âm thầm triền miên trong những đối ngữ, điệp âm nọ. Đó là cái chỗ thần diệu phát tiết của thơ. Vậy lời dịch làm sao tái lập được cái chất linh diệu đó?

Ông René Crayssac, ông Trương Cam Vũ, vô tình hoặc hữu ý đã tái tạo được trong hai bản Pháp Ngữ và Hoa Ngữ cái chất thơ âm thầm triền miên trong cốt cách lục bát Việt Nam. Mỗi ông theo mỗi lối, thuận theo tinh hoa ngôn ngữ mình, đã thể hiện trở lại trong bản dịch được chín phần mười tinh hoa ngôn ngữ.

Hãy xét bốn câu của Trương Cam Vũ trước:

Nghịch lữ nhân sinh bách tuế trung

Mệnh tài lưỡng tự xảơ tương xung

Nhất kinh thương hải tang điền biến

Mục kích tâm thương kỷ vãng tung

Có thể nghĩ rằng đó là do ngẫu nhiên mà Việt Ngữ và Hoa Ngữ đã hôn phối chặt chẽ. Cũng có thể nghĩ rằng ấy là do cuộc tương giao hằng bao thế kỷ mà nảy ra kết quả đẹp đẽ kia. Dù sao thì dù, lời thơ dịch đã không bỏ lạc cái cốt yếu trong thơ Nguyễn Du. Xin ghi ra những ngôn ngữ gùn ghè tịch hạp:

Bách tuế - lưỡng tự - nhất kinh (trăm năm - hai chữ - một trải qua.)

Đó là những đối ngữ. Và đây là những điệp thanh:

Tuế - tài - tự - tương - tang - tâm - tung nhất kinh - mục kích - thương hải - tâm thương…

Bốn câu dịch bốn câu, Trương Cam Vũ có thể tái lập được chừng đó điểm đặc biệt, lại còn dịch được tiếng “khéo là ghét nhau” ra làm “xảo tương xung” - Thế là người dịch đã thể hội huy hoàng cứu cánh của công việc vậy. Ông vừa thong dong đi sát ý, lại còn thể hiện được viên mãn cái hồn thơ.

Bây giờ xét tới lời dịch của René Crayssac. Crayssac sử dụng Pháp ngữ, Crayssac không thừa thụ những thuận lợi như Trương Cam Vũ - những thuận lợi do những tương giao lâu ngày giữa Hoa Ngữ và Việt Ngữ đem lại - Crayssac đã phải cưỡng bức như thế nào, theo đường lối nào, trong lời dịch?

Những đối ngữ đi mật thiết sát gót nhau trong bốn câu nguyên tác, Crayssac không cách gì thể hiện lại được, thì ông thể hiện theo lối khác bằng cách dịch dôi ra và đưa vào những điệp thanh phong phú.

Bốn câu của Nguyễn Du, ông phải dịch ra làm mười hai câu cả thảy mới tạm gọi là lột được phần nào tinh hoa nguyên tác:

Cent ans - le maximum d’une humaine existence!

S’écoulent rarement sans qu’avect persistance

Et comme si le Sort jalousait leur bonheur,

Sur les gens de talent s’abatte le malheur

Subissant l’âpre loi de la métamorphose,

On voit naitre et mourir si vite tant de choses!

Bien peu de temps suffit pour que fatalement

Surviennent ici-bas d’étranges changements,

Pour que des vert muriers la mer prenne la place

Tandis que, devant eux, ailleurs, elle s’efface!

Or, dans un temps si court, ce que l’observateur

Peut bien voir ne saurait qu’endolorir son coeur.

Nhận định thấy gì?

Những tiếng “trăm năm, một cuộc, những điều” của Nguyễn Du không còn có thể đi sát nhau đẻ gùn ghè mật thiết, vì chúng bị loãng mất trong mười hai câu dài dậm duộc.

Nhưng Crayssac ngược lại đã biết tận dụng những điệp thanh lai láng để thể hiện chất thơ bàng bạc của Nguyễn Du. Xin chép ra đây những âm thanh âm vận láy đi láy lại:

Cent ans - s’écoulent - sans que - comme si - le sort - sur les - s’abatte - subissant si vite - suffit - surviennent - s’efface - si court - ne saurait - son coeur -

Ngoài ra, những đối ngữ thật sự của Nguyễn Du mà Crayssac không thật sự tái lập được, thì ông cũng đã tái lập đối ngữ theo cách khác:

Sans qu’avec - et comme si - Bonheur - malheur

Nâitre - mourir

Tant de choses - bien peu de temps

Prenne la place - elle s’efface

Trên đây chỉ là một trong muôn ngàn thí dụ khác có thể đưa ra khi bàn tới chuyện dịch. Dù sao, điều cốt yếu, chẳng phải là đạt hay không, có lẽ… Điều cốt yếu, là ý thức về cái chỗ gay cấn kia, lúc khởi sự đọc văn thơ. Thơ Nerval, thơ Apollinaire, Baudelaire, Whitman, Dickinson, Rilke, Nietzsche, Heidegger, vân vân, đã bao phen khiến người dịch đành phải bó tay, bó chân, xin nhảy lùi từng trận.

Vậy nên kẻ biết dịch là kẻ biết nhảy lùi. Vì dịch là tư tưởng một cách nghiêm mật. Kẻ tư tưởng thâm viễn bao giờ cũng nhảy lùi. Kẻ biết dịch tối cao, là kẻ không bao giờ chịu dịch. Trường hợp buộc phải dịch, thì đành cưỡng bức. Cưỡng bức để đưa tới đề huề. Trường hợp không thể đưa tới đề huề, thì đành tái điệp nhảy lùi, song trùng bỏ cuộc. Bỏ cuộc thì kể cũng đìu hiu. Bèn nhảy vô cuộc trở lại. Rốt cuộc? Rốt cuộc, con người tẩu hỏa nhập ma sa vào giữa một vòng lẩn quẩn kỳ quặc. Trong cái vòng lẩn quẩn kỳ quặc ấy, hốt nhiên lời thơ Nguyễn Du lại thị hiện một cách não nùng:

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

Thơ Nguyễn Du thị hiện một cách đoạn trường như thế, thì sự cố nào xảy ra cho thằng tài tử? Ấy là sự cố Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn… Mọi bài thơ tôi viết ra, đều là vịnh thơ Nguyễn Du tại chỗ gay cấn âm thầm nhất. Dịch thơ từ đó biến ra làm Vịnh Kiều, trong từng cơn cưỡng bức. Thơ Nguyễn Du cũng là tự mình cưỡng bức mình. Người ta công kích thơ tôi, chẳng qua chỉ vì người ta tưởng rằng tôi làm thơ đưa ra cái gì độc đáo lắm.

Lại có kẻ cho rằng thơ tôi làm u ẩn, súc tích, hơn thơ Nguyễn Du. Ấy chẳng qua là người ta không chịu đọc thơ Nguyễn Du trong nếp gấp của nguồn thơ ông đấy thôi.

*

Người Tàu dịch Tây

Có một số ngôn ngữ tôi dùng trong mấy cuốn sách dịch bị độc giả nhận lầm là ngôn ngữ lập dị. Chẳng hạn như: nhị bội, song trùng, tồn lưu, lưu tồn, khiêu dược, phản chạng, tẩu xuất lai, tòng đầu bột khởi, đột nham, sầm lãnh, kiền tình, kiệt tận miên bạc, phục quy, đàn hồi, vô sở thố trí v.v…

Đọc giả tìm trong Tự Điển Hán Việt Đào Duy Anh, có lẽ tìm không thấy. Nhưng trong các Từ Điển Anh Hoa hoặc Đức Hoa lại có đầy đủ.

Tiện đây xin trích dẫn vài thí dụ rút từ cuốn Deutsches Chinesisches Standard-Handwörterbuch.

Zweimal: nhị bội, nhị thứ

Zweifach: nhị bội đích, song trùng đích.

Zweiachsig: song trục đích, lưỡng trục đích

Zweiblumig, Zweiblütig: song hoa đích

Zweideutig: mô lăng lưỡng khả đích

Zweidoppelt: trùng phục đích; song sinh đích

Zweieckig: song giác đích

Zweifächerig: song tế bào đích

Zweiflüglig: song xí đích; hữu song xí hình đích.

Zweifrüchtig: song quả đích

Zweigesang: nhị bội hợp xướng (hoặc hợp tấu) chi ca khúc

Zweigestaltig: (đồng chất) nhị hình đích

Zweihenkelig: song bỉnh đích

Zweihöckerig: song phong đích

Zweiseitig: lưỡng diện đích, tương hỗ đích

Zweisilbig: song âm tiết đích

Zweistimmig: song âm đích

Wieder: tái, phục, trùng tân

Wiederanfang: tái hành khai thỉ (thủy), canh thủy, canh tân

Wiederholung: thu hồi, thu hoàn, trùng phúc, phục tập

Wiederanknüpfen: trùng hành kết hợp, trùng hành liên lạc

Wiederanmachen: tái hành hệ phược

Wiederanregen: tái hành kích thích, trùng đề

Wiederanschaffen: trùng hành trù biện

Wiederauffinden: trùng hoạch, thất nhi phục đắc

Wiederaufforsten: trùng thực sâm lâm

Wiederaufgehen: tái khai, trùng khải

Wiederaufnehmen: tái hành thụ lý, tái hành biện lý

widerbekehren: tái hành chuyển hoán, trùng hành cải tông

wiederberufen: trùng hành chiêu tập

Wiederbesinnen: tái phản tỉnh, tái hồi tưởng, tái khảo lự

Wiederbringen: quy hoàn, đái hoàn, huề hoàn

Wiedereinbringen: trùng hành bổ nhập

Wiedererinnern: trùng ức, hồi ức, truy tưởng

Wiedererzählen: trùng thuật, phục thuật, chuyển thuật

Wiedereröffnen: tái khai, trùng khai hành mạc

Wiedererreichen: tái hành để đạt, tái cập đáo

Wiedererscheinen: trùng kiến, tái xuất hiện

Wiedererzeugen: trùng tân sinh sản, tái tạo

Wiedergewinnen: trùng đắc, trùng hoặch, hoàn nguyên, hồi phục

Wiederhervorbringen: sử tái sinh sản, sử tái xuất hiện

Wiederhinaufsteigen: trùng hành thượng thăng, tái đăng

Wiederhinengehen: trùng hành nhập nội

Wiederkommen: quy lai, tái lai

Wiedersagen: trùng thuyết, trùng thuật

Wiedersammeln: tái tập họp

Wiederrsuchen: tái tầm mịch

Wiedervereinigen: tái liên họp, tái đoàn kết, tái hòa hảo

Wiederwählen: tái chuyển

Wiederzulassen: trùng hứa gia nhập, tái hứa nhập nội

Heraus: hướng ngoại lai, xuất lai

Herausarbeiten: chế tạo xuất lai

Herausbekommen: miễn lực thủ xuất lai

Herausbringen: huề đái xuất lai

Herausfinden: tầm xuất lai, phát hiện xuất lai

Herausfühlen: cảm giác xuất lai

Herausgreifen: bạt xuất lai

Herausgucken: hướng ngoại khuy vọng xuất lai

Heraushängen: huyền xuất lai, quải xuất lai

Herausheben: cử xuất lai, đề xuất lai

Herauslassen: dung hứa xuất lai, thích phóng xuất lai

Herauslegen: trí ư ngoại biên lai

Herauslocken: dẫn dụ xuất lai

Herausmüssen: tất tu xuất lai

Herausplatzen: bạo liệt xuất lai

Herauspoltern: hoang trương nhi xuất lai Heraussagen: thân thuyết xuất lai, minh ngôn

Heraussollen: lý ưng xuất lai

Herausstürzen: phao trịch xuất lai

Heraustreiben: khu trục xuất lai

Herauswollen: nguyện ý xuất lai

*

Hoài Thanh

Ngôn ngữ thơ Việt Nam thành tựu bởi Nguyễn Du. Văn xuôi Việt Nam đạt tới cõi thâm viễn với Hoài Thanh. Hoài Thanh bình Kiều, Hoài Thanh viết Thi Nhân Việt Nam, có những lời bất hủ. Thiên tài Hoài Thanh đủ tư cách dựng sừng sững những thiên tài đứng lên chót vót. Và ông mở ra không biết bao nhiêu con đường cho những thi sỹ và phê bình gia đi sau. Dù thỉnh thoảng cũng phải bài bác ông trong phép “cưỡng bức chịu chơi”, nhưng phải nhìn nhận rằng nếu không có Hoài Thanh, thì có lẽ ngày này chúng ta chẳng có thể viết nên một cái gì ra cái gì gì cả?

Hoài Thanh, Đào Duy Anh, Trần Đình Đàn… là ba ông thầy cũ của tôi. Ba ông thuộc nòi giáo sư xuất chúng. Rủi thay ngày học với ba ông, tôi đã thuộc Huy Cận, Nguyễn Du, Nerval, nên bài vở nhà trường của các ông chẳng đem lại chút gì đáng kể cho tôi. Nhưng cái phong thái trang nhã thâm viễn của các ông, vô hình trung, lại giúp đỡ tôi rất nhiều. Và vì thế sách vở của các ông, về sau tôi chịu khó đọc chậm rãi.

Bây giờ các bạn thử tưởng tượng. Nếu không có sách Hoài Thanh, Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim… thì ngày này có quả rằng chúng ta giống như những con gà con mất mẹ.

Riêng nói về Hoài Thanh, cái tâm hồn thi nhạc nơi ông còn cao xa hơn hầu hết mọi thy sỹ tôi đã gặp.

Tiện đây tôi xin tặng ông Hoài Thanh một bài thơ.

Cỗi nguồn quá vắng lặng sao

Câu kinh trầm thống phương nào dậy tuôn

Mộng thừa nhị bội bắt buông

Lừng vang tử trúc điệu buồn như mai

*

Đào Duy Anh

Trong buổi học, Đào Duy Anh trầm giọng buồn buồn bảo học sinh:

“Các anh nên nhớ rằng dù tôi có gắng giảng giải cách gì đi nữa, vẫn không thể nào khiến các anh ngờ ra hết những gì huyền diệu trong tác phẩm Nguyễn Du. Ngày sau nếu các anh có thể đi quanh một vòng thi ca thế giới, các anh đón nhận tinh hoa những nguồn thơ lạ thế gian, rồi các anh quay về với Nguyễn Du lúc đầu đã bạc, ngày đó họa chăng các anh mới rõ thiên tài Nguyễn Du cao độ nào”.

Hỏi ông về cuốn sách của Nguyễn Bách Khoa (Nguyễn Du và Truyện Kiều) ông lơ lửng đáp:

“Nguyễn Bách Khoa có tài, nhưng anh ta mới bước chân vào một vài học thuyết Tây Phương, anh ta say mê quá, tưởng đó là cái gì tân kỳ lắm lắm. Tuổi trẻ có những cái lầm đồ sộ”.

Tiện đây tôi xin tặng Đào Duy Anh một bài thơ:

Tiều phu đắn gỗ khô trên núi

Em bán than gánh củi một vài

Sau lưng ngày tháng chạy dài

Trận nhìn tiền diện an bài nắm xương

Tung bốn vó dặm trường ngựa ruổi

Mừng sát na theo đuổi máu xuân

Xương thu tủy hạ luống từng

Phổi tim quỹ đạo quây quần sang đông

*

Khổng Tử

Chất thơ tiềm ẩn trong ngôn ngữ Đức Khổng quả thực phi phàm. Nhưng muốn nhận ra phải có đủ đầy trăm năm đạo hạnh. Tại hạ chỉ mới có một phần tư rưỡi tuế nguyệt thôi. Nên chẳng thể dám nhận ra.

Có lẽ một vị bồ tát, một vị linh mục ngày sau sẽ tìm ra cái mạch nguồn âm thầm giao tiếp Dịch Kinh và Evangile, Luận Ngữ và Evangile, Luận Ngữ và Kim Cương Kinh, Dịch Kinh và Holzwege vân vân.

*

Ông Lý Bạch

Nhứt chi nùng diễm lộ ngưng hương

Vân vũ vu sơn uổng đoạn trường

Riêng hai câu ấy thôi của ông cũng đủ khiến tại hạ đem Truyện Kiều đề tặng ông chơi một trận.

Người Trung Hoa đã điên rồ thêu dệt những giai thoại ngơ ngẩn tưởng làm vinh dự cho ông, nhưng thực ra đã bôi nhọ ông một cách cổ kim chưa từng có. Tại hạ đã nhiều phen muốn nêu sự vụ kia ra, những vừa nghĩ tới đã cảm thấy buôn nôn gớm guốc khôn tả.

Dưới chín suối, ông hãy yên lòng. Bọn thy sỹ ngàn năm sau mãi mãi tự nhiên biết rằng những sự tình kia không hề có thật. Không thể nào thy sỹ như ông lại bắt kẻ khác cởi giày giép cho mình. Còn bài “Phượng Hoàng Đài” ông làm ra không phải vì ganh tài Thôi Hiệu, mà vì tương ứng với Thôi Hiệu.

*

Rỡn

Khổng Tử rỡn dịu dàng bao dong, Shakespeare rỡn toe toét thiên hình vạn trạng, Homère rỡn bát ngát phiêu bồng. Kim Cương Kinh rỡn ôn tồn thân ái, Nguyễn Du rỡn ngậm ngùi, Camus rỡn thống thiết, Malraux rỡn ráo riết chịu chơi. Xuân Diệu rỡn tào lao, Nerval Huy Cận dường như không thể rỡn, Hồ Xuân Hương rỡm tùm lum, Bà Huyện Thanh Quan không biết rỡn, Nguyễn Thị Hoàng rỡn xót xa, Trang Tử rỡn độc đáo gay cấn, Trần Thy Nhã Ca rỡn như thiên nữ lưu đày, Saint-Exupéry có định rỡn chút ít, nhưng bỗng nhiên dừng lại tê buốt, Gide rỡn ỡm ờ cò ke tỷ mỷ, Sade rỡn điên cuồng. Nietzsche rỡn chết gục, Nguyễn Thị Hoàng rỡn tan hoang, Hồ Xuân Hương rỡn đo rồi đếm, đếm lại đeo, đeo xong thì đắp xéo, Như Lai rỡn từ bi, Jésus Christ rỡn bác ái, Sophocle rỡn trang nhã thâm trầm kỳ tuyệt, Euripide rỡn ẩn ẩn hiện hiện, Ngoạ Long Sinh rỡn u nùng, Kim Dung rỡn bất tuyệt, Hồ Dzếnh rỡn nên thơ chân thiết, Tú Mỡ rỡn như đười ươi, Shakespeare rỡn như phượng hoàng, Nietzsche rỡn tan hoang xương máu, Gide rỡn lúc giật lúc buông lúc chùng lúc thẳng, Tô Man Thu rỡn não nùng, đốt cháy máu tim. Whitman rỡn như thánh hiền thi đua lội bơi với con nít, Apollinaire rỡn như thiên thần yêu dấu gái trần gian, Emily Dickinson rỡn kín đáo thơm tho, Faulkner rỡn cho vừa lòng ma quỷ, Goethe rỡn trung hòa đôn hậu, Heidegger rỡn với phong thái thần thánh đóng vai trịnh trọng giáo sư, Whitman rỡn cho thánh hiền chịu thua con trẻ, Gide rỡn cà gật uyên bác chịu chơi, Apollinare rỡn như dòng suối xuân ghẹo khe mùa thu sầu mộng, Tản Đà rỡn trong từng trận tẩu hỏa nhập ma, Mỹ Nga rỡn thi đua lên thăm chị Nguyệt, Việt Nam ngày xưa biết rỡn, ngày nay hết cơ hội để cùng tứ hải rỡn rồi rồi, Trung Hoa rỡn bất khả tư nghị, ông Kút Xếp rỡn chỉ được một thời gian ngắn, cô Phùng Khánh không thích thiên hạ đùa dai. Vì sao như thế? Vì đùa dai thì cái rỡn ắt biến thành cái rỡmmm…

*

Hồ Dzếnh

Giếng vàng ánh ngọc nghìn xưa

Giở trang sách cũ hương thừa còn bay

Mà sao người đó ta đây

Tình duyên phảng phất như ngày đã xa

Người về ta mới nhớ ra

Yêu là thế đấy, mơ là thế thôi

(“Phong Châu” - Quê Ngoại)

Lửa thơ bừng cháy giữa đời

Tình thơ thắm thiết cho người bán mua

Ý thiêng người thiếu ta thừa

Nghìn kho ân lộc trăm mùa mạnh Xuân

Khinh nẻo hẹp, ghét nơi gần

Mắt xa thẳm hỏi muôn lần dặm băng

Dẫu tàn trên đỉnh kiêu căng

Còn hơn muôn thuở cao bằng ngọn cây

Thơ về nắng sáng lừng lay

Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra

Cõi trần vẳng tiếng thiên nga

Thơ không tuổi ý không già muôn năm

Gối lên bắc đẩu ta nằm

Nghe rung chân lạ thơ thần mười phương

Non cao nên dáng non buồn

Tuyết sương thắm mãi linh hồn quạnh hiu

Non tuy run rét bao chiều

Vẫn đem cao cả tiêu điều gửi mây

(Hoa Xuân Đất Việt)

*

Phạm Thị Lan

Phạm Thị Lan là em ruột Phạm Quang Bình. Mười lăm tuổi. Làm thơ tuy không vững bằng Phạm Quang Bình, nhưng quả thật cùng nòi thiên tài nhỏ tuổi. Xin chép ra đây hai bài tiêu biểu.

Chị Hai

Chị hai xuống chợ tồi tàn

Ướt hai tấm áo một hàng nước mưa

Buổi đi sớm, buổi về trưa

Ướt một tấm áo còn chưa vừa lòng

Ở trên tôi tạm nói là “không vững bằng”. Thật ra sao gọi là vững? Sao gọi là không? Chất thơ thiên tài tuổi nhỏ phải là như thế mới được.

Cô Bạn

Cô bạn học không thuộc bài

Nghe mưa nghe nắng thở dài ngoài kia

Đầu hôm cho đến giữa khuya

Học bài không thuộc vở bìa giấy khô

Sợ thầy hay là sợ cô

Sáng nay không dám bước vô nhà trường

Đáng lẽ ra, đối với một học sinh còn nhỏ, ta chẳng nên nói với nó rằng nó là thiên tài. Nhưng trường hợp Phạm Thị Lan, thì lại khác. Bảo nó là thiên tài thì nó cười rộ đáp: “Thiên tài hay không, không cần thiết. Cháu chỉ xin bác mua cho cháu một quyển văn phạm thế là đủ”.

*

Albert Camus

Ông nêu vấn đề “cõi phi lý” cốt để nói cái gì khác? Nghĩa là nếu bây giờ ta thật sự muốn mở cuộc đối thoại chân chính với tư tưởng Camus, thì điều trước tiên là phải khai triển phần vô ngôn trong tư tưởng của ông. (Xem mấy quyển Tư Tưởng Hiện Đại).

“Thoại trung hữu thoại”, lời nói đơn giản đó của người Tàu xưa, dường như tới ngày này vẫn chẳng học giả nào lưu tâm tới.

Với Camus, với Heidegger vân vân, suốt mấy mươi năm, nói quanh quẩn vẫn không rồi. Heidegger nêu vấn đề Être và étant, vấn đề pensée méditante và pensée calculante, vân vân, ấy là ông muốn nhân đó mà đặt ra vấn đề khác. Nếu chỉ phải phân biệt đơn giản có thế thôi, thì hà tất phải lắm lời - cái “huyền ngoại chi âm” - thì dù tẩu hỏa nhập ma có tự nhận mình rõ biết cái điều Heidegger nói, ta vẫn ù lì nằm vĩnh viễn trong cõi pensée calculante.

Cái pensée calculante đó đã khiến người ta cứ tiếp tục ngộ giải Camus, Gide, là những nhà tư tưởng tương đối không có quá u uẩn trong phép lập ngôn. Và cho dẫu người ta không ngộ giải một cách quá hồ đồ, dẫu cho người ta thể hội được cái điều Camus Gide muốn nói, người ta cũng chỉ mới thấy cái “đương nhiên” mà chưa nhận ra cái “sở dĩ nhiên” - chỉ tri kỳ đương nhiên, nhi bất tri kỳ sở dĩ nhiên.

Chung quy vẫn cái pensée calculente cứ ám mãi, ngay trong lúc người ta tuyên bố chống lại nó.

Bấy giờ nếu chúng ta chịu sực bàng hoàn, chợt hồi tỉnh một chút, thì câu hỏi lù lù hiện ra trong đầu óc máu me, ấy là: - Sao gọi là mệnh đề phụ?

(Trong mấy tập một vài nhận xét về Truyện Kiều, một vài nhận xét về Lục Vân Tiên - Tân Việt xuất bản 1957 - có vài mệnh đề phụ đồ sộ, mà cho tới ngày nay vẫn chẳng có một ai lưu ý tới).

Bây giờ nếu thử một phen triệt để dứt khoát với mọi thứ luận lý chi ly của triết học Âu Châu, (chúng cứ ám lấy chúng ta tại chỗ vô hình trung, ngay khi ta nguyền rủa chúng), thật sự thử đọc Camus và những thi sỹ thiên tài Tây Phương hiện đại với những con mắt của những nhà tư tưởng và thi nhân Đông Phương (trong đó có Nguyễn Du), thì mọi nhận định của ta sẽ đổi khác từ ngọn ngành tới cội rễ. Và chúng ta sẽ càng hiểu được nguyên do cuộc lập ngôn tam bành của những ông Nietzsche, và trận cưỡng bức nghiêm mật của những ông Heidegger.

Người ta không bao giờ thật sự chiêm niệm, nên những điều đơn giản hiển nhiên, đối với người ta cứ như trở thành hồ đồ, không chính xác. Người ta thường chỉ trích tôi tư tưởng võ đoán, không mạch lạc, hoặc sai lệch điểm này, khuyết điểm nhầm lẫn chỗ kia. Không bao giờ người ta giật mình sực tỉnh trong thâm để linh hồn, để thể hội rằng: lúc bo bo công kích theo lối “đam đam khuy tứ” đó, thì chính người ta đã đang chịu làm miếng mồi mềm mại cho cái tinh thần máy móc hỗn độn của chính cái tinh thần duy lý thô thiển mà người ta đang công kích. Cái tư tưởng “calculante” nó luôn luôn còn cò kè xúi giục tủy não người tẩu hỏa nhập ma, bằng một đường lối luẩn quất kỳ dị. Nó cũng có cái tính chất “nhị bội” riêng biệt của nó

Hầu hết những điều Heidegger, Nietzsche, Gide, Camus… đã nói, là nói với Âu Châu Triết học, nơi giữa mảnh đất đai Siêu Hình Học. Thì dù nói cao, dù nói thấp, là chỉ cao thấp đối với Siêu Hình Học Âu Châu, vạch một đường cày trong mảnh đất Âu Châu. Không thể đem ra công kích hoặc tán dương theo lối tư tưởng một chiều, bỏ lạc cái lẽ “sở dĩ nhiên” trong phép lập ngôn của họ. Càng không thể đem ra ca ngợi nhằm chủ đích gián tiếp tàn phá ngôn ngữ bọn tài tử Đông phương.

Cho đến ngày nay người ta vẫn bảo rằng Nguyễn Du ký thác tâm sự “di thần triều Lê” trong tác phẩm của ông - thì như thế tư tưởng còn bước đi bước đứng như thế nào? Rồi những điều Nguyễn Du nói với ma, thì quỷ lại tưởng là nói với quỷ, lại tưởng là nói với thánh thần. Những ngộ giải chạy tràn lan. Quỷ không hài lòng về Nguyễn Du, thần thánh bực bội vì Nguyễn Du, thánh thần lại hoan hỷ vì Nguyễn Du!!! Thật không còn biết làm sao dò cho ra manh mối. Minotaure tha hồ chạy đú đỡn trong mê cung “hỗn thủy” đó để triệt để “mô ngư, tróc giãi”, từ trong Khung Cửa Hẹp tới mọi lối quanh quẩn của l’Étranger. Trong khi đó, Rilke bó tay, cặm cụi dịch thơ Valéry, dịch văn Gide. Chỉ một mình Rilke biết Gide muốn nói gì trong Khung Cửa Hẹp. Thì Minotaure lại vồ lấy Rilke để nuốt chửng La Porte Étroite.

Thế thì sao gọi là L’Immoraliste? Gide viết tiếp La Symphonie Pastorale. Camus viết tiếp La Peste.

Chạy đuổi theo Gide, Camus, Minotaure quay về o bế Walt Whitman. Lợi dụng Lá Cỏ để tàn phá Lá Cồn. Học đòi vài thể điệu Mưa Nguồn để xua đuổi Ngàn Thu Rớt Hột.

Vậy xin viết vài câu thơ lai rai.

Hoàng Hậu luống muộn màng Công Chúa

Nảy hoa xuân cành múa lộn vòng

Ba thu càng lắc càng đong

Càn đầy tâm sự cõi lòng càng vơi

*

Đỗ Long Vân

Cuốn sách của ông bàn về Kim Dung nằm trong vùng tư tưởng thâm viễn như cuốn Nho Giáo của Trần Trọng Kim. Chẳng những giúp người Việt Nam hiểu tư tưởng lớn của thiên tài Trung Hoa, mà còn khiến người Trung Hoa, người Đông Phương, Tây Phương nói chung ngày sau sực tỉnh. Tầm quan trọng của cuốn sách kia quả thật rộng rãi không cùng.

Tôi có thể đưa ra vài nhận định khác của ông ở đôi chi tiết. Nhưng không cần. Điều cốt yếu, ông đã nói xong, và những dư vang vô số sẽ tỏa khắp mọi chốn. Và sẽ còn khiến người ta thể hội cái mạch thẳm trong những tác phẩm của những thiên tài xưa nay, bất luận là Đông Phương hay Tây Phương.

Sách tôi bị cháy hết, nhưng tôi sẽ tìm riêng cuốn Trương Vô Kỵ Giữa Chúng Ta để đọc lại nhiều lần. Tiện đây tôi xin tặng ông một bài thơ lếu láo:

Chân hai gót bước đi sè sẹ

Bác tiều phu có lẽ nào quên

Lá rừng rậm rạp xuôi nên

Cây rừng cũng rậm ở trên rú rừng

Làm học giả nửa chừng biếng nhác

Vẳng đâu đây câu hát ngày xưa

Một hai ba bốn khôn người

Chép lời lá cỏ gọi bừa lá cây.

*

Lê Đình Thám

Ngày xưa ở Huế làm học sinh, tôi có tới chùa Từ Đàm nhìn và nghe ông Lê Đình Thám.

Về sau lại tình cờ nhìn thấy ông ngồi trên ghe ở một mặt hồ nước vùng núi Vĩnh Trinh. Ông tản cư qua làng tôi một độ. Trông ông như một đạo sỹ ngồi trên ghe tĩnh mịch như Nam Hải Điếu Đồ.

Tiện đây xin tặng ông một bài thơ:

Chân người ta gót người ta

Ma men sờ soạng cá hòa chan chim

Giây leo giậu đổ bìm bìm

Chim đêm gọi cá về tìm mưa sa

Giật mình đếm một hai ba

Trời xanh Thượng Đế Christ là Jésus

*

Trí Hải Ni Cô

Ngày ông Lê Đình Thám ở chùa Từ Đàm Thừa Thiên, chắc là Trí Hải Ni Cô chưa bao nhiêu tuổi.

Ngày nay trông ni cô còn đẹp hơn cả mấy người con gái của Ông Lê Đình Thám. Vậy tôi xin tặng ni cô một bài thơ:

Bạc mệnh diên trường dư nhất nhật

Tam sinh quyên đảo thất điên tam

Tiền đường hô hấp hội đàm

Trùng sinh tâm tự từ đàm tiểu lâm

Chân bước một tử phần riêng rẽ

Cánh tung đôi cô lẻ nhạn trời

Giỏ hoa người hốt nhiên rơi

Giậy lừng cung bậc ra đời điệu xoang

*

Ông Whitman ôi

Tại hạ làm thở nửa phần giống thơ ông, nửa phần giống thơ ông Dylan Thomas. Nhưng giống theo thể thái bê bối đười ươi chứ không có được cái phong độ thiên tiên cốt cách. Vậy bây giờ tôi cố gắng làm một bài thơ rất mực cốt cách thiên tiên để tặng ông chơi một trận. Tuy nhiên càng hì hục bắt chước thiên tiên càng lộ ra cái nết na đười ươi phong thói. Vậy tôi xin ngậm ngùi dừng bút, chẳng dám ký tên dưới tờ thư cay đắng.

*

Nietzsche Hölderlin Rilke

Rilke may mắn hơn Hölderlin Nietzsche, vì Rilke gặp những bạn bè thiên tài chân thành bắt tay ở Pháp. Trái lại Nietzsche Hölderlin. Hai ông này toàn gặp bạn bè phản phúc. Kẻ chân thành thì tư tưởng lại quá thấp, chẳng hiểu hai ông nói cái gì. Nietzsche rú lên một tiếng. Hölderlin lặng lẽ âm thầm đi vào cõi điên. Trong cõi điên, ắt ông chỉ gặp riêng oan hồn Nerval mà thôi. Chỉ riêng Nerval là kẻ đồng thanh khí, cùng chia với Hölderlin cái thảm kịch dị thường.

*

Shakespeare

Những hài kịch hý hước của ông đã đành là vui đáo để. Nhưng những bi kịch âm u nhất của ông cũng pha cái điệu cười ngầm bất tuyệt. Những nhân vật bê bối nhất cũng chịu chơi trong tấn tuồng quỷ loạn, và có cái vẻ khả ái riêng biệt.

Cũng vì lẽ đó nên đọc Shakespeare có cái chỗ nguy hại là: sách ông khiến cho người ta mất ngủ trong những trận cười suốt đêm.

Chỉ riêng một điều: ngôn ngữ Tây Phương không có phép nói lái. Do đó Shakespeare đã tiêu hao tài nghệ trong những trận cưỡng bức dữ dội. Ngôn ngữ không nói lái, mà những Tên Hề của ông, ông buộc chúng phải nói lái bằng bất cứ giá nào. Thì thử hỏi: làm sao thành tựu viên mãn cuộc nói lái cho được?

Thế mà Shakespeare vẫn cứ thành tựu được cuộc ấy như thường. Có lẽ ông đã tận dụng khả năng Anh ngữ trong cái kho văn chương bình dân bát ngát. Từ đó, những kịch bản của ông vượt hết mọi kịch bản Hy Lạp Eschyle Sophocle Euripide. Bởi vì trong kịch bản của ông có bao hàm mọi thứ dị thường của kịch bản Hy Lạp được đẩy tới tột cùng cuống rốn, mà còn thêm những màu sắc riêng biệt của thiên tài ông, không một thiên tài cổ kim nào bì kịp trong lãnh vực kịch trường.

Shakespeare có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời - đó là điều mà học giả Tây Phương không thể nào ngờ tới. Mọi sách biên khảo về Shakespeare đều bưng bít trong những nhận định tủn mủn, gò bó trong những nhận xét về tâm lý nhân vật, về nghệ thuật kịch bản - những định kiến bám sâu trong tủy não người học giả Âu châu trải mấy thế kỷ - trong khi anh hoa thiên tài là tái tạo, là tái lập mọi quy chế, là phá vỡ những lề luật vớ vẩn chỉ cần thiết cho bọn tài năng thông thường.

Những bản dịch Shakespeare ra Pháp ngữ đều chịu đầu hàng vô điều kiện trước phép nói lái của Shakespeare.

*

Hoài Thanh

Nếu cuốn sách của Hoài Thanh (Thi nhân Hiện đại) không ra đời, thì thi ca hiện đại Việt Nam ắt phải tang hoang tinh thể do sức tàn phá của cuốn sách Nhà văn Hiện đại Vũ Ngọc Phan. Trong thế hệ trước, ngoài Hoài Thanh ra, không còn một kẻ nào có thể ngờ ra thiên tài Huy Cận. Dẫu có ngờ ra ắt cũng không thể viết được như Hoài Thanh.

Hoài Thanh am hiểu thi ca Tây Phương, mà vẫn dám coi nhẹ Tây Phương trước thiên tài Huy Cận Nguyễn Du. Đó là điều hy hữu.

Hoài Thanh thừa biết rằng những thứ ta quen gọi là “chủ đề” trong thơ Huy Cận - những suy tư về thân phận con người, về cái chết, về tình yêu v.v… - những thứ đó chả có chi tân kỳ. Cũng như Truyện Kiều của Nguyễn Du chả có chi bí ẩn, nhưng thiên tài chính là kẻ làm “mới” lại những chủ đề cũ kỹ trong ngôn ngữ đơn giản của mình.

Thơ Xuân Diệu tràn lan những chất liệu thi ca Pháp. Nhiều phen ông nói toàn chuyện rỡm. Nhưng thiên tài của ông là ở chỗ: vì quá thâm hậu, nên đùa chơi suốt kiếp với chuyện rỡm.

Hoài Thanh cũng là kẻ riêng biệt âm thầm cảm thấy sự đó.

*

Huy Cận

A thân thể! một cái bình tội lỗi

Đất sơ sinh đã hóa lại bùn lầy

Một ý tưởng chẳng có chi mới lạ. Nhưng câu thơ của Huy Cận lại tươi mát như bầu trời.

Và cổ đứng như mình cây vững chãi

Và vai ngang như mặt nước xuôi dài

Viết câu thơ lai rai như thế mới đích thật là thiên tài. (Còn như bài “Tràng Giang” của ông chính ông cũng lấy làm đắc ý lắm, thật ra còn vướng vướng, không có chi huyền ảo cả.)

Và cái câu:

Tôi đội tang đen và mũ trắng

Ra đi không hẹn ở trên đường

Ông viết hai câu thơ kỳ tuyệt như thế, thì thử hỏi: còn chi đáng kể nữa? Ông thừa sức xô ùa Đường Thi chạy mất hút. Toàn khối thi ca Trung Quốc, toàn khối thi ca Tây Phương, hầu như bị nổ bung lông lốc, vì trái lựu đạn đơn giản đó của ông tung ra.

Và đôi mắt ấy biết nhìn xa

Khi ngoảnh gần bên biết đậm đà

Nhưng cũng biết gieo buồn khía cạnh

Lạnh đồng tê giá nét thu ba

Tại hạ mấy mươi năm nay đọc cũng nhiều loại thi ca ngoại quốc, mà tuyệt nhiên chẳng thấy một vần nào dám ngang nhiên đứng vững trước mấy vần thất ngôn của Việt Nam nọ.

Ấy bởi vì? Bởi vì thơ Huy Cận vốn là sầu, nhưng đó là loại sầu thượng đẳng Như Lai, nên chi trong cái nỗi sầu có pha chất gay cấn chịu chơi. Thơ Homère, Sophocle, Shakespeare, Nietzsche cũng thường có chất đó. Trái lại, thơ hoằng viễn như không của Nerval, Hoelderlin, Eluard, lại dường như không có. (Ấy bởi vì họ chịu chơi theo lối từ bi khác).

Dù sao ta cũng có thể nói rằng thơ Huy Cận quả có như là cõi miền huyền bí nhất của tinh thể Đông Phương

*

Martin Heidegger

Ông nằm giữa mê cung triết học Âu Châu, ông rỡn rỡn đùa đùa với mọi con Minotaure trong đó. Ông độ lượng bao dong, dù biết nó ngoan cố ông vẫn chậm rãi dạy dỗ nó, kiên nhẫn với nụ cười của ông nội, ông ngoại. Ông biết rằng mình thừa thãi công lực thâm hậu, không bao giờ có thể bị nó ám hại đến nỗi phải lâm vào tình trạng tẩu hỏa nhập ma và bị nó vồ nuốt, nên ông thong dong đi sát bên nó mà gùn ghè, ông đú đỡn nhảy lui nhảy tới, thỉnh thoảng ông giả vờ như mình bị bế tắc đầu hàng, để có thể ngấm ngầm bày vẽ cho nó những thế võ mới để nó có thể kéo dài cuộc tranh chấp với ông, nhiếp dẫn nó tới cõi đốn ngộ cuối cùng. Cổ kim, Tây Phương chỉ có một mình ông thượng đạt tới tót vời như Khổng Tử.

*

Thượng Đế

Nếu Thượng Đế quả thật yêu thương loài người, thì Thượng Đế nên tạo ra nhiều nương tử khổng lồ. Ấy là cốt để làm gì? Ấy là cốt phòng khi nào bọn chán đời muốn lọt vào lòng mẹ trở lại thì có chỗ để lọt đầu chui vào. Và như vậy sẽ còn cơ hội được sinh ra đời lần khác, khởi sự làm trở lại một thằng bé sơ sinh tuyệt nhiên không biết sao gọi là chán đời.

Tuy nhiên vì trái đất nhỏ hẹp quá, nếu tạo ra Nương Tử khổng lồ thì các nàng sẽ không có chỗ trú. Vậy trước tiên, Thượng Đế nên thổi phồng trái đất to ra gấp mười lần, thì sự tình sẽ được dàn xếp viên mãn về sau.

*

Ông Trời xanh

Ông trời xanh đã bắt đầu có địa vị trong nền thi ca Việt Nam, kể từ ngày cái chất bê bối của ông đượn thiên tài Nguyễn Du dựng lên sừng sững khắp chốn trong Truyện Kiều.

Gẫm hay muôn sự tại trời

Mọi biến cố xảy ra trong tác phẩm huyền diệu nhất nhân gian, đều do ông Trời Xanh bài bố.

*

Gauguin

Gauguin bỏ Âu Châu, dứt khoát với mọi trường trại lố nhố Tây Phương, thẳng tới một hải đảo Thái Bình Dương dựng lên một trận hỏa hoạn vô tiền khoáng hậu. Ông dựng toàn khối thảm kịch nhân gian trong con mắt thơ ngây người gái đảo. Thảm họa chạy tràn lan, ngập khắp mùi hương cây cỏ giữa sa mạc đại dương.

*

René Crayssac

René Crayssac dịch Truyện Kiều ra Pháp Ngữ, vướng vào những lối sống sượng không thể tránh được.

Nhưng với tất cả những khuyết điểm khổng lồ kia, vì lẽ gì bản dịch của ông vẫn sừng sững nằm trong văn học Tây Phương như một tòa lâu đài Hy Lạp?

Qua cuốn sách của ông, người Tây Phương có thể nhìn thấy toàn khối văn minh Đông Phương lấp lánh trong sương mù.

Và người Đông Phương ngày mai sẽ nằm trong định mệnh: chỉ còn có thể nhìn ra thiên tài Nguyễn Du là qua bản dịch của Crayssac mà thôi.

*

Hồ Dzếnh

Phải quên mấy bài lục bát của ông Hồ Dzếnh thì mới còn can đảm làm thơ. Hoặc còn chịu khó đọc thơ Tây thơ Tàu.

Nhưng mỗi phen đang giữa cơn chịu khó liên trì mà chợt sực nhớ cái bài “Phút Linh Cầu” của Hồ Dzếnh, thì ối thôi! ối thôi! Chẳng còn thể nào tiếp tục công việc gì nữa cả. Linh hồn bỗng nhiên xô ùa máu me chạy tuột đi hướng khác, vô phương nắm cầm lại…

Khói trầm bén giấc mơ tiên

Bâng khuâng trăng rải qua miền quạnh hiu

Tô Châu lớp lớp phù kiều

Trăng đêm Dương Tử mây chiều Giang Nam

Không còn một loại thơ kim cổ nào đứng nổi trước cái trận chiêm bao kỳ ảo kia. Tôi thách các bạn tìm bất cứ trong thi ca cổ kim một bài thơ nào đứng vững nổi trước mấy vần lục bát của ông bạn Minh Hương kia.

Hễ thong dong tự tại thả mình theo thơ đó, thì cảm thấy như mình biến làm thiên thần. Mà hễ hì hục cố bàn giải vào, thì bỗng nhiên tức thở, ngột hơi, cảm thấy mình là một con đười ươi lếu láo trơ trẽn, không biết xấu hổ là gì.

Lỡ viết ra đôi lời giải thích thì về sau sẽ ân hận, sẽ mòn mỏi máu me kịch liệt.

Cũng may cho ông Nguyễn Du sinh ra ở thế kỷ trước. Nếu sinh ra đồng thời với Hồ Dzếnh, ắt ông Nguyễn Du không còn chịu viết Đoạn Trường Tân Thanh làm gì.

Mọi thi sỹ ngày nay đều là kẻ bất hạnh. Bị đọa đày làm thi sỹ, trong khi cõi thơ không còn lối để bước. Mấy chục bài lục bát của Hồ Dzếnh là đại dương thi ca. Ta còn đem vài giọt nước rót vào đại dương làm gì?

Có lẽ Hồ Dzếnh cũng rõ điều ấy, và vì lòng từ bi, ông bèn làm thêm nhiều bài thất ngôn xoàng xoàng in xen lẩn vào. Cốt để che bớt cõi bao la của đại dương. Nếu không làm thế, thì mặc nhiên lên án tử hình hết mọi thi sỹ năm châu.

Ấy có nghĩa rằng: tập thơ Quê Ngoại của ông cho người đọc nhìn ra ẩn ngữ thơ mộng của mặt đất chỗ này: một tâm hồn nhỏ dại, quanh quẩn với những nhớ nhung nhõng nhẽo tâm tình bê tha, mỗi phút xuất thần kỳ ảo bỗng nhiên nhảy vọt một bước lên tột đỉnh thiên tài, không có gì giải thích được.

*

Tiêu Quỳnh

Lần này gặp lại tâm hồn của hai non nước Thừa Thiên Hà Tịnh giao thoa sương bóng.

Sương Bóng

Ngày qua tháng đưa năm về nguyệt

Tuyết rung rinh cự tuyệt thời gian

Đi qua hàng xóm xin hàng

Chữ trong nét bút đầu trang khuynh thành

Hẹn với nước màu xanh nguyên thủy

Góp chùm bông hương dị dị phai

Lời theo đẫm gió xuân dài

Đầu hôm cá biển cuối ngày chim non.

*

Mai Vân Thu

Tôi đọc lại nhiều lần mấy chục bài thơ của Mai Vân Thu, vẫn hồn hộn ngạc ngạc như lần đầu. Tuyệt nhiên không thể xác định được tinh thể điệu thơ của cô. Gắng hồi tưởng xem mình đã từng gặp điệu thơ ấy ở chân trời nào chưa, vẫn quả như là chưa hề gặp. Thơ của cô có vẻ như màu xanh nước biển quanh một vùng hải đảo nào tôi chưa có dịp tới. Hoặc như màu mây gió ở một hành tinh nào không giống như ở trái đất chúng ta. Xin trích ra đây một vài bài.

Chiêu hoa

Chiêu hoa mạch mạch hai dòng

Trổ xum xuê ngọn ngoài trong như vàng

Lục thành tam nguyệt vừa toan

Tấm thanh sam cũ chìm tan sương đồng

Tiểu nhi ý nguyện như hồn

Còn trong ý tứ khuôn tròn đong đưa

Một rằng thốt một rằng thưa

Bình minh trăng mọc ngọn dừa ngủ say

Tỳ tử hát

Tỳ tử hát tiếng ngang lời dọc

Cho yên vui màu tóc nữ vương

Một mai má đỏ môi hường

Rẽ sang bến khác còn mường tượng nghe

Chấm ngòi bút sắt se vào mực

Viết ra câu thúc giục sương mù

To son điểm phấn hư phù

Bước ra bờ cõi đất trù hoạch chi

*

Vui nhất và buồn nhất

Có lẽ thơ nói được cái buồn nhất. Nhưng làm sao nói được nỗi vui nhất? Nó như mây như khói, hay là như cái gì?

Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng

Nhưng sao gọi là vui nhất? Có cái vui rộn ràng nhất. Nô nức nhất. Hồi hộp nhất. Xao xuyến nhất. Cuống quýt nhất. Thanh bình tự tại nhất.

Nhưng sao gọi là nhất?

Ví đem vào sổ nhất trường?

Thì treo giải một mà nhường cho hai?

Cực độ của vui nhất, rất có thể khiến người ta vỡ toang linh hồn, rồi chết mất. Thế thì trong bình sinh con người ta, không bao giờ có cái gì gọi là nhất hết cả? Có lẽ…

*

Hölderlin

Cây trong rừng lớn mạnh mỗi cây

Cọp trong hang mỗi hang mỗi cọp

Tỳ tử ngậm bóng sương huếch hoác

Nữ vương đùa toe toét miệng môi

Ra đi hết đứng lại ngồi

Khung trăng lữ thứ trong đời cõi ma

Tam bành nhị bội tăng gia

Hàng chân chữ bát bước qua giậu rào

Chùm nộ phóng lũy hào phồn thịnh

Lam phù dung núng nính lưng tôm

Môi son miệng mở đỏ lòm

Diotima ạ, ngó dòm cái chi?

Sinh đã biệt thì ly luôn tử

Rượu hư vô nốc thử ly này

Hai hàng tay chắp trong tay

Mnemosyne ạ sau này gặp nhau.

(“Thơ Vịnh”)

*

Hàn Mạc Tử

Làm sao nói gì về Hàn Mạc Tử? Ông gào kêu trong thơ thảm họa của đời ông. Mà đời ông là chỗ về tụ tập của mọi thảm họa nhân sinh.

Thơ ông là một tiếng thét và một lời than. Tiếng thét đầy máu, tiếng than tràn ngập hư vô. Lúc hãi hùng khiếp đảm, lúc quạnh quẽ lạc phách xiêu hồn.

Tôi không đọc thơ ông. Tôi đứng xa xa, người ta hỏi tôi về thơ ông thì tôi xin đánh trống lãng.

Thơ tôi làm, một lần tôi tặng ông trong Mưa Nguồn - ngoài ra mọi làn sóng bành bái trong mấy cuốn thơ của tôi chỉ là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Đi vào giữa trung tâm bão giông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu chuồn chuồn, đem phó thác thảm họa trần gian mang trên hai cánh mỏng bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm, bay về Sương Hy Lạp, ghé Clavaire viếng thăm một vong hồn bát ngát, rồi quay trở về đồng ruộng làm mục tử chăn trâu. Làm mục tử không xong bỏ trâu bò chạy lạc, phá phách mùa màng khoai sắn,thì tôi chạy về bẩm báo với ni cô cho phép con chuồn chuồn của tôi cư lưu một phút giây trong linh hồn bao dong phương trượng. Ni cô xua đuổi tôi thì tôi ra bờ sông nằm ngủ khóc một mình thơ dại giữa chiêm bao. Trong chiêm bao, thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao:

Một hôm đếm một ra hai

Lộn là lạ lắm lai rai bốn lần

Trăng Châu Thổ rất mực gần

Mà ra tại hạ vô ngần chiêm bao

*

Đinh Hùng

Chúng ta khóc như một bầy thú dữ

Lòng dã man nghe trái đất tan tành

Câu thơ như thế đủ giúp mọi người bước vào cung cấm Mê Hồn Ca, chậm rãi đón nghe cái lời gì trong linh hồn vân thạch.

Tặng ông Đinh Hùng vài vần cảm khái:

Bị thường bách tân toan dự khổ

Ngọc vẫn hương tiêu tộ thử thân

Vẳng nghe hàng xóm lối gần

Chân đi gót bước cơ trần đa đoan

Hoàng hậu luống muộn màng công chúa

Nảy hoa xuân cùng múa lộn vòng

Ba thu càng lắc càng đong

Càng đầy tâm sự nỗi lòng càng vơi

Ngày ông còn sống, tôi gặp ông mấy lần. Câu chuyện cứ lạc lõng âm thanh. Ông đánh mất ông, tôi đánh mất tôi. Không hề gì, không hề gì.

Tặng ông một bài nữa:

Tam thiên thủ lạc thiên trường đoản

Tiểu viên hương vũ loạn mông lung

Cuồng ca túy hậu điệp trùng

Diệu từ tiền diện bách tùng tiểu tiên

Hà xứ khán minh niên minh nguyệt

Thử sinh hòa thử tuyết thử sương

Vô thanh ngân hán đoạn trường

Mộ vân thu tận vô thường vân tiêu.

*

Phổ Đức

Đọc thơ Phổ Đức nghe hân hoan như vào vườn cây đủ mọi thứ trái. Trái nào cũng muốn ăn chơi.

Đúng là như thế. Đọc thơ Tạ Ký, Hoài Khanh có cảm giác như uống rượu. Mà đọc thơ Phổ Đức thì quả thật là như ăn trái cây, như leo cây bẻ trái. Hoặc leo cây rồi nằm ngủ trên cây, không muốn tuột xuống đất.

Sài Gòn thành phố thân yêu

tặng Nga

Hỡi em yêu dấu!

mỗi lần về anh ghé thăm em

Sàigòn thành phố thân yêu

em ở đó làm sao xa được

Sàigòn là hơi thở của cơ thể anh

thành phố của áp phe

môi trường của văn học

anh ước ao được thất nghiệp ở Sàigòn

hơn làm có tiền ra tỉnh lẻ

tiền có làm gì khi thiếu em

và bạn bè thân thuộc

thiếu em là hồn anh mất điểm tựa

xa bạn bè là hết văn nghệ rồi em!

Sàigòn Quán Chùa có Toàn, có Mậu

Kim Sơn có Ly, Bô Đa có Sơn, có Ngọc, có An

và biết bao nhiêu người nữa

ở Đêm màu Hồng ở Mác-Xim

ở Quán Gió, Thằng Bờm, Bão, Thơ, Mai, Lú

Phấn Thông Vàng, Mai Hương, Thanh Bạch…

đang chờ anh từng phút từng ngày

gặp nhau dù chỉ để bắt tay

hay hỏi vay tiền cũng đều cần thiết

ngày vào lính anh xa thành phố

Sàigòn thân yêu nhìn rõ lòng người

bộ mặt đời đã tầm thường càng tầm thường hơn nữa

danh liệt rồi chỉ còn em hiểu anh thôi

anh từng xuôi ngược khắp Miền Nam

Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt

Vũng Tàu, Cần Thơ, Vĩnh Long, Cà Mau, Long Xuyên

đâu cũng chẳng bằng Sàigòn thành phố thân yêu

quê hương mưa nắng hai mùa

anh đã trưởng thành ở đó

nên xa Sàigòn anh vô cùng khổ sở

bảy tháng rồi em

(hơn 210 ngày và hơn 5.040 giờ đúng 302.400 phút đúng 18.144.000 giây)

anh chờ lại Sàigòn

với bạn bè, thơ văn, sách báo

với những ngày lang thang

cơm bình dân, mì, bò kho, đầu đường, xó chợ

rồi chui vào rạp Rex ngủ trưa

đợi chiều đi dạy giết thời giờ

với những đêm thức trắng làm thơ

hay xoa mà chược

bảy tháng rồi em

ai đưa em đi xoa?

ai đón em đi ăn bánh cuốn Phan Đình Phùng

hẻm Casino Sàigòn, ngã tư Quốc tế cầu Tân Thuận

đợi Rex, Đại Nam, Eden, Vĩnh Lợi đổi phim

truyện Kim Dung đã xem hết chưa em?

đọc để an ủi cái bất hạnh của từng nhân vật

bè bạn mình chắc cũng có người cưới nhau

nhưng tin vui chỉ bằng 1/10 tin buồn, cáo phó

bây giờ xem báo

anh lật trang chót trước

đọc để chau mày, nhăn mặt, cúi đầu

lệ chảy nhiều nên khô cả thương đau

thân làm đĩ chai đá mòn ân ái

quê hương rách như đời mình hiện tại

dù muốn dù không em hãy tin định mệnh an bài

em yêu ơi!

anh sẽ về dù gió, mưa, bão, đạn

dù hết tiền xe, dù nhảy rào, dù bị cạo trọc đầu

anh quyết về với thành phố thân yêu

để nhìn thấy mặt em và bè bạn

để hơi thở được tự do

và nụ cười được cởi mở

cho những cuộc hẹn hò còn tiếp nối

để dựng lại đời trong đổ vỡ chông chênh

và nguyện sẽ chẳng bao giờ xa Sàigòn

như chẳng bao giờ anh xa em

Tuổi đời ba mốt

vào tuổi ba mươi mốt để thấy phần đời còn lại

để nhận rõ mình và hiểu người nhiều hơn

tuổi cay nghiệt nếu không muốn nói là định mệnh

đay nghiến hồn gần vỡ mặt - nát thân

ba mươi tuổi lẻ tôi biến thành chong chóng

xoay đủ chiều trong vũng cạn tối tăm

mặt đã lem tôi cố chùi thêm loang lổ

nên xua tay như chiếc lá giữa dòng

tôi rong ruổi đó đây từ năm 18 tuổi

13 năm sau người ta trói chân tôi

con số 13 - con số bất hạnh dù lật ngược nó

như tóc cạo nhẵn rồi - râu mọc dài thêm

tôi đã đổi dạng thay hình khi nhận tuổi 31

nên mọi người đều nhìn với dửng dưng

đời tôi lao như xe tuột dốc

phanh đứt lìa - bánh chạy mãi không dừng

em đã hiểu - tôi thầm cảm ơn Phật, Chúa

cho niềm tin đủ soi sáng đời mình

tâm hồn em là dòng sông lớn

tôi là thuyền chở mộng nổi lênh đênh

đúng mùa xuân em đầy hai mươi

tuổi của gần nhau hiểu chuyện đời

chiến tranh đã làm chúng mình xa cách

dù góc biển, chân trời - hãy nguyện cầu còn đủ chân tay

tôi chờ đây với những ngày dài nhất

nỗi chết không rời ám ảnh quanh tôi

buồn trùng điệp đến vây gần nghẹt thở

tôi như ếch giam đáy giếng trông trời

sáng đến chiều qua đêm đã hết

tôi đếm ngày tháng từng phút từng giây

niềm tin héo như cuộc tình đánh mất

sau mỗi lần yêu như canh bạc đen hoài

tôi treo võng đời trên dây kẽm gai

móc hồn gần rơi gió lay đưa mỏi

tôi muốn nhảy sợ thọt chân mù mắt

nên lờ im nằm thoi thóp đợi chờ

ba mươi mốt tuổi - nửa đời thất bại

những ngày về sau lại tối tăm thêm

tôi ngồi đây như thằng gù chờ mở số

vé bị cắp rồi cứ tưởng còn nguyên.

Phổ Đức (Giấu mặt)

*

Hoàng Trúc Ly

Một thứ rượu chua chát nhất ở thành phố.

Ở Sài Gòn

Soi gương lạ mặt bao giờ

Nửa đêm lãng đãng tôi mờ bóng tôi

Ở đây vụng dại với người

Nghiến răng nhai mãi nửa lời vô duyên

Cõi dấn thân

Tôi còn yêu cho biển còn xanh

Mây còn bay cho chim chắp cánh

Ngựa què rồi em cởi lưng anh

Tôi cứ yêu khốn nạn cứ cười

Chim cứ bay cho mây gãy cánh

Em chết rồi ai ám sát tôi?

Tạ Ký nói chuyện cay đắng, Tạ Ký còn can đảm kiên nhẫn viết ra một trang năm ba chục câu thơ. Đến như Hoàng Trúc Ly, ông chỉ viết bốn câu, sáu câu. Ấy bởi vì cái thứ rượu ông dọn ra là cái loại rượu quá chát. Kẻ tửu lượng thượng thừa, cũng chỉ nhấm vài giọt là choáng váng tối tăm mày mặt.

Nằm mộng thấy nữ sinh

Ta từ giấc mộng bước gần em

Đường phố đầy trăng hay mặt trời chìm

Ô hay con gái bay nhiều thế

Hai cánh tay mềm như hai cánh chim!

Như cuống của hoa như cội của cành

Em đến bao giờ là em của anh

Thôi đã vô cùng cô liêu bóng cả

Như chim xa rừng tội nghiệp rừng xanh

Tuyệt mù giấc mộng mỏng như sương

Vai áo hào hoa tê tê bụi đường

Ra đi ta đắp thêm sông núi

Trời rộng sông dài nỗi nhớ thương

Cõi dấn thân

Tôi còn yêu cho biển còn xanh

Mây còn bay cho chim chắp cánh

Ngựa què rồi em cởi lưng anh

Tôi cứ yêu khốn nạn cứ cười

Chim cứ bay cho mây gẫy cánh

Em chết rồi ai ám sát tôi?

Vĩnh biệt

Rồi mai khởi sự ra đời

Chuyến xe trăm tuổi đưa người nghìn năm

Trăng sao bốc cháy chỗ nằm

Áo xanh mây lá vết bầm núi non

Ca sĩ

Từ em tiếng hát lên trời

Tay xao dòng tóc tay mời âm thanh

Sợi buồn chẻ xuống lòng anh

Lắng nghe da thịt tan tành xưa sau

Trời em tiếng hát lên từ

Âm ba tóc rối lững lờ vòng tay

Áo dài lùa nắng vào mây

Dấu chân hồng nhạn rụng đầy gió sương

Ở Sài Gòn

Soi gương lạ mặt bao giờ

Nửa đêm lãng đãng tôi mờ bóng tôi

Ở đây vụng dại với đời

Nghiến răng nhai mãi nửa lời vô duyên

*

Bích Yên

Cô nữ sỹ này làm thơ chân thành. Nếu cô đi tu, ắt sớm thành quan âm bồ tát.

Mưa tháng bảy mưa trôi vào quá khứ

Đứng che hồn nghe lạnh khắp châu thân

Vòng ân ái khép em vào tăm tối

Vì yêu anh em khổ biết bao lần

Khổ như thế, thì phí đi. Cô nên đem tình yêu kia trao gửi cho Như Lai ắt là hết khổ.

Nói như J. Leiba:

Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá

Lệ lòng xin cạn chốn am Không

Cửa thiền một đóng duyên trần dứt

Quên hết người quen chốn bụi hồng.

Đi tu chơi vài năm, lúc bấy giờ cô sẽ nghĩ sao khi đọc lại những vần thơ trầm trọng ngày trước:

Niềm tin vỡ như nắng tan mặt biển

Kỷ niệm buồn chĩu nhánh khắp thân em

Đời con gái được mấy lần hò hẹn

Dĩ vãng còn đau xót làm sao quên!

Cô làm thơ như thế, đi tu chơi một trận, ắt sớm đắc quả A Na Hàm hơn cô Thúy Kiều.

Tại hạ nhân tiện chép tặng cô một câu kinh: “Như thị đại nguyện, thế giới vô tận, chúng sinh vô tận, nghiệp cập phiền não nhứt thiết vô tận, ngã nguyện vô tận”.

*

Hồ Xuân Dzếnh

Tôi thêm chữ xuân vào tên ông, ấy chẳng phải là hoàn toàn làm điều phi lý. Chính ông đã có tập thơ Hoa Xuân Đất Việt. Tôi không thể tự ban thêm cho mình một tiếng xuân vào trong tên tuổi. Nhưng riêng biệt với Hồ Dzếnh, chúng ta được quyền gọi ông là Hồ Xuân Dzếnh. Chính ông cũng đã ngang nhiên tuyên bố:

Ý thiêng người thiếu ta thừa

Nghìn kho ân lộc trăm mùa mạnh xuân

Một loại xuân kỳ lạ cứ về kêu gào làm nứt rạn những vần lục bát của ông. Nứt rạn không phải là vỡ toang. Nứt rạn là cái vùng ẩn mật để cho mọi thứ mùa xuân có chỗ len lấn đi về trong một mùa xuân. Chất thơ xuân của ông từ đó mang tính chất hàm hỗn bát ngát. Xuân vui mà nghe như buồn. Xuân buồn mà nghe như vui.

Ý thiêng choán hết linh hồn

Còn đâu gió nhớ cung hồn buồn mà ca

Ông vừa dứt câu, quyết liệt như thế, thì mọi người bỗng nhiên tê lạnh cả máu me, vì biết rằng cái cung buồn kỳ ảo đang lù lù thị hiện trong câu thơ đòi xóa sạch cung vui. Và quả thật người ta không lầm. Trong Hoa Xuân Đất Việt bốn câu này vẫn nằm sừng sững đó:

Ngoài kia niên thiếu ca xuân mới

Trong lũy tre xanh đời vẫn buồn

Ai biết để lòng yêu một buổi

Bay về thăm viếng mái cô thôn

Bài “Mái Lều Tranh” ghi lại hình ảnh đối kháng nhau; đi sát bên nhau, vẫn không làm sao hòa vào nhau cho được. Hai hình ảnh thăm thẳm riêng biệt trong lịch sử người ta:

Mẹ tôi sống lặng trong làng nhỏ

Đâu biết thời gian đổi mới rồi

Lòng vẫn đau buồn thiên vạn cổ

Nào hay Non nước hãy reo vui

Cái tiếng “hãy” đơn sơ kia lại đang làm nứt rạn câu thơ một lần nữa. Cung như tiếng “đâu biết, đổi mới rồi”. Còn tê buốt hơn tiếng “Đau buồn thiên vạn cổ”.

Vú mẹ đã khô nguồn sữa cũ

Tình con còn lại bấy nhiêu thôi

(“Trang sách xưa”)

Trở lại với Quê Ngoại, chép bài “Phong Châu”:

Giếng vàng ánh ngọc nghìn xưa

Giở trang sách cũ hương thừa còn bay

Mà sao người đó ta đây

Tình duyên phảng phất như ngày đã xa

Người về ta mới nhớ ra

Yêu là thế ấy mơ là thế thôi.

*

Đinh Hùng

Con người nguyên thủy, ta không thể rõ tâm tình họ như thế nào. Đứng trước những quyền lực thiên nhiên, những bão giông sấm chớp, nhìn lại phận thân mình, họ khủng khiếp kinh hoàng, hay là hồn nhiên chấp thuận? Nhìn xác đồng loại bị rắn độc cắn, hoặc bị cọp beo vồ nát, họ rú lên nhưng âm thanh hãi hùng như thế nào, ta không hình dung nổi. Nhưng đêm đông mưa bão rét buốt, ẩn thân trong những hang đá lạnh lẽo, họ suy gẫm những gì về kiếp sống phù du của mình? Họ không được che chở trước trời đất. Đời sống vật chất cũng như tinh thần, đều hoàn toàn phó thác cho hiểm họa diêu mang. Không một đức lý, triết lý nhân sinh vũ trụ nào che chở linh hồn họ. Không một thánh hiền nào thiết lập một Hình Nhi Hạ để họ chui vào nằm yên ổn giữa cương thường.

Ngày nay, con người có được nhiều chốn “nương tựa”. Rượu đế, la de, cà phê, khiêu vũ, xi nê… Nếu những thứ đó không còn chi cám dỗ nữa, thì còn người chạy đi đào sâu những hang hố siêu hình, tồn thể, hết đào hang xuống tận ruột rà trái đất, lại đào hang lên khắp cõi thanh thiên. Hoặc chạy ra đại hải đuổi theo con cá vô hình của trùng khơi. Hoặc chạy vào sa mạc, đuổi theo con chim vô dạng của hư vô. Rồi vẽ vời bao nhiêu luyến tiếc, chờ mong, hoài vọng, thiên hình vạn trạng để che lấp khoảng trống vắng dị thường của phù sinh hư huyễn. Rốt cuộc vẫn đối diện với cái khối lù lù bất khả tư nghị do Tử Thần dựng lên ở giữa đường. Cái khối dị dạng nọ quả thật gay cấn khôn hàn. Xua đuổi nó không được. Trừ khử nó không tan. Thôi đành ôm chầm lấy nó ve vuốt mà bảo rằng: - Tử Thần ôi! Em chính là lẽ sống của ta. Ta sống bao nhiêu tuế nguyệt lao đao lận đận, là chỉ cốt để thành tựu đời mình trong cái Chết Thơ Ngây Man Mác. Ta ôm lấy em và cảm thấy ấm cúng vô song. - Tử Thần ạ, lại gần đây đối mặt! Trao bàn tay cho ta nắm bên miền…

Đó là một lối tự dối mình vậy. Tô son phết phấn vào khuôn mặt Tử Thần, kể cũng đà thiểu não lòng người bấy nay. Mà kể ra, suốt bình sinh, con người ta đeo bám vào những thứ gọi là văn minh tiến bộ, gây dựng nên những thứ gọi là công nghiệp lưu tồn, chẳng qua cũng chỉ là một cách tự dối mình đấy thôi.

Đinh Hùng Mê Hồn Ca muốn nhảy vọt một trận, trút bỏ hết mọi thứ “quà” của văn minh gạt gẫm, đi giữa thế kỷ hai mươi, ông muốn sống lại tâm tình người nguyên thủy về đối diện với xã hội văn minh. Ông muốn khước từ hết mọi thứ xây dựng êm ấm của xã hội văn minh, muốn trơn trụi gào kêu giữa lạnh lùng vạn vật.

Chúng ta khóc như một bầy thú dữ

Lòng dã man nghe trái đất tan tành

Trái đất chưa tan tành, nhưng liên miên như đang tan tành, vì kể từ nguyên thủy, linh hồn con người và thể xác con người đã nối đuôi nhau tan tành giữa vạn vật. Và mọi cuộc xây dựng chân chính nào của con người, rốt cuộc vẫn như oái oăm góp phần thêm vào mọi thứ tàn phá ở mọi bình diện.

Người thi sỹ thâm cảm sự tình éo le đó trong tuổi xuân xanh, và nỗi phẫn nộ không sao giập tắt được. Không còn tìm đâu ra con đường “phục vụ”. Mọi cố gắng giữa nhân gian, dường như phó thác hết cho diêu mang hỗn độn “giữa chợ đời vất vưởng bóng sầu nhân…” Thì văn minh, thì đức lý, thì thì thì? Phân biệt thị phi, hư thực thế nào? - “phù dung bên phù thể, cõi nào thực cõi tiêu tao? Hồng phấn lẫn hồng trần, đâu đã vì đâu ô trọc?”

Thì tiếng gào thét của con người nguyên thủy trở thành tuyệt đối trắng trợn dã man cho vừa tầm diêu mang của cõi đời hỗn độn:

Ta lảo đảo vùng đứng lên cười ngất

Ghì chặt nàng cho chết giữa mê ly

Rồi dày xéo lên sông núi đô kỳ

Bên thành quách ta ra tay tàn phá

Giữa hoang loạn của lâu đài đình tạ

Ta thản nhiên đi trở lại núi rừng

Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng

Nhưng chỉ có thể thét lời ấy trong thơ, và thét một lần. Rồi ân hận tới. Trong cơn đoạn trường, vị “bạo chúa” kia đã nằm thiêm thiếp khóc. Vì cuộc tàn phá kia, chẳng giải tỏa được gì. “- Giết đi hồn nguyệt hoa chiều? Giết đi cả dáng diễm kiều của xuân?” Tàn phá trong tưởng tượng xong một trận, lại tha thiết nguyện cầu cho nguôi lãng.

Đi vào mộng những Sơn Thần yên ngủ

Em! kìa em! đừng gọi thức hư không

Hãy quỳ xuống đọc bài kinh ái mộ

Hồn ta đây thành tượng giữa Vô Cùng

Toàn tập Mê Hồn Ca, vẳng lên một tiếng thét và một lời than. Tiếng thét của bạo động, của phản kháng, và lời than của ân hận nguyện cầu. Tiếng thét đạt tới chỗ cuồng loạn thống thiết nhất. Lời than cũng thê thảm sâu xa nhất.

Tiếng thét và lời than trầm thống của Đinh Hùng “Sầu trong tà dục, vui ngoài hiện tâm” dội lên song song với Hàn Mạc Tử, mở ra cuốn sổ đoạn trường của con người thế kỷ hai mươi, không còn nơi cu trú. Cuốn sổ đoạn trường mở ra như thế để làm gì? Không biết. Không biết. Nhưng cuộc mở ra nào cũng đi tới một trận khép lại.

Đinh Hùng trong Đường Vào Tình Sử, vốn đã có một lối khép lại của riêng ông sau cái trận Mê Hồn Ca, một lối “dùng độc dược thử lòng thế tục”. Chúng ta còn có nhiều lối “tịnh hạp” khác. Xin để tùy mỗi người tìm lối riêng của mình.

Ngôn ngữ thơ trong vài thế kỷ này đã nẩy nở xum xuê, thiên hình vạn trạng. Hoặc ẩn mật thần bí, hoặc đơn giản như một lời ca dao, thi ca vẫn có sức đưa dẫn người ta vào giữa huyền nhiệm của cuộc sống. Cuộc sống vừa khủng khiếp vừa nên thơ, cuộc sống không thể nào đem ra lý luận một cách máy móc. Luận lý học đã gạt gẫm người ta, người ta thi đua nhau tán dóc. Thằng thi sỹ không thể nào nhảy vào vòng luận lý đú đởn để hơn thua. Nó cảm thấy chán chường khi phải cùng người luận lý bàn luận thị phi. Tha hồ để cho bọn họ mặc sức tán hươu tán vượn, ngấm ngầm dùng mọi thủ đoạn để sát hại thi ca và thằng thi sỹ.

Nhưng thằng thi sỹ có tội lỗi gì đâu. Nó chỉ ghi lại một đường trăng tê dại, vẻ lại một màu tuyết lạnh, ngắt một chùm bông ở trên núi chiêm bao đem về làm tặng vật cho con người được rồ dại chịu chơi giữa chốn phù vân hoặc bụi hồng lông lốc. Mở ra những cuộc tình yêu rờn rợn vô thủy vô chung, o bế những cơn mơ tuyệt vọng, thì kể cũng hơn o bồng hôn hít mãi những con vợ già cục mịch cằn nhằn. Đêm tân hôn chỉ có một lần, buổi ly dị cũng chỉ ra tòa một bận, uống rượu ly bì cũng tới lúc tỉnh ra, chém giết nhau cũng mất công đào huyệt… Chi bằng vớ lấy bài ca mê hồn, thì lúc nào cũng có thể mở trận đảo tứ điên tam, ngang tầm với tứ khuynh ngũ phúc của cuộc thế dâu biển ngục tù. Tuyệt vọng? Thì thà rằng tuyệt vọng với những Kỳ Nữ Chiêm Bao, những Nữ Chúa Thái Cổ, những màu mắt nâu vô ngần của Gái Hải Đảo sơ khai, cũng hơn là tuyệt vọng vì những thiếu phụ đẩy đà ngồi trước quày hàng đếm những đồng tiền dị dạng… Một tay đếm tiền, một tay gãi vào chùm lông nách… thì như vậy còn chi là khói trầm bén giấc mơ tiên? Còn chi là bâng khuâng giải qua miền quạnh hiu? Ôi ông Hồ Dzếnh!

Thơ về nắng sáng lừng lay

Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra

Cõi trần vẳng tiếng Thiên Nga

Thơ không tuổi, ý không già: muôn năm

Gối lên Bắc Đẩu ta nằm

Nghe rung chân lạ, thơ thần mười phương.

(Hoa Xuân Đất Việt)

*

Vũ Hoàng Chương

Đá đâu lên tiếng thay vàng

Gỗ đâu mở mắt hai hàng bạch dương.

Nhiều người đã nói tới ông Vũ Hoàng Chương. Tại hạ còn biết nói thêm được lời gì bây giờ

*

Hàn Mạc Tử

Thưa, tôi không dám si mê

Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền

Bây giờ tôi dại tôi điên

Chắp tay tôi lạy cả miền không gian

Ông nói lời như thế mặc nhiên xóa sạch hết mọi nguồn thơ thế gian. Còn ai có thể làm thơ được nữa.

Thưa, tôi không dám si mê

Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền

Bây giờ tôi dại tôi điên

Chấp tay tôi lạy cả miền không gian

Tôi lạy cả miền không gian? Hãy để yên cho tôi điên tôi dại. Đừng ai nói đến tôi. Và nhất là đừng có bàn đến thơ tôi. Tôi không dám si mê, cũng không dám hoài vọng. Một mai tôi chết. Nghĩa là bây giờ tôi không còn sống. Tôi sống trong cơn dại cơn điên. Tôi làm thơ trong cơn điên cơn dại. Nghĩa là tôi chết hai ba lần trong trận sống. Tôi lạy cả miền không gian đừng có bắt tôi chết thêm một trận thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, chủ nhật…

Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền

Còn bây giờ không có ngọc tuyền đâu để tôi đến một bên tôi chết.

Bây giờ tôi dại tôi điên

Chấp tay tôi lạy cả miền không gian

Người yêu đừng bén mảng tới. Bạn bè hãy đi xa. Để tôi một mình tha hồ tôi điên tôi dại. Ai có đến gần thì hãy thử điên dại như tôi.

Tôi vẫn còn đây hay ở đâu

Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu

Người đi một nửa hồn tôi mất

Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ

Ông xua đuổi người đi vì ông không thể kêu gào người ở lại. Bởi vì nếu người ở lại, thì ông sẽ giết chết mất người. Ông giết chết mất người vì ông không thể đấm cho vỡ toang vũ trụ.

Bao giờ mặt nhật tan thành máu

Và khối lòng tôi cứng tợ si?

Nhưng vì sao ông muốn mặt nhật tan thành máu? Tan thành máu để cùng nhân gian chìm ngập trong đoạn trường? Mặt nhật chưa tan thành máu, thì chỉ riêng con người chịu đau khổ mà thôi. Hàng triệu triệu con người bị dìm trong máu. Trong oan nghiệt không cùng. Hàng triệu con người cũng đang cầu nguyện cho lòng mình cứng tợ si.

Cả thế giới này đang cùng Hàn Mạc Tử chia một thảm họa.

Em cố nghĩ ra một chiều vàng úa

Ngày nay người ta không cần cố gắng cũng thấy rõ sờ sờ một chiều vàng úa kia.

Em cố nghĩ ra một chiều vàng úa

Lá trên cành héo hắt gió ngừng ru

Một khối tình nức nở giữa âm u

Một hồn đau rã lần theo hương khói

Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi

Một lời run hoi hóp giữa không trung

Cả niềm yêu ý nhớ cả một vùng

Hóa thành vũng máu đào trong ác lặn

Hàn Mạc Tử biết rằng trừ ông ra, ngàn thế kỷ sau không còn ai có thể nói tới tận cùng thảm họa nhân gian. Nên ông phải dốc hết tim phổi nói một lần. Đó cũng là lời cầu nguyện cho nhân gian. Lời cầu nguyện sẽ phát khởi từ thảm họa dâng lên tới trời xanh. Lời cầu nguyện vang dội song song với lời nguyền rủa, vì có lẽ đó là chỗ bất khả tư nghị của từ tâm. Chúng ta có thể đọc ẩn ngữ kia trong mấy câu:

Ánh trăng mỏng quá không che nổi

Những vẻ xanh xao của mặt hồ

Những nét buồn buồn tơ liễu rũ

Những lời năn nỉ của hư vô…

Ánh trăng mỏng quá không che nổi, thì lời năn nỉ của hư vô đã khiến Hàn Mạc Tử dốc hết bồ đề tâm của mình ra trong tiếng gào thét hỗn độn của Caligula…

*

Hồ Dzếnh

Bài “Giang Tây”, và bài “Phút Linh Cầu” khiến tôi bải hoải tay chân. Không còn can đảm đọc thơ Nguyễn Du Huy Cận Hàn Mạc Tử Nguyễn Bính gì được nữa.

Hồ Dzếnh cũng không thể nào làm thơ tiếp được nữa.

Gauguin bỏ chạy trốn Âu Châu, tìm tới một hải đảo vô biên vô tế, suốt bình sinh ngồi vẻ lại màu mắt gái trùng khơi trong những buổi hoàng hôn đại hải, ấy cũng là một lối đi tìm cái dư vang nào trong thơ Hồ Dzếnh.

Biển chiều vang tiếng nhân ngư

Non xanh thao thiết trời thu rượu sầu

Nhớ thương bạc nửa mái đầu

Lòng nương quán khách nghe màu tà huân

*

Thơ

Thơ là cái gì không thể bàn tới, không thể dịch, diễn gì được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa rào bằng lời thơ. Thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phát động một trận mưa rào, hoặc một cơn gió thu. Mà muốn thực hiện sự đó, thì ngoài việc làm thơ ra, con người không còn phép gì khác. Thế có nghĩa là: muốn bàn tới một bài thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác.

Người xưa am hiểu sự đó, nên họ chỉ vịnh thơ, chớ không bao giờ điên rồ gì mà luận bàn về thơ. Người đời này trái lại. Họ buộc phải luận thơ cho có mạch lạc luận lý, không được “bốc đồng” (!) vịnh lăng nhăng. Cái chỗ ngu sy đó là điều bất khả tư nghị vậy.

Sự ngu sy đã tràn lan khắp chốn, thì kẻ hiểu thơ đành phải tuân theo khắp chốn để mở trận ngu sy.

Từ đó nảy ra không biết bao nhiêu trận luận về thơ theo lối bửa củi, dịch thơ theo lối gặm xương gà (gặm được chút da, nhưng không hút được cái tủy).

Muốn hút được chút tủy, đảnh phải liều nhắm mắt cắn mạnh một cái. Cắn mạnh một cái, thì gãy mất hai cái răng. Thì còn bù vào đâu mà hút tủy được nữa. Kể đà thiểu não lòng người bấy nay.

Ông Crayssac dịch Kiều, ông có hút được nhiều chút tủy, và đã chịu gãy bao nhiêu cái răng của ngôn ngữ Pháp. Sau đây là một thí dụ của hút tủy và gãy răng.

Sinh rằng lân lý ra vào

Gần đây nào phải người nào xa xôi

Được rày nhờ chút thơm rơi

Kể đà thiểu não lòng người bấy nay

Bấy lâu mới được một ngày

Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là

Cái chất tủy trong thơ Nguyễn Du là: dừng chân gạn chút, được rày nhờ chút, người nào xa xôi, gần đây nào phải, lân lý ra vào, kể đà thiểu não, bấy lâu mới được, lòng người bấy nay, mới được một ngày, dừng chân gạn chút …vân vân.

Hãy xem Crayssac dịch:

Et le jeune homme alors à Thuy Kiéou répondit:

“Je suis votre voisin; j’habite près d’ici…

Ne voyez pas en moi quelque étranger, ma chère

Arrivant, impromptu, d’une lointaine terre…

Grâce à cet incident, j’ai respiré, très doux,

Quelque peu du parfum qui rayonne de vous,

Mais, hélas! de combien et de combien d’angoisses

Mon coeur dut-il subir les étreintes tenaces,

Et combien dut attendre, ô Ciel, mon triste amour

Avant de recevoir l’ivresse de ce jour!

De grâce, arrêtez-vous; que je puisse, de suite,

Montrer les sentiments intimes qui m’agitent…”

Ông dịch thơ Việt ra thơ Pháp như thế, kể còn trúng cách điệu hơn người Âu Châu dịch thơ người Âu Châu.

Henri Michaux có bốn câu vịnh “Băng Sơn” (Icebergs) đơn sơ bát ngát, mà bản dịch ra Đức ngữ đã chịu gãy mấy cái răng?

Icebergs, Icebergs, dos du Nord-Atlantique, augustes Boudhas,

Gelés sur des mers incontemplées,

Phares scintillants de la Mort

Sans issue, le cri éperdu du silence dure de siècles

Bản dịch:

Eisberge, Eisberge, Rücken des Nord-Atlantik, großartige

Gefrorene Buddhas auf den unruhigen Meeren.

Blitzende Leuchtfeuer des Todes ohne Ende wilder

Schrei des zähen Schweigens der Jahrhunderte.

Tiếng incontemplé (vô quan chiêm) lại dịch ra làm bất an, dao động… Le cri éperdu du Silence dure des siècles, trong bản dịch biến ra làm: le cri sauvage du dur silence des siècles.

Thế là nghĩa lý gì? Không biết. Không biết.

Duy có điều: dù sai lệch bao nhiêu chăng nữa, thì tinh thể ngôn ngữ Âu Châu vẫn nhiều điểm tương đồng, khiến dịch giả không đến nỗi phải chịu phận gãy răng lang bối bất kham.

Trái lại, giữa ngôn ngữ Âu Châu và ngôn ngữ Á Đông, có quá nhiều hang hố. Và những kẻ tự phụ cho mình đạt, công kích kẻ khác dịch là diệt, những kẻ đó hãy thư thả gẫm lại xem. Nếu những kẻ đó chịu bỏ ra vài chục năm suy gẫm vấn đề, ắt chẳng còn bao giờ dám tự phụ nữa.

*

Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử

Trang Tử vốn thường dùng phép ngụ ngôn. Vậy thì cái việc Trang Tử nói về sự vụ Khổng Tử tìm tới Lão Tử để “vấn Lễ”, sự đó thật là có hay là không có?

Nếu không có, mà Trang Tử dựng lên làm có, thì ý Trang Tử muốn gì? Trang Tử thật có ý muốn dìm Khổng Tử, hay đó chỉ là một phép lập ngôn cưỡng bức của ông để đẩy lùi bọn nho hương nguyện? Lời đáp hiển thị một cách quá hiển nhiên.

Còn nếu sự vụ vấn lễ kia quả là có thật, thì ta nghĩ sao về Khổng Tử? Nếu quả thật ngài có nói với môn đệ rằng “con chim thì ta biết nó bay, con cá thì ta biết nó lội, còn con rồng thì ta chẳng thể rõ nó lội lúc nào, nó bay lúc nào. Ta nay gặp Lão Tử như thấy rồng vậy”.

Nếu quả thật ngài trở về với môn đệ như thế, thì chúng ta nghĩ sao? Lời đáp cũng lại quá hiển nhiên.

Đừng nói chi tới Lão Tử là một bậc đại hiền (mà Khổng Tử biết rằng bọn môn đệ mình không đứa nào bì kịp), ngay đối với những nhân vật thường thường mà có được vài đức tính, ngài cũng không tiếc lời khen ngợi.

Vào thái miếu, việc gì sự gì ngài cũng hỏi. (Tử nhập thái miếu, mỗi sự vấn…) Ấy chẳng phải là vì không hiểu mà hỏi, ấy chỉ vì - thị Lễ giã.

Cái lời đơn sơ “vô khả, vô bất khả” của ngài, còn bàng bạc bao trùm hết mọi tư tưởng Trung Hoa - nó cho phép Lão Tử đưa cái đạo vô tri ra đời, nó cũng lại mở đường cho Trang Tử được phép cà gật đú đởn với lối lập ngôn “triêu tam nhi mộ tứ, triệu tứ nhi mộ tam”.

Đọc lại Khổng Tử, Trang Tử, Lão Tử, ta còn nhận ra một điều dị thường bất khả tư nghị này: Trang Tử cà gật, nhưng Trang Tử quán xuyến cái lẽ đương nhiên, và cái lẽ sở dĩ nhiên nào đã quyết định cái đạo của Khổng Tử. Trái lại Lão Tử có thể là đại hiền, nhưng không phải đại thánh hoặc thượng trí, thái tiên. Có thể rằng Lão Tử còn chấp trước. Có thể rằng Lão Tử còn khư khư bo bo với cái đạo vô vi của ngài. Có thể rằng ngài không rõ cái “sở dĩ nhiên” nào đã quyết định Khổng học. Có thể rằng Lão Tử không ngờ gì hết, không đủ tế mật để nghe ra cái lời đạm nhiên của Khổng: “thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an. Nhân yên sưu tai, nhân yên sưu tai!”

Ngôn ngữ Lão Tử có tính cách bộc trực, cực đoan, một chiều. Trang Tử đã lợi dụng Lão Tử để tấn công môn đệ Khổng Học, nhưng trong thâm tâm, Trang Tử có thể xem thường Lão Tử, mà kính phục Khổng Tử một cách không bến không bờ.

Trang Tử lập ngôn luôn luôn theo thể thái song trùng nhị bội, ông chừa những khoảng trống, những khe hở miên man, để cho cái duplicité de l’Être (tính chất nhị bội của Tồn lưu) có thể luôn luôn thong dong còn cơ hội đi về. Đó là điều thiếu hẳn trong ngôn ngữ Lão Tử… (Thật ư? Không hẳn…)

Trang Tử gần Khổng Tử trong lối lập ngôn song trùng nhị bội. Nhưng khác Khổng Tử ở điểm Khổng Tử đạm nhiên, ẩn mật, hoằng đại bao dong; Trang Tử du côn ăn nói toe toét, có pha chất quỷ quyệt.

Những thiên tài tư tưởng hiện đại của Trung Hoa, ngày nay lao mình vào cuộc viết truyện vũ hiệp, bỏ lại trận đồ triết học cho bọn học giả ru rú. Bàn luận thị phi với bọn học giả đó, người tư tưởng cảm thấy chán chường. Đó có lẽ là nguyên do sâu xa đã khiến tư tưởng Trung Hoa chìm đắm mấy ngàn năm. - Khổng Tử ngày xưa cũng đã thâm cảm sự đó. “Bất đắc trung hành nhi dữ chi, tất dã cuồng quyến hồ! Cuồng giả tiến thủ; quyến giả hữu sở bất vi dã”.

(Ta chẳng được hạng người theo đúng đạo trung để truyền đạo, ắt hẳn phải tìm đến bọn cuồng, bọn quyến vậy! Bọn cuồng có chí tiến thủ, bọn quyến có điều chẳng chịu làm).

Người Trung Hoa ngày nay chỉ có thể bắt đầu học tập tư tưởng là khi họ dám thử liều bước suy nghĩ rằng: đối với Khổng Tử quá cao viễn, tìm không được bọn người trung hành, thì thà ngài tìm đến bọn người cuồng - là Trang Tử, tìm đến bọn người quyến - là Lão Tử.

Người Trung Hoa hãy nên gột rửa sạch sẽ tinh thần mình, trừ khử khỏi đầu óc mình cái ý tưởng bo bo đem xếp Trang Tử, Lão Tử ngang hàng với Khổng Tử, rồi lăng nhăng sun soe mãi với những tiếng tam đạo, tam giáo, tam lý, tam ngu, tam hiền, tam thánh, v.v…

*

Xuân Diệu

Trưa hôm nay con ngồi như trẻ nhỏ

Giữa đáy trưa trong lòng mẹ vô cùng

Con là sáo, Mẹ là ngàn vạn gió

Mẹ là trời, con là hạt sương rung

Sương uống mãi chẳng bao giờ hết sáng

Của trời cao chói lói mỗi chiều ngày

Sáo ca mãi, lòng mẹ run choáng váng

Gió vẫn đầy ngàn nội bốn phương bay

(“Mẹ Việt Nam”)

Thơ Xuân Diệu thường có chất bát ngát hồn nhiên như thế. Tây Phương Đông Phương cổ kim không có nguồn thơ nào sánh kịp. Chúng ta quen thói chạy theo đuôi phong trào sùng phụng những Nerval, Hoelderlin, Rilke, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Tagore, chúng ta không còn cách gì ngờ ra rằng nguồn thơ Xuân Diệu có thể bao la hơn bất cứ một nguồn thơ thi sỹ nào. Việt Nam đã có một Nguyễn Du đi khắp cung bậc đoạn trường gay cấn, về sau có một Huy Cận tiếp hậu ngậm ngùi, một Phạm Hầu cô tịch, một Nguyễn Bính man mác ca dao. Thử hỏi: chúng ta còn cần chi tới bất cứ một nguồn thơ Tây Phương nào? Dù là Nerval hay Rilke, dù là Whitman hay Henri Michaux?

Chúng ta cần Xuân Diệu. Cần một vài vần lục bát của Hồ Dzếnh. Chúng ta đứng xa xa, nguyện cầu cho Hàn Mạc Tử, Chúng ta phải để cho thơ Xuân Diệu rúc vào tủy xương mình. Vì y đủ thói bông lông thắm thiết của con người thượng đạt. Y trẻ dại, y lăng nhăng, y nói tới nỗi đời rồi y xóa đa đoan dâu biển. Y hồn nhiên giũ áo, nắm lây cung cầm Tăng Điền đánh lên giữa mùa Xuân…

Có một suối thơ chảy từ gần gũi

Ra xa xôi và chảy đến gần quanh

Một suối thơ lá ngọt với hoa lành

Nói trong xóm và rỡn cười dưới phố

Nguồn thơ mới tuôn ra từ vũ trụ

Có lẽ là hơi là gió cũng nên…

(“Suối”)

“Thiên hạ xuôi xuôi ngược ngược, khệnh khạng kềnh càng, còn ta, ta hồn hồn ngạc ngạc ca hát như trẻ thơ… Hãy để cho trẻ thơ tới bên ta… Chim chóc tới bên ta… Các ngươi hãy gột rửa cái thói học đòi bác học đi. Các ngươi hãy mù lòa đi, và các ngươi sẽ không còn tội lỗi…”

Chân nhân đời xưa nói gì? Nói rằng: các người đừng dùng thủ đoạn, đừng lợi dụng những ông Nietzsche để sát hại trẻ con. Thảm họa của Nietzsche không phải là ở chỗ bị công kích, cũng không phải bị mấy ông linh mục lên án. Thảm họa của Nietzsche là ở chỗ: bị bọn hãnh tiến lôi về phe cánh mình để tiện bề gây rối loạn.

*

Nguyễn Bính

Mẹ cha thì nhớ thương mình

Mình đi thương nhớ người tình xa xôi

Đó cũng là tâm sự Đức Khổng Phu Tử vậy. Quê hương nước Lỗ thì nhớ ông. Mà ông thì cứ giũ áo ra đi lang thang chu du lữ thứ tìm kiếm khắp nước Tàu cái vong hồn tồn lưu nào chẳng rõ. Rồi san định bao nhiêu cuốn kinh, ghi chép cái ngấn tích phiêu bồng đã trôi tuột từ bao…

*

Huy Cận, Xuân Diệu

Huy Cận đi từ Lửa Thiêng tới Hội Hoa Đăng, Tặng Em Mười Sáu, tức là ông đi cái bước tối hậu, tại bách xích can đầu. Cũng như Nguyễn Du đã dẫn cung cầm bạc mệnh Thúy Kiều tới giai đoạn “đầm ấm dương hòa”. Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy? Xuân Diệu già trước tuổi, nên ngay từ đầu, ông đã xóa tiếng đoạn trường bạc mệnh bằng cái thể điệu ngấm ngầm niêm hoa vi tiếu bàng bạc trong thơ ông. Già trước tuổi? Nghĩa là phản lão hoàn đồng? Nghĩa là quá già nên hóa ra trẻ nít trở lại? Quá già kể từ đâu? Kể từ cõi Nguyễn Du vậy. Kẻ nào chưa hiểu rõ chỗ tận cùng tàn sơn thặng thủy trong cung bậc Nguyễn Du, kẻ đó không thể nào hiểu Huy Cận Xuân Diệu đã vì đâu mà già, do đâu mà trẻ.

(Xét lại xem Shakespeare đã đánh cung bậc nhị bội như thế nào kể từ Hamlet Macbeth Othello sang những vở hài kịch bát ngát của ông. Xét lại Sophocle: bên bi kịch Oedipe, còn có vở kịch Philoctète)

Nguyễn Du

Bấy giờ ai lại biết ai

Dù lòng biển rộng sông dài thênh thênh

Câu thơ hàm hỗn bát ngát dị thường đó, mọi bản dịch đều dịch một chiều. Không ai ngờ gì cả về cõi lập ngôn tủng bạt ráo riết của Nguyễn Du niêm hoa vi tiếu.

*

Phương Tâm

Thơ bà Phương Tâm mang nhiều màu sắc hải ngoại.

Mặt biển

Mặt biển xanh

Con tàu trắng

Con chim biển

Ôi

Con

Chim

Biển

Người bạn

Người bạn chết rồi

Một hôm ra khơi

Xa xôi nhỏ bé

Nhỏ bé

Xa

Xôi

Mùa xuân đã rụng mất rồi

Con cá

Con cá hôm qua ấy

Gặp con cá hôm nay

Hôm qua ấy hôm nay

Hôm nay ấy chính hôm qua

Kể từ cuống ruột tới rà

Kéo lê lếch giữa mù sa biển vàng

Con cá hôm nào thế

Một hôm con cá đi về

Từ khơi biển mặn cát đè lên tim

Từ trùng dương rộng đi tìm

Hội kim châu rụng trong miền phù du

*

Thích Thiên Thư

Nguồn thơ vị sư này chảy về từ cõi uyên nguyên Phật Giáo tràn ngập vào lục bát Việt Nam, trở thành một dòng riêng biệt bát ngát.

Đọc thơ ông và nghe ông ngâm thơ, tưởng chừng như chết lặng mất linh hồn và trùng sinh trong cõi khác.

Lời thơ như gột rửa máu me thể phách và vương vấn tâm thần như khói chiên đàn tụ về ngưng bích phủ sương mây Lãm Thúy.

Lời thơ giục giã lên đường Thái Hư, lại như thôi thúc yêu đương hoàng hậu Ai Cập. Lại như xóa bỏ mất cung thành để ngồi nghe âm thanh sa mạc. Lại như… Lại như… Lại như… Lại như… Lại như...Lại như...Lại như... Tôi muốn viết luôn một ngàn tiếng lại như để cuối cùng có thể nào biến lại như ra làm như lại và mất dấu nặng để trở thành Như Lai?

Cỗ xe mặt trời

Cỗ xe phía mặt trời chiều

Một con ngựa xoải về theo mặt trời

Cờ trên ải núi chơi vơi

Đứng buồn muôn dặm xa khơi còn tìm

Xe về dưới núi nằm im

Chim kêu rời rạc trên miền đất xa

Nghĩ mình cũng thủa thăng hoa

Chân đi viễn tượng đường xa khói mù

Lá cờ đen vọng muôn thu

Nghìn tâm sự để cho dù biển xanh

Chiều lên thác bạc sương ghềnh

Dưới khe khói núi cũng dầu nhớ nhau

Đá rừng vai tượng thiên thâu

Về em thêm một lần câu tình hoài

Sớm mây phố chợ tên người

Cỗ xe gác ngựa nuôi lời lớn khôn

Mù sương trên vai

Trên cao phố lẻ mặt trời

Cây nghiêng hàng dựng rã rời chim bay

Nghe chừng gió cuộn đâu đây

Bãi xa tiếng quạ dâng đầy nước sông

Ta về người đi buồn không

Mùa thu hoa trắng cho lòng nhớ em

Con tàu than hú ga thâu

Cây cao loáng lẻ buồn trên hồ cầm

Anh còn bạo động thâm tâm

Sương trên Vai tượng buồn câm nín chiều

Gửi đóa hoa về người yêu

Nhớ em đau đớn cho nhiều tầm tay

Anh ngồi qua một đêm nay

Đêm trên hầm rượu với cây kèn đồng

Vào thu

Với dung nhan cỏ hoa này

Chim di cũng lại từ ngày sang thu

Áo ai mây trắng bên hồ

Nghe như gió cũng gieo mùa phiêu bay

Nghe rừng xao xác trăm cây

Chim nao tiếng rụng bên ngoài nội hoa

Từ em cồn giấy mai hoa

Thơ trăm chữ đọng ý sa giọt buồn

Từ em ngơ ngác mùa sương

Nghiêng nghiêng nắng đổ còn vương ít nhiều

Từ em ngọn bút mai kiều

Anh mang dáng vóc mây chiều trên vai

Từ em đôi búp tay dài

Mười con chim nhạn bay ngoài cồn trăng

Từ em cài nụ hoa vàng

Từ em suối tóc bên hàng giậu bay

Lạnh mùa chim đi

Xao xác chừ mấy hàng cây

Mà trăng tĩnh mặc bên ngoài hàng hoa

Chim đôi tiếng rụng trong mù

Nghiêng nghiêng cõi núi vi vu gió mùa

Về từ hàng ngọn cờ xưa

Mây du đãng nhớ tang Vua nội thành

Nao nao một giọng cầm tranh

Mười hai ải khói trên thành gỗ thơm

Tay em hạc nội mây cồn

Chừ nghe tóc rũ nao hồn gió thu

Cơn mưa đáp bụi bay vù

Còn anh thân lạnh với mùa chim di

*

Thích Trung Tử

Vị sư này có giọng thơ phóng dật như thơ Đỗ Mục. Người rất điềm tĩnh, ai ngờ đâu thơ lại nồng nàn đắm đuối hơn kẻ si tình.

Xác thân

Xác thân này một cung say

Độ vui này một tháng ngày mộng du

Trí không này một ngục tù

Tóc em này một rừng thu quên về

Chiều lên thú vật lạ lùng

Lửa chân trời đỗ vỡ tung miên trường

Ta cười cuồng ngất khói sương

Rồi nghe biển động con đường thụy du

Trầm ca

Trầm ca heo hút với rừng

Tiếng lên trăm giọng tắt vừng Thái Hư

Bay rồi sương khói mùa thu

Còn đâu ải bắc lạnh từ dòng chim

*

Mẫu Thân Phùng Khánh

Nhiều người hỏi tôi có quả thật Phùng Khánh đã có đẻ tôi ra đời chăng. Bà đẻ ra tôi lúc nào?

Sự thật là Phùng Khánh chẳng hề có đẻ ra tôi một phen nào cả. Tôi nay bốn mươi bốn tuổi đầu. Phùng Khánh chỉ mới hai mươi sáu tuổi. Làm sao một thiếu nữ hai mươi sáu tuổi lại có thể đẻ ra được một ông cụ luống tuổi bốn mươi bốn, bốn mươi lăm? Nếu muốn đẻ ra được tôi, thì ít ra Phùng Khánh cũng phải lớn hơn tôi một vài tuổi mới được. Chẳng thể nào kẻ nhỏ tuổi lại đẻ ra một người lớn tuổi. Như vậy là trái đạo trời. Đạo trời không cho phép một con người mang nặng đẻ đau lúc người ấy chưa ra đời. Trường hợp hy hữu cũng có vài kẻ đẻ đau mang nặng ngay từ thuở sơ sinh. Thì mẹ và con có thể bằng tuổi nhau được lắm. Tuyệt nhiên không thể nào xảy ra trường hợp con lớn hơn tuổi mẹ được

Thế thì bởi đâu Phùng Khánh lại là mẫu thân của tôi, mặc dù bà không đẻ ra tôi? Ấy là bởi vì cái đường tơ luận lý học như thế này: Phùng Khánh vốn là bà mẹ Việt Nam. Tôi lại là con dân Việt Nam. Vậy thì tất nhiên Phùng Khánh là mẹ của tôi vậy. Nếu tôi không nhận Phùng Khánh là mẹ, thì chẳng ra tôi là người Lào? Hoặc người Cao Miên? Hoặc con dân Âu Mỹ ư?

Huống nữa là: Phùng Khánh là bà mẹ loài người. Tôi là con người. Vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi. Nếu tôi không phải là con của Phùng Khánh, thì chẳng ra tôi chẳng phải con người? Chẳng ra tôi là con vật?

Phân tích nghiêm mật luận lý học ra như thế, rành rành Phùng Khánh là mẹ của tôi.

Huống nữa là: trong cõi mộng mơ chiêm bao tại bình diện thi nhạc phiêu bồng, Phùng Khánh đích nhiên cũng lại là mẹ của tôi nốt. Tôi vốn là Trung Niên Thy Sỹ. Ai đâu có ngờ rằng những bài thơ bất tử tôi làm ra là do Phùng Khánh cả đấy? Mỗi phen tôi mơ màng nghĩ tới dung nhan diễm lệ Phùng Khánh thì giòng thơ bát ngát lại tuôn ra ào ào. Vậy thì hiển nhiên như nhiên thiên tài của tôi là do liên tồn Phùng Khánh đẻ ra vậy.

Tôi suy ngẫm suốt bao nhiêu năm trời, nhận ra sự tình cố kỳ nhiên đó, mới dám mạo muội mạnh bạo gọi Phùng Khánh bằng một tiếng Mẫu Thân. Há đâu dám bốc đồng mà gọi bướng!

*

Đặng Tấn Tới

Nguồn thơ ông rất đặc biệt. Đọc mấy thi phẩm ông, tôi còn giữ lại một cảm tưởng hiu hắt. Rủi sao, tập thơ ông, tôi bỏ lạc đâu mất, nên không thể dám mạo muội viết nhận định ra đây. Xin một dịp khác.

*

Trí Hải Ni Cô

Ni cô vừa rời bỏ Vạn Hạnh đi tu tiên ở trên núi. Nguyên nhân là: các vị sư ở Vạn Hạnh chế ni cô đã đẻ ra Bùi Giáng già nua, ni cô bẽn lẽn bèn giũ áo ra đi. Sự tình nông nỗi ấy, Thích Minh Châu phải chịu trách nhiệm một phần lớn.

*

Sách Vũ Hiệp

Mỗi bộ sách Vũ Hiệp dài mấy ngàn trang. Đọc vài ba chục bộ, ắt mòn mõi mắt môi miệng. Đó là một hiểm họa lớn. Si mê rượu chè còn khá. Si mê sách Vũ Hiệp thì sự tình là bất khả vãn hồi. Mấy năm nay, tại hạ chẳng còn tâm hồn đâu làm văn nghệ hoặc thong dong thưởng thức những thi phẩm mới của những nhà thơ trẻ trung tài tử, ấy chẳng qua vì linh hồn tại hạ toàn thể bị sách Vũ Hiệp xâm chiếm.

Nhiều kẻ làm văn nghệ chuyên môn tở mở phè phỡn bảo rằng tại hạ có thái độ cô đơn cách biệt đối với hàng ngũ văn nghệ hôm nay. Nghĩ mà bượch cười vỡ bụng!

Cô đơn cách biệt cái khỉ khô xơ mốc gì. Ơn ích gì đâu mà cô độc! Bảnh bao gì đâu mà đứng riêng một mình đối thoại với hư vô! Thà chui đầu vào tà xiêm Marilyn Monroe nằm ngủ mà liên miên thầm gọi Phùng Khánh mẫu thân, có phải là thơ mộng hơn không!

Ôi mẫu thân ôi! Mẫu Thân nỡ nào giũ áo đi tu tiên ở trên ngọn núi quai nhai như thế! Bỏ con ở lại Sàigòn tắt nghẽn trong từng tiếng kêu than!

*

Giải thích

Có kẻ hỏi tôi: - Các hạ đọc sách Vũ Hiệp lu bù như thế, tại sao bàn về sách Vũ Hiệp, các hạ lại bàn lai rai, thua xa ông Đỗ Long Vân?

Đáp rằng: - Ấy chính bởi tại hạ đọc lu bù mà ra nông nỗi ấy. Đọc lu bù thì đâm ra mù quáng. Cũng tỷ như bọn mê gái lu bù quàng xiên. Mê một gái thì sáng suốt nói về hồng nhan, còn mê trăm ngàn gái, thì tất nhiên điên tam đảo tứ, còn đâu bình tĩnh sáng suốt mà nhận định tố chất thiên hương?

Cũng tỷ như bọn mê đàn cầm. Nếu chuyên đánh dương cầm thì chỉ nên đánh dương cầm. Trái lại, một tay đánh dương cầm, một tay lại đèo bồng vĩ cầm, môi miệng lại đa mang ống tiêu, ống sáo, thì làm sao có thể cung thương làu bậc ngũ âm?

Cũng tỷ như bọn mê chuồn chuồn. Mê một con đã đủ. Hà tất phải mê hàng ngàn con! Làm sao theo dõi hàng ngàn cánh chuồn chuồn bay khắp không gian thiên thu vạn đại cho được? Ắt lâm vào tình trạng Tẩu Hỏa Nhập Ma.

(Tản Đà xưa bị Tẩu Hỏa Nhập Ma, ấy cũng tại ông ham uống rượu quá mức. Uống một lu đã đủ. Hà tất phải uống cho đủ bốn lu?)

Cũng tỷ như bọn ham đánh giặc. Đánh chơi một năm đã đủ, hà tất phải đánh tới hai ba mươi năm!

Cũng tỷ như bọn ham có mẫu thân. Có một Phùng Khánh mẫu thân đã đủ bát ngát lắm rồi. Hà tất phải tham lam có luôn cả Brigitte mẫu thân, Marilyn mẫu thân, Kim Cương Thái Thanh mẫu thân, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca mẫu thân.

Cũng tỷ như bọn ham có đồ đệ. Có một thằng đủ rồi. Hà tất phải lọm cọm đa mang như ông Khổng Tử có tới ba ngàn môn đồ như vua nhà Tần có tới ba nghìn cung nữ. Té ra ông Khổng Tử cũng lại là một loại bạo chúa ru.

Lại cũng như ông Nguyễn Du ham có hơn ba trăm năm có kẻ khóc mình. Có một mẫu thân Phùng Khánh cho con bú trong hiện tại đã đủ rồi, và dỗ cho nín bây giờ đã đủ rồi, hà tất phải dỗ con nín khóc ba trăm năm sau.

*

Ponce Pilate

Ponce Pilate muốn cứu Jésus, nhưng không cứu được. Một mặt đám đông la ó tràn lan. Một mặt Jésus không chịu nói. Hoặc có nói, thì nói lờ lững đâu đâu.

“Bọn chúng lên án Ngài tùm lum như thế, Ngài nghĩ sao?”

Ponce Pilate cố khơi ý cho Jésus, để ông có thể dựa vào lời đáp của Jésus mà tìm cách biện hộ. Nhưng Jésus không đáp.

Cuối cùng quẫn bách quá, Ponce Pilate phải sai người lấy roi quất túi bụi cho rách áo quần Jésus, quàng lên đầu Jésus một vòng gai nhọn, dẫn tới trước mặt đám đông bảo: - “Ecce Homo!”

(Đó, là người ấy đó!)

Nghĩa là: người ấy tội lỗi thế nào, chưa rõ, nhưng đã chịu trừng phạt như vậy, thế đã vừa lòng bọn các ngươi chưa?

Người ta có thể hỏi: Nếu quả thật Ponce Pilate có ý ủng hộ Jésus, thì tại sao ông lại bắt chẹt Jésus một cách gay cấn? Lúc Jésus nói “Kẻ nào đi theo chân lý, kẻ đó bước theo ta”, thì Pilate lại chơi khăm hỏi vặn: “Chân lý là gì?”

Ấy mới là chỗ thống thiết. Lời hỏi kia của Pilate biểu hiện nội tâm Pilate lúc bấy giờ. Chân lý là cái gì khó xác định, thị phi là cái gì khó phân biệt, ngài có tội lỗi hay không, tại hạ không thể quyết đoán… Tại hạ lóng cóng. Mà bọn chúng thì cứ la ó nhốn nháo cả lên… Ngài thì im lặng.

Vậy chỉ còn một phương sách dung hòa. Tại hạ xin đắc tội với Ngài vậy. Ngài hãy chịu qua loa một trận đòn, thử xem có giập tắt bớt cơn cuồng nộ của bọn chúng hay không…

“Ecce Homo” từ đó được Nietzsche chọn làm nhan đề một tập sách của mình. Ấy là một cách nêu trở lại ẩn ngữ Phúc Âm.

*

Đốn tre

“Khó nhất là đốn tre, khó nhì là ve gái.” Người thường dân thường khuyên bảo dạy dỗ con cái như thế. Thấy thằng con sỗ sàng ve gái, họ không trực tiếp ngầy ngà. Họ không nói: “Ve gái khó lắm lắm. Con phải chậm rãi từ từ…”

Họ nói quanh: “Khó nhất là đốn tre, khó nhì là ve gái”.

Lời nói ấy về sau sẽ khiến đứa con suy nghĩ. Nó tự nhủ: Bố bảo khó nhất đốn tre? Nhưng mỗi ngày ta có thể đốn được năm mươi gốc tre một cách dễ dàng. Khó nhì là ve gái? Sao suốt mấy tuần lễ nay ta ve con Mận mà nó vẫn dửng dưng chưa có bề nào ngã ngũ?

Từ đó cái câu “khó nhất đốn tre, khó nhì ve gái” đã giúp đứa con thể hội chân lý ngược lại. Ấy là: khó nhất ve gái, khó nhì đốn tre.

Đi vào cõi tư tưởng, chúng ta luôn luôn phải lưu ý tới cái lối ăn nói nghịch lý của người tư tưởng. Họ nói một đường để ta suy ra một ngả.

“Ngựa trắng không phải là ngựa”. Đó là lời Công Tôn Long.

Ông này là nhà tư tưởng Trung Hoa bị đam ngộ nhiều nhất.

*

Viết lại Nam Hoa Kinh

Nếu Trang Tử trùng sinh trong thời đại này ắt ông sẽ viết Nam Hoa Kinh như sau:

1. Nhe răng cười trong bóng tối, ấy là đạo vậy.

2. Không bao giờ bắt chuồn chuồn mà cứ bảo rằng mình luôn luôn bắt chuồn chuồn, ấy là đạo vậy.

3. Ngồi làm quan ở triều Nguyễn mà tự xưng mình là Nam Hải Điếu Đồ, ấy là đạo vậy.

4. Leo lên máy bay đi ra giữa biển Thái Bình Dương thả bom xuống cho bọt sóng tung lên chơi, ấy là đạo vậy.

5. Không thiết chi đọc sách, mà vẫn cặm cụi đọc hoài, ấy là đạo vậy.

6. Đi ngắm phong cành Bà Rịa và bảo rằng đây là phong cảnh Thừa Thiên, ấy là đạo vậy.

7. Suốt năm khắc khoải loay hoay mà tự cho mình thanh thoát phiêu bồng, ấy là đạo vậy.

8. Gọi Phùng Khánh bằng mẫu thân, ấy là đạo vậy.

9. Chiêm bao thấy Nam Phương Hoàng Hậu tỉnh dậy làm thơ tặng Gái Núi, ấy là đạo vậy.

10. Trong lòng khâm phục Khổng Tử mà mở miệng ra là công kích ông ta, ấy là đạo vậy.

11. Sống ngược hẳn giáo lý ông Khổng, mà cứ ca ngợi ông ta mãi, ấy là đạo vậy.

12. Thích Minh Châu không hề tương tư Thúy Kiều, mà cứ bảo bừa rằng ông ấy tương tư Thúy Kiều, ấy là đạo vậy.

13. Chán chường thi ca, mà cứ làm thơ hoài, ấy là đạo vậy.

14. Đêm tối ở trần gian đau đớn vô cùng mà vẫn bảo rằng trần gian lộng lẫy, ấy là đạo vậy.

15. Thấy người da trắng cũng đẹp bằng người da đen, ấy là đạo vậy.

16. Thấy đạo lù lù hiện ra khắp nơi, thì bảo rằng đạo rất mực vô hình vô ảnh, ấy là đạo vậy.

17. Đọc xong một bộ tiểu thuyết Vũ Hiệp, bỏ ăn năm ngày, ấy là đạo vậy.

18 - Bỏ ăn năm ngày, lại bảo rằng bỏ ăn năm ngày rưỡi, ấy là đạo vậy.

19. Không bỏ ăn, mà bảo có bỏ ăn, ấy là đạo vậy.

20. Viết cuốn Tân Thanh, chuốc sầu vạn đại thì bảo rằng mua vui cũng được một vài trống canh, ấy là đạo vậy.

*

Tư Tưởng và Thi Ca

Chân nhân đời xưa đưa ra một “chủ thuyết” nào, đều có như là tình phi đắc dĩ. Chẳng đừng được mà phải nói. Nói ra, mà vẫn có chỗ như là chẳng có muốn nói ra.

Chẳng đừng được mà phải nói tới nhân nghĩa lễ nghĩa, như Khổng Tử. Chẳng đừng được mà phải nói bỏ nhân nghĩa lễ nghĩa đi, như Lão Tử. Chẳng đừng được mà viết tề vật luận, như Trang Tử.

Trang Tử thường dùng phép “chi ngôn”, ấy là bởi ông đứng ngay giữa cơn lốc của sự tình bất đắc dĩ: muốn gát bỏ chuyện thị phi, mà vẫn cứ bị bó buộc phải nêu mãi chuyện thị phi.

Ta thường đem tư tưởng Khổng Lão Trang ra đối kháng nhau (kẻ chủ trương vô vi, kẻ hữu vi, kẻ xuất thế, kẻ nhập thế …) nhưng nếu xét tới cái lẽ “sở dĩ nhiên” của những chủ trương “trái ngược” kia, ắt mọi lời phân biệt phải dừng lại. Mọi lời biện bác bỗng có tính cách phù phiếm.

Và dường như không còn ai còn có thể đưa ra được một “tổng hợp” dưới hình thức một học thuyết.

Sau ba cái khối Khổng Lão Trang, tư tưởng Trung Hoa đã đi vào phiêu nhiên trong cung bậc Đường Thi. Rồi nó kết tinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Truyện Kiều là chỗ dung hợp của Khổng Lão Trang Phật.

Người tư tưởng không còn dám viết gì về tư tưởng nữa. Trang Tử tái sinh sẽ nghĩ sao về cuốn Nam Hoa Kinh của ông? Ông sẽ viết một bộ Tân Nam Hoa Kinh, hay là ông hồn nhiên ngâm câu thơ Hồ Dzếnh?

Thơ về nắng sớm lừng lay

Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra

Hoặc câu thơ Xuân Diệu?

Trưa hôm nay con ngồi như trẻ nhỏ

Giữa đáy trưa trong lòng mẹ vô cùng

Con là sáo mẹ là ngàn vạn gió

Mẹ là trời con là hạt sương rung

Sương uống mãi chẳng bao giờ hết sáng

Của trời cao chói lọi mỗi chiều ngày

Sáo ca mãi, lòng tre run choáng váng

Gió vẫn đầy ngàn nội bốn phương bay

Thơ như thế là cái chốn của “tâm vô thố hồ thị phi, hưu hồ thiên quân”.

*

Hồ Dzếnh

Thơ về nắng sớm lừng bay

Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra

*

Trần Xuân Kiêm

Ôi má người từ nay thôi hồng!

Thật là khủng khiếp! Ông Trần Xuân Kiêm còn trẻ hết sức mà đã khám phá ra cái chân lý khổng lồ như thế!

Ôi má người từ nay thôi hồng!

Trong chiêm bao thấy má người hồng. Môi người càng hồng hơn nữa. Tỉnh ra thấy…? Thấy gì? Có lẽ tỉnh ra thấy như cái điều ông Trang Tử đã thấy.

Thuở xa người

Một sớm người đi theo mây bay

Ta say nằm lạnh buốt đêm dài

Tỉnh ra thấy cụm hoa đầu ngõ

Ta vẫn còn, hay nỗi tàn phai?

Nửa đêm tỉnh dậy thấy sao rơi

Ta nghĩ người đang ở cuối trời

Ơi những đám mây còn lãng tử

Xin để hồn chùng trong đêm khơi

Ôi má người từ nay thôi hồng

Gió cũng trầm thương tóc thôi hong

Mai sau thoảng nhớ mây vườn cũ

Ta yêu người bằng mối tình không

(1-11-69)

Nguồn: Bùi Giáng, Thi ca tư tưởng (Sổ đoạn trường - Tức Đi vào cõi thơ cuốn II), Ca Dao xuất bản lần thứ nhất 12/69, Sài Gòn - Việt Nam. Bản điện tử do talawas thực hiện.

______________________

Vì bữa đó

Cảm đề Tess of the d’ Urbervilles

Vì bữa đó cửa buồng em khép kín

Nên bốn bề tiếng động đã xâm lăng

Và tràn ngập vào sâu trong cung điện

đáy linh hồn em rạn vỡ bao phen

Vì bữa đó nhìn nhau hai con mắt

Giữa bốn bề bóng tối lạnh tro phai

Nên em muốn bàn tay ta xiết chặt

Ngón vô ngần đau khổ ở trong tay

Và vuốt ngực nghe chừng như lá phổi

đã điêu tàn trong lệ đẫm liên miên

Dòng ngơ ngác tự bao giờ đã lỗi

Trong chờ mong tiếng vọng ở xa miền

Còn lại đó chút gì em có biết

Có hiểu rồi và đã có nghe ta

Nói lơ láo một lời khi úp mặt

Ngón vô ngần đau khổ lúc buông ra.

Giòng sông

Chiều bên lá lung lay vàng cửa khép

Bóng trời sa trùm phủ tiếng em cười

Vườn cỏ lạnh hoa buồn không nói xiết

Bước chân dừng nghe rã lệ hai nơi

Lời hẹn ước em nghiêng đầu tóc xõa

để than van sầu thiên cổ theo nhau

Hồn tuổi trẻ bay trở về giữa dạ

Nhờ dung nhan em bất tuyệt xuân đầu

Trời thuở đó ngần nào em khổ sở

Khóc khi nhìn gió thổi nước sương buông

Tìm xa vắng bên kia bờ đổ vỡ

Giòng sông em đâu có biết ngọn nguồn.

______________________

Anh lùa bò vào đồi sim trái chín

Anh luà bò vào đồi sim trái chín

Cho bò ăn cỏ giữa rừng sim

Anh nhìn lên trời xanh đỏ chín

Anh ngó bốn bề cây lá gió rung rinh

Anh nằm xuống để nhìn lên cho thỏa

Anh thấy lòng mở rộng đón trời xanh

Chim ngây ngất vào trong đôi mắt lả

Anh lim dim cho chết lịm hồn mình

Anh quên mất bò đương gặm cỏ

Anh chỉ nghe tiếng cọ rì rào

Có hay không? bò đương gặm đó?

Hay là đây tiếng gió thì thào?

Hay là đây tiếng suối lao xao

Giữa giòng cỏ xuôi ghềnh chảy xuống?

Mùi thoang thoảng lách lau sương đượm

Mùi gây gây gấy gấy của hương rừng

Mùi lên men phủ ngập mông lung

Không biết nữa mà cần chi biết nữa

Cây lá bốn bên song song từng lứa

Sánh đôi nhau như ứa lệ ngàn ngàn

Hạnh phúc trời với đất mang mang

Với bò giữa rừng hoang đương gặm cỏ

Với người ngó ngất ngây đương nằm đó

Không biết trời đất có ngó mình không

Vĩnh Trinh - Thạch Bàn 1950

______________________

Vỗ về

Ta đứng lại bên này chờ đợi

ồ phải không? Em đó phải không

Ta đếm lại từng ngón tay lẩy bẩy

đời chúng ta là mấy trăng tròn

Ngày vui ngắn? Lòng đã vơi mấy bận

Ngày vui đi? mấy bận giữa lòng ta

đổ lây lất mưa về xuân lấm tấm

ồ thiều quang tan biến vội sao mà

Em có khóc? ta xin em đừng khóc

Em nhìn ta? lệ chảy có vui gì

Trang phượng mở giữa nguồn em hãy đọc

Nước xuôi giòng ngàn thu hận tan đi.

______________________

Chiều

Em ngó buổi chiều buồn có phải,

Buồn cũng như buồn những buổi chiều xưa.

Tròng con mắt đã mỏi mòn có phải,

Sắc của trời hương của đất lưa thưa.

Những nhịp bước bên đường còn dội mãi,

Vang về đâu không vọng lại hồi âm.

Của réo rắt riêng một lần mãi mãi,

Gió phương trời ù mộng giữa hoa tâm.

Em hỏi mãi tuy biết lời đáp lại

Chẳng bao giờ thoả đáng giữa đời câm,

Em ngó mãi những chiều về trở lại

Mang những gì về trong cõi trăm năm.

Những Nhành Mai

Những nhành mai sớm sương bên lá

Những nhành liễu chiều gió bên cây

Cũng lay lắt bởi đời xuân em ạ

Thế nên chi anh cũng viết giòng này.

Hồng vàng tụ bữa kia em có thấy

Nước xuôi giòng là cổ độ nhìn theo

Tuổi mười sáu bây giờ lên gấp gảy

Mộng miên man là mây phủ lưng đèo

Buồn phố thị cũng xa bay như gió

Cộ xe nhiều cũng nhảy bổng như hươu

Bờ cõi dựng xuân xanh em còn đó

Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu

Tìm theo dấu chân người xưa tư lự

ở bên đường ngóng dõi khánh vân bay

Mờ con mắt một lần lên tiếng thử

Em ồ em, anh nói một lời này.

Tóc bạc thưa rằng

Một bữa trăng sao

Xuống rừng rú dại

Một bữa trời trăng

Buồn không thể nói

Cầm gương lên hỏI

Tóc bạc thưa rằng

Trời đất cách ngăn

đừng mê con gái

Bực quá liền quăng

Tấm gương xuống đất

Vẫn nghe mãi rằng

- đó là sự thật!

______________________

Nguyễn Huệ

Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa...

Người đi vòng chuyến đó

Núi rừng cây lá vang

ánh trời trưa rực đỏ

Ráng chiều thắm pha vàng

Mười vạn quân theo gót

Tha thiết một niềm tin

Mây trời cao chót vót

Giòng nước suối động mình

Bàn chân người đặt xuống

Bàn chân người bước lên

Miệng cười trong ý chuộng

Lời sông núi van xin

Người qua sông Giản Thủy

Người tới huyện Phú Xuyên

Hà Hồi chiêng trống giậy

Ngọc Hồi rợp bóng tinh

Người trở về từ đó

Với nàng công chúa kia

đầu mùa trăng rạng tỏ

Hoa bướm vội tan lìa

đời sau thương tiếc mãi

Tự hỏi vì cớ chi?

Gian thần nào ám hại

Hoặc có thể chỉ vì

Ngày băng rừng heo hút

Muỗi rừng cắn thịt da

Sốt rét rừng thiêu đốt

Nên người vội băng hà?

Người không thể nấn ná

ở thêm một thời gian?

Sáu quân nhìn chưa thỏa dạ

Sông núi phụ muôn vàn

Thôi xin người đừng nức nở

Nếu sau này đường dang dở

Những ai về

Ôm mãi mộng người đi

(Mưa Nguồn)

Giã từ Đà lạt

Nói nữa sao em, với lời lỡ dỡ

đường lây lất chiều bay sương lổ đổ

đứng bên trời em ở lại hôm qua

Ngàn thông ơi ở đó đón bóng tà

Và giữ lại chuyện đời ta đi mất

Bước khúc khuỷu truông ngàn khe khóc lóc

Dặm mơ màng tăm tắp mấy mù khơi

Lùi bay đi để ở lại bên người

Tơ vấn vít gió muà mời mọc én

Tay lẩy bẩy níu gì xuân bay biến

Ô thiều quang! làn nước cũ trôi mau

Em đi lên vói bắt mấy hương màu

Miền đất Thượng có mấy bờ hoa mọc

Xa biệt lắm mưa nguồn trên mái tóc

đà mấy lần thổi lạc lệ lưa thưa

Buổi sớm hôm buồn tinh tú ai ngừa

Bàn chân bước với tay buông kể lể

Trời với đất để lòng em lạnh thế

Hoa hương ơi còn diễm lệ bao giờ

Những ân tình đầu liễu rũ lơ thơ

Còn hay mất trong trăng mờ khuya khoắt

Người xuống núi mang về đâu có chắc

Những dịp về còn nữa ở mai sau?

Dặm hồng vàng ai đứng lại nhìn nhau.

______________________

Cỏ hoa hồn du mục

Nghe trời đổ lộn nguyên khê

Tiếng vàng rụng rớt gieo về động xanh

Gót chân khơi rộng bóng cành

Nhịp vang đầu núi vọng thành lũy siêu

Thời gian chắn bước bên chiều

Khóc sông bến lạ mưa chiều sớm xuân

Cỏ hoa từ bỏ ruộng đồng

Hồn du mục cũ xa gần hử em.

______________________

Sầu riêng châu chấu

Sầu riêng châu chấu năm xưa

Em về với ruộng cày bừa đã xong

Em về rắc cỏ vào trong

Vui về với hội trổ đồng đồng xanh

Sầu riêng gác bỏ sau ghềnh

Năm xưa châu chấu mang tên chuồn chuồn.

______________________

Logos

Rêu trời phủ xuống hiên xanh

Một bờ chim én vây thành sang thu

Sương Hy Lạp phượng lên mù

Ba mươi thế kỷ cầm dù dưới mưa

đầu sông nước gọi cây mùa

Gốc du sung đẩy sóng đùa phăng trôi

Cành nguyên thủy mọc xa trời

Chùm xuân xanh thổi lại đời lang thang

Bừng trong môi dựng đoạn trường

Tấm nương tử lạc loài nương náu người

Một hoàng hôn đợi hai môi

Một bình minh đón hai đời biệt ly

Một đêm bếp núc lạ kỳ

Nghe trong thớ củi mộng gì đi hoang

Hai tay chấp nối điêu tàn

Trong mình mẩy phó thác vàng son cho

Lời con kỳ chú sang đò

Mai sau về giữa cánh so phiêu bồng

Chín phương trời tuyết ra bông

Trong nguồn thủy thảo đất hồng khai nguyên

đầu sơ mộng cuối phi tuyền

Ngàn năm mai trúc chim chuyền bữa naỵ

(Lá hoa cồn)

______________________

Bữa nay ruộng nhớ

Bữa nay ruộng nhớ lưng trời

Thông ngàn lũng tạ núi ngồi chiêm bao

Ra đi mang hận hội nào

Cổng xô còn vọng điệu chào bay ngang.

______________________

Không đủ gọi

Mây đứng lại chân trời phủ khói

Giòng sông đi đò bến đợi ngu ngơ

Chiều trời đẹp tâm tình em không nói

đất với trời chung một nghĩa bơ vơ.

Chiều thổi đẹp gió về em không nói

Anh không chờ không biết đợi từ bao

Từ xuống mưa không biết tự phương nào

Giòng sông chảy ai người xin níu lại.

Mưa có tạnh nhưng chân trời còn mãi

Những giọt sương là lệ ở trong mây

Giòng sông đi cho nước nói ngàn ngày

Rằng bể rộng không bến bờ em ạ.

Anh đợi xuống đêm về đầu phủ tỏa

Mịt mờ xanh bù xõa ánh tơ giăng

Cười môi em duyên dáng như chị Hằng

Và lấp lánh mắt là sương trong lệ.

Anh sẽ hỏi gió đêm về mở hé

Mở muộn màng là một chút mơ hoa,

Mở ngàn sau hoài vọng chút phai nhoà,

Và mất hút ở cuối trời nín lặng.

Rồi từ đó về sau mang trái đắng.

Bàng hoàng đi theo gió thổi thu bay,

Anh chờ em không biết tự bao ngày

để thấy mãi rằng thơ không đủ gọi.

Sầu một thuở đất mòn không tiếng nói

Một ngàn năm trăng giải tuyết băng buông

Anh gửi đi ngàn sóng cuộn thác nguồn

để thấy mãi rằng thơ không đủ gọi.

Mùa xuân lại với chim về đã mỏi

Với cá về mây nước cũng lang thang

Anh nằm im nhắm con mắt mơ màng

Mở con mắt cũng mơ màng cỏ lá.

Hờn phố thị để lạc hồn cõi lạ

Sầu phố xanh từ bữa nọ em đi

Tuyết trời Tây có nguôi lãng những gì

Màu trời đó

Màu trời đó bữa nay về trở lại

Một mùa xưa người nhớ chứ năm kia?

Ngày chạm mắt dưới mùa xuân man dại

Dịp trùng lai em hẹn với tan lìa.

đường có cỏ có bờ lau rộng có

Lá cây bay và em có đi qua

Bàn chân bước lệ buồn em có nhỏ

Xuống điêu tàn em khóc mộng tiêu ma

Nguồn thao thức ta về từ một buổi

Trời bay mây bốn hướng gió xa mong

Từng cánh én mang trùng dương về nội

đâu rồi em? sóng đục đã theo giòng

Em cho phép ta ngồi đây hỏi lại

Và gọi về trăng mùa cũ lang thang

Màu trời đó để ngàn sương hớt hải

Xuống li ti là dựng vội con đường.

(Mưa Nguồn)

______________________

Mùa phượng cũ

Thiệt thòi đời mộng phiêu linh

Cành sương ngọc thụ tồn sinh cát lầm

Giấc quày quả lạnh anh trâm

Bóng đu sung rớt bến trầm luân sâu

Hoài mong hiu hắt nhịp cầu

Mà hương quan vắng xa màu mây trôi.

Sim ngàn sổ lá buông rơi

Cành Nam ước nguyện sai lời tử sinh

Gió sương từ tạ biên đình

Bóng sa hồ khép chặt tình mông lung

Rêu tần ngần tuyết in phong

Sóng phơi trường mộng từ trong giậy nguồn

Rập rờn đầu liễu xanh buông

Mùa trăng nước đẩy xô buồn đi xa

Trang hồng kim rải ra hoa

Trổ bông mùa phượng cũ đà hồ phai

Tơi bời ngọc trắng măng mai

Khuynh thành sắc nọ đưa vai nghiêng về.

(Mưa Nguồn)

______________________

Kể chuyện

Kể lại chuyện rằng năm đã cũ

đã bao giờ một bận muôn năm

Em nhớ chuyện rằng xưa lỡ dở

Diều đứt dây trẻ cũng cầm bằng.

Kể lại chuyện rằng dù sao nữa

Nguồn xưa sóng lạc nước tiêu dao

Mắt khép mi sầu không lệ nữa

Nhìn nhau bận đó cúi xin chào.

Bốn vó lên đèo truông ải vang

Trùng quan một bận gió lên ngàn

Tiền trình cỏ lạ xông ngây ngất

Con mắt khô rồi ngó ngửa ngang.

______________________

Ly tao (1)

Giờ ngẫu nhĩ như hồng bay em ạ

Và yêu thương như lá ở bên hoa

Và luyến ái như tơ vàng bốn ngả

Bủa vi vu như thoáng mộng la đà

Em đã lại với đời về nắng ấm

Thắm không gian thương nhớ bóng hình em

Anh đã đợi chờ em từ lâu lắm

Ngày đi không để lại lạnh trăng rằm

Anh mơ ước với ngàn xuân mở rộng

Quên não nùng sa mạc của yêu thương

Chân cứ bước theo nhịp hồn cử động

Em là em anh đợi khắp nẻo đường

Em có nụ cười buồn buồn môi mọng

Em có làn mi khép lá cây rung

Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng

Hồ gương ơi! sao sóng lục vô chừng!

Con mắt ấy có gieo buồn rớt lệ

Trê n nẻo đường lạnh lẽo lối lang thang

Môi thắm ấy mấy lần thao thức kể

Với đèn khuya vò võ mộng khôn hàn

Trời đất nhớ lần đầu... năm trước...

đó một lần đôi mắt đã nhìn lên

Và trời hiểu ngày sau đôi mắt ngước

Một lần kia sẽ còn dịp đáp đền

Em ở lại với đời ta em nhé

Em đừng đi. Cho ta nắm tay em

Ta muốn nói bằng thơ bay nhẹ nhẹ

Vào trong mơ em mộng giấc êm đềm

Ta sẽ đặt mười ngón tay lên mắt

để nhìn em qua khe hở du dương

Vòng theo máu hai vòng tay khép chặt

ồ thưa em ta thấy mộng không thường

______________________

Ly tao (2)

Bàn chân bước nghe một lần sóng dậy

Sắc khuynh thành một thuở động binh đao

Người lên ngựa ngoảnh đầu về có thấy

Bờ xa bay tuyết bạch phủ sương đào.

Vì mong đợi ngày về xuân hối hả

ở bên mành thỏ lặn bóng ngàn dâu

Sầu lục thúy sầu thu sen thủy tạ

Mộng hoa đầu trong nước ngập theo nhau

Vì con mắt một lần kia đã ngó

Giữa nhân gian bủa dựng một màu trời

đài vũ trụ hồn chiêm bao rạng tỏ

Một nụ cười thế giới sẽ chia đôi

Giòng nước bạc giòng sông trôi theo dõi

Cuối chân trời hình bóng một chân mây

đời xiêu đổ nguồn xưa anh trở lại

Giữa hư vô em giữ nhé chừng này.

______________________

Ly tao (3)

Em đi về như mây núi đầu xuân

Gió bay qua nước chảy suối vô cùng

Mừng như thể hôm qua về đồng nội

Buồn bã cũ đã bẽ bàng bước vội

để bây giờ còn một mối riêng tây

Lời nhân gian không tiếng để phơi bày

Thu trăng mộng như trang mờ cổ lục

Mưa vội vã như bình minh thúc giục

Vào nhớ nhung như vào giữa hội hoa

Lá xanh xao như cành nhánh gật gù

Và thánh thót đến cây già cổ thụ

Anh lại thấy một trời xưa đã cũ

đã đi về cùng với gót chân em

đã đi qua cùng với cánh tay mềm

Anh mở miệng không nói lời nào cả

Vì bất chợt thấy môi cười em ạ

Vì vui mừng xa lạ bỗng quen nhau

Vì vu vơ vui sướng ngó pha màu

Cây im cỏ nước cợt cồn đùa cát

Và vạn vật rủ rê nhau bát ngát

Dàn mênh mông vây bủa gió xa bay

Anh đến bên em ghé sát mi mày.

______________________

Kính thưa

Kính thưa công chúa Kim Cương,

Trẫm từ vô tận ven đường ngồi đây.

Tờ thư rất mực móng dày,

Làm sao định nghĩa đêm ngày yêu nhau?

Lạc loài đã rớt đi đâu,

Chiếc chìa khoá mộng rực màu so le.

ấy lời của tuyết của băng,

ấy lời của mộng hàng hàng vu vơ.

______________________

Xuân trang thu phượng

Trời cao nguyên lụt tràn đê

Nguồn trôi nước lũ xuống đè cát xanh

B.G

Muà Xuân hẹn Thu về em trở lại

Ta nhìn nhau trong bóng nước mơ màng

Nước chảy mãi bởi vì xuân trở lại

Với giòng trong em hạn ở bên đường.

Em sẽ khóc khi nhìn trong khóe mắt

Thấy một mình người đi lại lang thang

Còn ghi giữ ân tình trong cỏ nhặt

Múa vi vu vì hẹn với truông ngàn.

Ta sẽ đợi nghe đời em kể lại

Thuở xưa kia... bờ nước ấy xưa kia

Ta sẽ đợi nghe đời em nói mãi

Bên đời ai vẫn đợi đã chia lià.

Mùa xuân hẹn thu về em trở lại

Bên đời đi còn giữ mãi hay không

Giòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại

Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non hồng.

______________________

Ruộng đồng mọc lúa

Ruộng đồng mọc lúa quanh năm

Em về đại lộc tôi nằm Bình dương

Kể ra hai nẻo lộn đường

Sầu riêng châu chấu một nường năm xưa

Ruộng đồng Không Mọc

Ruộng đồng không mọc lúa mùa

Từ hôm cánh trắng cò lưa tiếng buồn

đêm nào nhỏ giọt khe mương

đêm này rớt hột mù sương bây giờ.

Bữa Nay Ruộng Nhớ

Bữa nay ruộng nhớ lưng trời

Thông ngàn lũng tạ núi ngồi chiêm bao

Ra đi mang hận hội nào

Cổng xô còn vọng điệu chào bay ngang.

______________________

Không đủ gọi

Mây đứng lại chân trời phủ khói

Giòng sông đi đò bến đợi ngu ngơ

Chiều trời đẹp tâm tình em không nói

đất với trời chung một nghĩa bơ vơ.

Chiều thổi đẹp gió về em không nói

Anh không chờ không biết đợi từ bao

Từ xuống mưa không biết tự phương nào

Giòng sông chảy ai người xin níu lại.

Mưa có tạnh nhưng chân trời còn mãi

Những giọt sương là lệ ở trong mây

Giòng sông đi cho nước nói ngàn ngày

Rằng bể rộng không bến bờ em ạ.

Anh đợi xuống đêm về đầu phủ tỏa

Mịt mờ xanh bù xõa ánh tơ giăng

Cười môi em duyên dáng như chị Hằng

Và lấp lánh mắt là sương trong lệ.

Anh sẽ hỏi gió đêm về mở hé

Mở muộn màng là một chút mơ hoa,

Mở ngàn sau hoài vọng chút phai nhoà,

Và mất hút ở cuối trời nín lặng.

Rồi từ đó về sau mang trái đắng.

Bàng hoàng đi theo gió thổi thu bay,

Anh chờ em không biết tự bao ngày

để thấy mãi rằng thơ không đủ gọi.

Sầu một thuở đất mòn không tiếng nói

Một ngàn năm trăng giải tuyết băng buông

Anh gửi đi ngàn sóng cuộn thác nguồn

để thấy mãi rằng thơ không đủ gọi.

Mùa xuân lại với chim về đã mỏi

Với cá về mây nước cũng lang thang

Anh nằm im nhắm con mắt mơ màng

Mở con mắt cũng mơ màng cỏ lá.

Hờn phố thị để lạc hồn cõi lạ

Sầu phố xanh từ bữa nọ em đi

Tuyết trời Tây có nguôi lãng những gì.

______________________


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx