sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 62: Mại Dô!! Đây Là Địa Đạo Củ Chi Ba Tầng Đào Bằng Răng Dũng Sĩ

Bản tin quân báo:

Tôi buông tờ giấy xuống áp tay đè trên ngực rồi ngủ thiếp đi từ lúc nào không hay. Đến chừng trở mình thì nghe có người nằm bên cạnh ấm ấm. Tôi đưa tay sờ đầu thì nghe mái tóc 1 chuyển tỏa mùi thơm.

- Anh Hai ngủ hả? Em thấy anh làm việc mệt nên đem cà phê lên cho anh.

Đàn bà, đàn ông, nhưng cũng chính đàn bà là thuốc tiên trị bá chứng, ngay cả chứng tương tư thất tình. Tôi đang buồn vì mất thằng Chi, vì nỗi niềm của thằng anh đối với đứa em ở bên kia, thì Lan đến. Lâu nay nàng làm đủ mọi công tác H6. Phụ bếp, y tá, đi lấy tin... Nàng có dáng dấp của một gái ở chợ nên ra vào thành không khó lắm. Và nàng cũng xếp vào bảng danh sách của các cô muốn xin anh Hai tí con. Trong lúc nửa tỉnh nửa mê, anh Hai quên từ chối. Có ai từ chối được một lời trao tặng mà không thốt ra như vầy? Cái đất Bến Mương này quả thật là đa tình với con nhà pháo.

Chúng tôi thức dậy sớm để tránh những cặp mắt chớ không phải tránh những ý nghĩ. Vì lâu nay nhân viên trong cơ quan đã nghĩ "Sao tới nay vẫn chưa xảy ra?" Thì nay đã xảy ra. Có lạ gì! Tôi uống được nửa tách cà phê nguội, đi duyệt lại lần cuối cùng thành tích của thằng Chi thì thằng Đỏ nhào xuống phi báo: Du kích ngoài Ngã Ba Cây Điệp cho hay xe tăng Mỹ càn. Quả y như ông Ba Xu nhận định, nhưng tôi vẫn tỉnh bơ:

- Càn thì càn chớ làm sao nó qua suối Bà Cả Bảy được?

Nói vậy nhưng vẫn uống lẹ lẹ rồi bước lên miệng hầm hỏi thằng Đỏ:

- Có Sáu Đức ở ngoài đó không?

- Dạ có.

Bỗng trên đầu oang oang tiếng loa:

- Nghe đây Allô!

Tôi ngước mặt lên. Con đầm già bụng trắng toát liệng một vòng rồng từ Hố Bò xuống chợ An Nhơn rồi vòng qua Bến Lách trở lên Đồng Chà Dơ. Nó vừa loa vừa rải truyền đơn. Mới sáng mà nó đã làm cái kiểu này thì chắc có chụp to. Thằng Đỏ lượm được tờ giấy đưa cho tôi. Tôi vừa đưa lên mắt định đọc thì tiếng loa oang oang, rúng động cả gốc cây ngọn cỏ. Tiếng loa này tôi cũng đã từng nghe trên Trường Sơn nay lại bị nó xói màng tai ở đây, nghe rõ từng câu một

Tiếng loa dứt một chút thì tiếng đàn tranh nổi lên nghe mọc gai ốc cùng mình. Tiếng theo là một giọng ngâm nữ:

Chính tôi đã đọc hai câu này trên một mẫu giấy con gắn trên thân cây ven đường mòn Trường Sơn bên cạnh một mô đất có hai bàn chân thòi ra. Bây giờ nó đuổi theo tôi tới đây như một ám ảnh kinh hoàng. Tiếng loa như những loạt đạn bắn chụp xuống đầu. Giữa vùng bom đạn bời bời cỏ cây cháy rụi, đất đai còn nóng bỏng, nghe hai tiếng Tử Thần thật vô cùng khủng khiếp. Cả cơ quan từ nhân viên văn phòng, anh chị nuôi, y tế đều ngóng cổ nghe. Tôi quát:

- Đi làm nhiệm vụ! Nghe gì, ba cái thứ nhảm đó.

Nhưng chính tôi cũng lắng nghe xem có quân ta ngồi chong ngóc trên đó kêu gọi các đồng chí ở dưới này không?

Ở Trường Sơn tôi đã từng nghe. Tiếng loa vừa dứt thì bỗng rầm rầm rầm. Đất run như sàn gạo. Một tiếng người la lên thất thanh.

- B52! B52!

Lụp bụp lụp bụp như phá o chuột nổ nguyên dây. Tôi quát:

- Ở đâu ngồi đó. Không ai ra ngoài hầm.

Lại rầm rầm rầm. Tôi lại quát. Nhưng không còn tiếng nhộn nhạo nữa. Không ai cần chỉ huy lúc này. Tôi hét to:.

- Nó bỏ ở đâu vậy Đỏ? (Tôi hỏi vậy thôi chớ cũng dư biết.)

- Hố Bò!

Tôi thầm nghĩ. Q16 lãnh đủ rồi. Tụi lính vịt xiêm nhan nhãn tối ngày, nó không liệng cho vài trăm dưa cũng uổng.

Rầm rầm rầm! Kỳ này nghe gần quá. Ly tách trên bàn nhảy khua nghe leng keng. Tôi không còn nghe tiếng la, tiếng chân chạy nữa. Tất cả đều như chết hết. Nó chơi đúng bài bản cổ điển ba loạt, mỗi loạt cách nhau hai phút. Vậy là dứt. Tôi quát:

- Lên lo công chuyện đi! Nó đánh Hố Bò..

Tôi cố trầm tỉnh. Tôi là thằng đánh giặc khá nhiều. Mười lăm tuổi đã lén vác mìn đi đánh xe tăng. Nhưng với B52 và pháo Mỹ, thằng nhỏ không dám cà rởn. Tôi móc giấy thảo công văn xin ông Năm Lê xin người thay thế thằng Chi. Cầm bút mới biết tay mình run. Đâu phải cánh tay mà tim run đó chớ! Tôi gọi Ba Tố nhưng Ba Tố đi kiểm tra tình hình. Thời may Sáu Đức trung đội phó trinh sát đến. Tôi nói:

- Hôm nay là ngày mở cửa mã cho thằng Chi, cậu lo dùm tôi việc ấy.

- Dạ... nhưng mà tình hình động quá thầy à. Làm sao đi ra ngã Ba Sòng cho được. Muốn mở cửa mã cho nó thì phải mua một cây mía lau, một cặp gà giò. Bây giờ biết tìm đâu ra mía và gà. À mà còn nhang đèn vàng bạc nữa. Nếu làm thì phải làm cho đủ lễ.

Tôi không biết Đức đúng hay tôi đúng. Nhưng trong lúc dưa rơi lụp bụp ở Hố Bò thì ở đây ai còn dám đi lêu bêu trên mặt đất. Sáu Đức tiếp:

- Nó chết mà được vậy là ấm cúng lắm rồi. Tháng trước anh Ba Đông đại đội trường chết ở ngoài quốc lộ I đâu có lấy được xác Chỉ tội nghiệp cho con Chanh thôi. Phải thằng Chi bị cụt giò như chồng Tám Mang, lên R an dưỡng cũng tốt.

Bỗng thằng Bọ Ngựa chạy về, mồm thở ra khói, nói cà lăm:

- Cậu cậu Hai! Mỹ vô Cây Điệp.

- Tới nhà Bảy Mô chưa?

- Dạ hổng biết? Du kích bắn báo động ba phát liền nhau chớ không phải ba phát rời, đó là có bộ binh và xe tăng.

Tám Lù ấp đội trưởng ở đâu lại nhào tới:

- Anh Hai! Mỹ vô tới Cây Điệp rồi. Đông lắm.

Rồi Ba Tố chạy về hớt hãi:

- Mỹ vô Xóm Trại, thầy à! Tôi đang ở đằng nhà Ba Xây điều đình mua mấy cái nắp hầm, bỗng thấy tụi Tiểu đoàn 7 chạy túa ra.

Bốp! Bốp!... Hai tiếng súng CKC nổ thật gần. Tôi quát cậu quản lý và cô Thu, chị nuôi.

- Mau giấu nồi niêu để nó tới phá tiêu hết, trở về không có đồ nấu cơm.

Bà con trong xóm chạy ra rần rần ngoài đường. Tôi nghe một người nói rõ:

- Mỹ đổ ở Sở Đất Thịt kéo vô tới xe nước mía rồi.

Tôi vọt ra đường, đụng Tám Đột công an xã.

- Mỹ có vô thật không anh Tám?

- Tôi không thấy nhưng nghe Ba Xây nói tụi nó đi êm rơ, súng cầm tay, không bắn phát nào..

Tiếng trực thăng xành xạch trên đầu. Hai chiếc bay sát ngọn cây đảo vòng từ Ngã Ba Cây Điệp ra Bến Mương. Tụi này dắt và yểm trợ cho bộ binh. Thói thường hễ chúng đi đến đâu thì bộ binh theo đến đó. Tám Đột nép vào bụi chuối bên đường. Chờ trực thăng qua, y vọt luôn không cho tôi bám. Đó, nói nắm thắt lưng Mỹ, Mỹ tới, nắm đi ông Đại tướng bần cố.

Tôi trở vào hầm. Thằng Mười, thằng Đỏ liên lạc và cận vệ của tôi đã cởi quần dài và áo túm vào bọc ni lông, mặt mày xanh lét, nói không ra tiếng. Thằng Đỏ lôi tay tôi.

- Anh Hai! chạy đi! Em biết miệng... địa.

Tôi đang loay hoay thì bỗng có tiếng kêu lãnh lót:

- Anh Hai!

Tôi quay lại: thì ra cô xẩm lai ở chợ An Nhơn, một người em gái rất cảm tình ông thầy pháo. Hơn nữa cũng muốn có một đứa con với anh Hai! Khổ cho cái ông thầy pháo. Giờ này lại còn bị cô em gái níu kéo.

Cô bé đưa cho tôi một bọc nilông và xâu chìa khóa để mở cửa tiệm. Cô nàng vỗ vỗ cái bọc:

- Tiền ở trong này, có cần gì anh ra mở cửa tiệm cứ việc lấy đồ xài. Anh với em chắc hết gặp nhau rồi.

Nàng ôm hôn tôi mà òa lên. Cái cảnh chia ly còn hơn cả Đường Minh Hoàng biệt Chiêu Quân. Sông Sài gòn trở thành sông Hồ Hớn chăng?

Tôi nghe tê tái cả tâm thần nhưng lấy hết can đảm đẩy nàng ra:

- Em về đi để Mỹ tới!

Cô bé chạy vụt đi, vấp ngã đứng dậy chạy rồi biến mất. Tôi vừa nhét gói bạc và chìa khóa vào sắc cốt thì thằng Đỏ hồng hộc chạy tới:

- Em đã tọng hết bàn máy đánh chữ và tài liệu xuống hầm rồi. Đi anh Hai!

Cậu quản lý và cô Thu cũng giục tôi:

- Chạy mau anh Hai!

- Người ta nói nó ra tới quận đội rồi đó!

Tôi đã nghe tiếng cây gãy rôm tốp ở trước nhà má Hai. Một tràng tiểu liên làm cho không khí càng nóng bức. Thằng Đỏ bảo:

- Anh quản và chị Thu dắt anh Hai chạy qua hầm gạo đi. Ở đấy có miệng ngách ăn vô địa đạo.

Cô Thu còn cố quơ mấy chiếc chiếu ném xuống hầm, để lát nữa trở về không có đồ ngủ. Tôi thực sự hoang mang và mất hết trầm tỉnh khi nghe tiếng Mỹ xù xì. Không biết cô xẩm của tôi đã về tới nhà chưa? Cậu quản lý run như thằn lằn đứt đuôi:

- Nó tới rồi! Chạy, anh Hai! Theo tôi!

Ông chỉ huy trướng H6 bây giờ bị cậu quản lý chỉ huy. Hắn bảo gì tôi nghe nấy. Đến nước này rồi chạy đi đâu được? Trực thăng bắn trước mặt sau lưng. Bộ binh rờ đụng. Tôi có bao giờ nghĩ rằng mình phải chui hang. Hễ bị chụp thì chạy, không chạy thì đánh trả chớ chui thì, than ôi, như ông Ba Xu dặn:

- Chỉ có thua, ít khi huề.

Tụi nó hành quân không bao giờ có qui luật. Ngã Ba Cây Điệp, Xóm Trại Bà Huệ, Ngã Ba An Nhàn, Bến Mương đều có giặc. Thì đành phải chịu. Chẳng lẽ điểm của nó là H6. Nếu không phải là H6 thì là Quận đội của ông Tám Giò. Hai cơ quan cách nhau không đầy hai cây số. Thằng Đỏ chạy lấy tin rồi không thấy về. Có lẽ bị chận. Chỉ còn cậu quản lý (chúng tôi kêu là cậu Quản) và Cô Thu theo bảo vệ tôi. Hai người dắt tôi ra hầm gạo rồi cậu Quản giở nấp hầm, la:

- Xuống mau anh Hai! Nó tới rồi.

Thu nhảy xuống trước, tới tôi rồi Quản xuống sau cùng. Tôi nghe một tiếng phập nghe rợn người. Tôi đâm ra ân hận. Tại sao mình tự tìm cái chết? Tại sao không nghe lời ông Tư Lệnh? Thấy tôi chần chờ không chịu đi theo Thu mà muốn trồi ngược lên, Quản đuổi tới và thầm thì:

- Không lên được đâu anh. Phải luồn vô mau.

Tôi lần theo Thu. Bỗng Thu quay lại hỏi Quản:

- Mình đi theo ngánh nào?

- Rẽ sang trái!

Tôi bò được chừng năm thước thì cùng đường. Tối đặc. Mồ hôi ướt đẫm áo. Tôi bắt đầu thấy ngột ngạt. Đây là lần đầu tiên tôi nếm mùi địa đạo thực sự, nghĩa là có giặc trên đầu chớ không phải xuống địa đạo, đào địa đạo và giỡn với các cô dũng sĩ như trước kia. Thu kêu lên.

- Bít đường rồi anh!

- Mò tìm tảng đá chắn! - Quản bảo -Đụng chưa?

- Có rồi. Tấm đá tròn phải không?

- Đúng rồi đó! Móc lên, để qua một bên. Anh Hai, đưa cái sắc cốt cho nó bỏ xuống rồi mình đu người xuống sau.

Cô Thu nói:

- Ghê quá anh à!

- Ghê thì lùi lại đây, tao xuống! - Quản nạt.

- Em nghe lạnh quá hà.

- Người ta nực muốn chết mày lại lạnh..

Cô Thu thòng chân rồi bám vào vách đất tụt xuống dần. Cô rên rĩ:

- Anh Chi ơi! Anh về phù hộ anh Hai mình nghe anh Chi!

Tôi nghe lạnh buốt tiên gan vì câu van vái của Thu. Tôi tiếp theo sau Thu, chui xuống như cá bị bỏ lọt qua hom giỏ. Cậu quản lý chui sau cùng và rướn người lên nhấc tấm đá đậy miệng hầm lại. Phập Tôi quay lại hỏi:

- Bộ mình xuống tầng hai rồi hả?

- Dạ, đây là tầng hai..

Tôi nghe trong người bức rức khó chịu như ngặt mình sắp chết. Mồ hôi ra như tắm, tai nghe e e, tay chân lọng cọng còn hai mắt thì cố trợn lên muốn nổ tròng mà không thấy gì hết

- Cái gì xì xào trước mặt vậy?

- Dạ người ta.

Tôi nổi nóng ngang:

- Bỏ dạ đi! Dạ cái con mẹ gì... Người ta nào?

Quản líu ríu.

- Dạ người ta... xuống địa đạo... Người ta... trong xóm.

- Có cái vụ đó nữa sao?

- Dạ đây là đường Thống Nhất của xã. Xã đội họ hướng dẫn dân ẩn trú dưới này. Cái ngách của mình ăn thông ra đây.. Tụi em đào hồi năm ngoái với anh Hai Giả!

Quản nói một hơi. Một tiếng kêu vang dội lòng hầm:

- Dồn mau vô. Nó bơm hóa học xuống rồi. Ngộp quá. Chắc chết hết mấy người ơi!

Một tiếng người bảo.

- Đậy nắp tầng hai kỹ lại!

Tôi ngồi tựa lưng vào vách hầm. Tôi có cảm giác như con gà nằm trong giỏ ở chợ Đồng Xuân, cứ ngẩng cổ lên là đụng nấp giỏ. Quả thật tôi quơ tay là đụng nóc hầm. Nó ở ngay trên chỏm tóc mình, cách chừng một sải tay. Tôi đã từng đào với các em. Tôi còn lạ gì. Lòng hầm chỉ cao chín tấc. Thế mà tôi và Tư Linh đã đẩy cây thoa mỡ bò với thằng Bọ Chét: Chúng ta đi dạo quanh địa đạo suất ngày, mà nó cũng tin. Nhân loại ngây thơ cũng dễ tin hắn như hắn đã tin chúng tôi vậy. Bây giờ thì Trời trả báo. Cho mi giỏi đi dạo, nghe Lôi!

Bỗng nghe có tiếng con nít khóc ri rỉ và tiếng kêu ngộp vang vang. Bộ mấy người này chưa từng xuống đây sao? Một lũ bị chôn sống. Chắc ai cũng ân hận. Chính mình tự chôn mình. Muốn lên cũng không được. Nhiều người réo Tám Đột mà chửi. Tôi chợt nghe thèm điếu thuốc. Tôi mò túi quần lấy thuốc nhưng hộp quẹt xẹt hoài không cháy. Thu hỏi tôi:

- Anh xẹt hộp quẹt làm gì?

- Hút thuốc.

Quản kêu lên:

- Bộ anh muốn chết ngộp hay sao? Dưới hầm đâu có đủ dưỡng khí mà lửa cháy được!

À, tôi sực nhớ. Lần nọ tôi xuống địa đạo với cô xã đội Là. Tôi cũng bật lửa để xem xét trong hầm nhưng không cháy. Tôi quờ vào vách hầm, đụng mấy thân tre láng láng. Tôi hỏi:

-Thu à, ai trồng tre trúc gì dưới hầm vậy?

- Ở đâu?

Tôi quờ tìm tay Thu, cầm lấy và ấn vào những thân tre trên vách hầm. Thu nói:.

- Đó là tre chắn miệng thí chớ ai trồng tre dưới hầm!

Trời! Sao tôi ngu vậy. Tâm trí tôi cũng đen như đáy hầm này rồi sao? Cô xã đội Là đã giải thích cho tôi và chính tôi cũng đã tham gia đào miệng thí với các cô rồi mà nay không nhớ. Ở phía sau có tiếng người giục:

- Ai ở phía trước bò vô cho người lết tới, ở ngoài này hửi hóa học gần chết rồi.

Thu bò vô nhưng dội lại. Tôi hỏi:

- Sao không vô?

- Ở đàng trước không chịu nhúc nhích.

- Sao kỳ vậy?

Có tiếng đàn ông ồm ồm phía sau:

- Bộ muốn người ta hỏi hóa học chết hết hả?

Tôi ôm chặt cái sắc cốt và đẩy lưng Thu:

- Em xô họ tới đi.

- Xô gì được Họ ngồi chắn ngang bít chịt.

- Em chen đại qua.

- Chen sao được mà chen?

- Tại sao?

- Thì cái hang có bơ lớn, chen ngả nào?

Tôi hét:

- Ai ở đằng trước chui mau tới. Ở đằng sau họ đạp tống vô lưng người ta đây!

Vừa nói tôi xô Thu. Nhưng Thu kêu lên:

- Em rờ đụng cái giò của ông nào lông lá không, ớn quá trời.

Một tiếng đàn ông đáp lại:

- Đàn bà chửa ở trước, không bò được các cha ơi!

Một tiếng khác:

- Đem thứ trống chầu đó xuống đây làm chi hở trời!

- Vậy để trên đó chết cháy hả?

- Xuống đây thì phải ráng mà chui chớ chắn ngang vậy người mới xuống làm sao vô?

- Vẹt qua cho người ta bò tới.

- Vẹt rồi đó, bò đi.

- Bò đại đi!

- Chết tôi trời ơi!

- Cái gì vậy má nó?

- Ai ép chắc chết quá!

Huỳnh huỵch, huỳnh huỵch xen lẫn các mẫu đối thoại bình thường tới đối thoại nho chùm.

- ép lọt con người ta rồi hết nghe.

- Trời ơi, đàn bà có chửa mà ông. Tám Đột lùa xuống đây làm chi?

- Thôi biểu bả nằm xuống cho người ta bò qua.

- Đè lọt con người ta sao?

- Thằng nào ngu quá, vợ có chửa mà lại nhét xuống đây?

- Đù bà thằng nào nói đó. Chốc nữa lên tao đập nát óc.

Tôi phát cáu cũng xổ nho luôn:

- Thôi các cha! Cãi lộn Mỹ nghe nó xoi thấy mẹ!

- Thằng nào giỏi thì lên đánh Mỹ đi, sao chui vô 1... đàn bà.

Tôi thấy nhột và nhục vì câu nói vô tình, nhưng không đủ sức để quát tháo nữa. Vã lại trong sự hỗn độn này có ai nghe ai? Tôi úp mặt vào lòng Thu. Trời, con nhỏ ác thiệt, nó xức dầu Hồng Lạc, mùi dầu pha với mùi đất ướt, mùi người, mùi quần áo và các thứ mùi uế tạp khác, làm tôi muốn mửa. Tôi nghe cơm cá cà phê sắp trào lên họng rồi. Tôi cố nuốt gặm. Tôi nghiêng mặt chúi mũi vào thành đất. Đất cũng tanh nhưng dễ chịu hơn. Người đàn bà chửa di động được một quãng. Thu bò theo. Tôi lết tới. Quản tiếp sau. Một tiếng reo phấn khởi sau lưng tôi.

- Cái lỗ thông rồi! Bò vô bà con!

Tôi bỗng nghe mùi thum thủm quái gỡ, giống như thây ma sình. Bộ có ai chết? Tôi thầm nghĩ "Dám lắm’ Tụi nó bơm hóa học xuống rồi. " Tôi ân hận tràn lòng. Sao mình chui xuống cái cửa tử này? Xoay trở phía nào cũng không được. Chẳng khác nào con chuột trong chiếc xà-vi tre. Lui không được còn tới thì chật như nêm. Tung nắp lên ư? Mỹ đang trên đầu. Chui xuống? Ngã nào? Tầng thứ ba luồn qua đít Đồng Dù, nghe Bob Hope hát?

Tôi quờ tìm cái gì không biết nữa. Ờ, tìm ánh sáng. ánh sáng đâu giữa lòng đất. Nếu là hầm bí mật thì dễ chịu hơn vì có một mình, nhiều lắm là hai đứa. Còn ở đây không biết bao nhiêu người. Tôi cảm thấy họ hít hết không khí trong hầm. Ngực tôi nghe nhức như bị ép. Thu và Quản thở nghe phòm phòm như trâu bị cắt cổ.

Tay tôi quờ đụng vật gì trên vách hầm rả rợt. À... rễ cây mục. Vì mình móc hết đất, nó không còn đất để ăn, nên chết và thối ra. Chao ôi! Cái gì chết cũng thối và mùi thối khó chịu vô cùng. Cứ mỗi lần hít thở như bưng cái lỗ mũi. Tôi đưa tay bịt mũi, nhưng bịt mũi càng khó chịu. Cuối cùng vẫn phải hít cái mùi bất hủ đó. Tôi hỏi.

- Mình lên tầng một được không?

- Không đâu anh ạ! - Quản đáp - Nó bơm hóa học xuống rồi.

- Ở dưới này ngộp chắc chết.

- Nó đang đánh hầm nữa!

- Sao cậu biết?

- Em nghe tiếng bung bung tự nãy giờ mấy lần.

Tôi lắng nghe. Bùng! Bùng! Đất rung rinh. Lồng ngực dội. Quản có kinh nghiệm chui địa, nói:

- Nó đánh bằng chất nổ như mình đánh bộc phá. Anh nghe tiếng nổ không?

Lúc nhỏ tôi thường chui vô những vực hẩm để bắt cá trê. Nghe bùng bùng thì biết là trống nhà làng đánh. Bây giờ tiếng vang này cũng y như vậy.

Tôi nghe lạnh buốt, răng đánh bò cạp kềm không lại. Thì ra nãy giờ mình toàn lê lết dưới bùn sền sệt, nhiều chỗ nước đọng ngập lên đến khỏi mắt cá. Ông cụ non đã biến mất không còn là gánh nặng đá đeo của bà Hồ Xuân Hương nữa. Thu cũng có kinh nghiệm ở hang, bảo tôi:

- Anh ngồi chồm hổm mà lê tới như vịt đi đừng ngồi bẹp. Nhích tới đi anh. Ôm lưng em nề cho ấm. Ôm đi, em nghe anh run lặp cặp rồi kìa.

Tôi làm theo lệnh cô bé như máy. Không thấy gì hết ngoài cái đầu của Thu mà tôi nhìn bằng cái mũi của tôi chớ không phải bằng mắt, Nhờ tóc quẹt vào mũi tôi nhột nhột. Có lẽ những người trám bít phía trước đã nhích lên nên Thu lết hơi nhanh. Tôi cố theo, tôi đến đâu Quản đến đó và còn xô tôi tới nữa.

- Anh mệt không?

- Không?

Thu mò sột soạt trong túi thuốc mà Lan đi vắng giao cho. Tôi nghe đánh rắc một tiếng như màn tai tôi bị vỡ. Một tiếng ho dưới địa đạo vang to như tiếng bom nổ. Tôi không biết là tiếng gì thì mũi ngửi thấy mùi dầu nhãn.

- Anh đưa bàn tay đây... Ngửa ra... Rồi đó, đưa lên mũi cho khỏe.

- Tay bùn không.

Thu im lặng một lát.

- Nè anh hửi cái khăn. Em vừa xịt dầu vô đó.

Tôi nghe lời, áp chiếc khăn vào mặt. Cái khăn có mùi dầu nhãn. Tôi hít hai ba cái thấy cũng dễ chịu.

Xê xít như vậy mấy thế kỷ không rõ, thì Thu la lên.

- Tới đường xuống rồi anh!

- Xuống đâu?

- Tầng hai.

- Vậy nãy giờ mình bò ở tầng mấy?

- Em nghĩ là tầng hai, nhưng té ra không phải. Mới tầng một thôi. Ở trên chỉ là cái ngách.

Tôi phát cáu:

- Thôi, thôi tao không có xuống nữa!

- Ở trên này nó bơm hóa học mình chết đó anh. Nàng đính chánh lia về sự nhầm lẫn của mình - Hồi nãy mình mới xuống cái ngách giở tấm đá chui xuống em tưởng là tầng hai, ai dè không phải.

Tôi suy nghĩ và chần chờ. Xuống hay không xuống? Đã đến mức này rồi. Lên không được thì chỉ có nước xuống thôi.

Tôi có cảm giác là mắt tôi đã mù. Tôi thử móc chiếc mù soa trắng trong túi đưa lên trước mặt. Không thấy gì hết. Vậy mà lâu nay mình cũng tự lừa mình (để yên tâm) là địa đạo rộng như ường cái, đi xổng lưng, địa đạo chiến oai hùng. Cả tiểu đoàn chạy rần rần từ ấp này sang ấp khác, từ xã này sang xã khác, để bọc hậu đánh lại địch. Đây là tôi chui mình không. Nếu có cây súng ngắn thì còn vất vả nữa. Hồi đi học trường làng, trong giờ thể thao, thầy giáo thường cho tập cái môn đi theo kiểu vịt nghĩa là ngồi chồm hổm, tay khuỳnh chống hai bên hông rồi vừa đi vừa la cạp cạp như vịt. Môn này tuy khó mà vui. Có đứa thừa lúc thầy ngó lơ chỗ khác thì đứng xổng dậy chạy một khúc rồi ngồi xuống đi theo vịt tiếp. Nhưng than ôi, bây giờ xí quách đã khô trên Trường Sơn, về đây chạy long tóc gáy cả năm trời thì cái trò đi theo kiểu vịt đâu còn vui vẻ nữa. Ngoài ra, lòng hầm hẹp đâu có huỳnh tay ra được, và phải lết trên bùn, con vịt Dương Đình Lôi này chỉ muốn nhảy vô nồi nước sôi chết phức cho đỡ ngặt mình.

Nếu hai cây thịt vĩ đại Ba Tố và Tôn Sứt xuống đây chắc sẽ biến thành cái nút nhét chặt mà bọn này sẽ làm lũ cào cào chết dưới đáy chai. tôi đành phải nghe lời cô quân sư mà tụt xuống tầng hai. Ở dưới này cũng nghe tiếng người la í ới, con nít khóc càng to, những câu đối thoại đầy nho hộp nho chùm xổ ra tứ tung.

Tôi cảm thấy lạnh hơn và ngột ngạt hơn. Thằng nào đào địa đạo không đào lỗ hơi. Có thể nó có xoi lỗ ở tầng một nhưng ở tầng hai nó lại quên, hoặc có xoi mà nhỏ không đủ cho không khí tràn vào hầm, hoặc có lỗ hơi lớn mà đất sụp bít đi, hoặc nữa vì sợ rắn chun xuống người ta nhét lại và khi xuống hầm lính quýnh không ai giỡ nút ra. Nhưng bất cứ như thế nào, dầu cái lỗ thông hơi có bằng ống khói tàu thì không khí cũng không đủ cho những buồng phổi sắp cháy có thể tươi trở lại được Tệ hơn nữa là tầng hai không rộng rãi như tầng một. Khi đào tầng một phải chừa cái gáy hầm ít nhất là 9 tấc để xe tăng chạy qua không sập, 9 tấc kế đó là lòng tầng một, phải bỏ 6 tấc cho gáy hầm rồi tối 8 tấc cho lòng tầng hai. Như vậy từ mặt đất xuống đáy hầm tầng hai là: 9 + 9 + 6 + 8 = 32 tấc, là 3 thước 20. Kéo một ki đất nặng 30 kí lô từ một độ sâu 3 thước 20 thì phải đổ bao nhiêu mồ hôi? Do đó mà nhân công không đủ để đào tầng hai rộng bằng tầng một. Bạn thử làm một con toán xem thì rõ sức nào đào nổi. Và chỉ tính trong hoàn cảnh bình thường không có bom pháo và biệt kích. Bỗng Quản kêu lên:

- Anh Hai ơi! Lạc rồi!

- Tại sao?

- Lúc nãy đáng lẽ mình quẹo phải mình lại quẹo trái. Nếu quẹo phải thì sẽ đụng vào ngách độc lập của H6 do anh Hai Giả, Ba Thanh và thằng Đỏ đào hồi trước. Ba người đào mất nửa tháng mà có 15 thước thôi. Nhưng chỉ đủ cho năm người ở một ngày. Hồi nãy mình quẹo trái là ra đường Thống Nhứt của xã, cho nên người ta mới đông, trẻ con đàn bà chửa tùm lum như thế này.

- Bây giờ mình trở lại ngách mình được không?

- Dân ở phía sau dồn tới rồi chật nức, mình đâu có lùi được?

Nhân dân mà xuống ào ào thì miệng hầm Mỹ sẽ thấy ngay không cần phải dùng chó đánh hơi. Hai Giả chết cũng vì loại hầm quốc tế này (nghĩa là loại hầm dùng cho các loại cán bộ khách. Người đào hầm đó không bao giờ xài. Có khác gì chôn sống họ )

- Vậy mình sẽ bò tới đâu?

- Tôi cũng không biết.

Xuống tầng hai này không còn ngồi chồm hổm đi kiểu vịt cũng không ngồi bẹp mà lết được nữa. Phải cụp cổ xuống hai đầu gối để đầu khỏi đụng nóc hầm. Thu bắt đầu cau có với ông thủ trưởng của nó:

- Anh Hai đừng nói chuyện nữa, để dành hơi thở.

Tôi không hiểu cái khoa học gì kỳ vậy nhưng vẫn nghe lời mà ngậm miệng. Tôi có cảm giác đã chết một nửa người nhưng Thu cứ giục:

- Rán tới anh.

Tôi cố lê theo, chẳng hiểu tới là tới đâu nữa. Tội nghiệp tôi chẳng bao giờ chú ý tới cô bé. Tôi đi nhỡn nhơ với ai đâu đâu còn cây nhà lá vườn thì để hoang lạnh. Bây giờ tôi mới thấy cần một người em gái tận tình hơn là một người yêu. Các cô chưa chắc còn yêu mình khi mình lâm nạn như vầy.

Thu đang đi tiên phong dọn đường còn cậu quản lý thì chặn hậu bảo vệ tôi. Tôi đi cách mỗi người chừng một thước tây nhưng tôi sợ lạc mất, nên cứ chốc chốc lại rên rỉ:

- Hai em còn đó không?

- Em không có bỏ anh đâu mà!

Thu bao giờ cũng đáp lời tôi trước Quản. Còn Quản không nói gì chỉ xô vào lưng tôi. Tôi biết đó là cậu ta chớ không ai khác, bởi vì hầm chật không ai chen qua được. Có bao giờ ai đóng thêm một cái nêm vào răng cối?

Bây giờ hầm lại trở nên chật hơn. Rễ cây thấm nước trận mưa vừa rồi từ trên nóc hầm nhỏ xuống ngay lưng, ngay xoáy ngọ, mỗi giọt như một mũi kim châm buốt tận óc. Thu quay lại bảo:

- Không lết được nữa anh ạ!

- Tại sao vậy?

- Đường bóp lại nhỏ xíu vì một rễ cây nằm ngang. Phải nằm xuống trườn mới lọt.

- Trời đất!

Tôi kêu than nhưng vẫn phải nghe lời vì đầu tôi đã cụp xuống giữ hai đầu gối mà không qua lọt khúc nghẽn. Quản lằm bằm:

- Đéo bà thằng chó đẻ nào đào cái địa này. Đường Thống Nhất cái củ c...!

Tôi nằm sấp và quơ đụng hai gót chân Thu ngay trước mũi tôi. Tôi bảo:

- Anh bò hết nổi rồi em!

- Anh nắm cườm chân em để em bò tới.

Pùng? Pùng! Pùng? Tiếng động vang âm trong lòng hầm, dội vào lồng ngực muốn vỡ ra. Chúng nó vẫn tiếp tục đánh, moi và bơm chất hóa học. Tôi nghĩ. Chui xuống đây là bị động hoàn toàn. Tôi vô cùng ân hận. Không bao giờ chơi với địa nữa. Hồi ở Hà Nội tôi có xem cái phim của Ba Lan, du kích thủ đô Vác-sô-vi đánh với Phát-xít Đức cùng đường phải chui xuống cống thành phố rồi lạc đường không biết phải theo đường nào để trở lên mặt đất. Nhưng hệ thống cống rất dài và lòng cống to đi xổng lưng vác súng vẫn rộng thênh thang. Ước gì mình được đi trong lòng cống Vạc-sô-vi để đánh Mỹ.

Bỗng Thu reo lên:

- Được rồi anh Hai!

- Được gì?

- Em đụng nắp lên tầng một.

- Mở mau cho anh chun lên.

Thu đội nắp hầm đứng lên. Tôi ngỡ một luồng sinh khí sẽ tràn xuống đầu tôi làm cho những tế bào sấp chết trong người tôi được hồi phục. Nhưng không! Không có gì hết. Thu đã đặt chiếc nắp qua một bên nghe phịch một tiếng, nhưng tôi vẫn thấy ngột ngạt như trước mà mắt tôi vẫn mù. Tôi quát.

- Tại sao kỳ vậy Thu?

- Sao anh?

- Tầng một cũng như tầng hai.

Và người ngợm, tiếng chí chóe vẫn rầm rầm như ở tầng hai. Có lẽ dân bị Mỹ đuổi nỗi nên Tám Đột lùa đại xuống hầm một mà không tìm ra cửa xuống tầng hai nên họ luồn vào đây mà không có sự hướng dẫn nào hết, mạnh ai nấy nấy la nấy chửi loạn cả lên như một giỏ gà chật cứng. Quản nhanh trí bảo:

- Chúng tôi phải lên để chiến đấu. Các ông các bà, ai muốn xuống tầng hai thì chui qua lỗ này.

Hàng chục người làm theo lời chỉ dẫn ác ôn của Quản. Nhờ vậy có nhiều không khí cho chúng tôi hơn. Tôi hỏi:

- Đường còn dài không?

- Em đâu có rành. Họ đào, đâu có cho mình phối hợp. Cho nên mình chỉ đào khúc của mình thôi. Họ cho ăn thông ra nhưng không cho mình rõ sơ đồ.

Ở tầng một có cái đỡ là nghe rõ tiếng cánh quạt trực thăng và tiếng mìn nổ, tiếng bom dội xa gần và ngửi được mùi thuốc TNT, do đó cảm thấy mình còn sống. Bây giờ mồ hôi không tuôn ra nữa. Còn đâu mà tuôn. Toàn thân nghe như biến thành một que củi khô đang hơ khói trên giàn bếp như ở nhà mà má tôi vẫn thường làm mỗi khi mưa dầm vào tiết tháng năm. Mặc dầu không biết đi đâu và sẽ tới đâu, nhưng Thu cứ giục tôi bò tới. Lòng hầm tầng một có rộng hơn nhưng tôi chẳng thấy khỏe lại, bởi vì bao nhiêu sức khỏe đã phí ở tầng hai rồi. Tôi nghe những cảm giác của tôi đều mờ nhạt, nghe tiếng nói lao xao mà không hiểu nghĩa gì, tay chân tê dại và mắt hoàn toàn không nhìn thấy gì. Tôi đang sống trong trạng thái của một người sắp chết.

- Anh Hai! Anh Hai!

- Ư... ư...

- Anh có khỏe không??

Tôi nghe Thu nắm tay lôi tôi và Quản nắm chân đẩy tôi như điều động một chiếc xe bò chở nặng mà không có bánh hay đúng hơn, như một tấm trạt kéo mạ trên ruộng lầy. Chốc chốc tôi nghe tấm trạt ấy dừng lại và chiếc khăn có mùi dầu nhãn áp trên mũi tôi.

Tôi mơ màng thấy Ba tôi đứng ở giữa quán con Chia khi tôi vừa tới. Ông nói có mấy tiếng, rồi nghẹn ngào.

- Con đó hả?

Tôi thấy con Ua chở Ba tôi khuất dần trên con đường mòn ven Đồng Mã và tiếng văng vẳng của Ba: "Má mày muốn có cháu để bồng!"

Tôi chợt nghe Con Chia sắp đám cưới. Không biết chồng nó là ai? Ngoại đã chết rồi, nếu còn sống, chắc Ngoại cũng không vui lòng. Trời! Tại sao mình tối dạ vậy? Một chuyện nhỏ mà cũng không giải quyết được. Có gì đâu, kỳ đó mình cứ làm lễ tuyên hôn rồi cho cô nàng theo Ba về nhà. Ba sẽ bảo má: "Con vợ thằng Lôi đây nè. Tôi vô trong khu tôi cưới cho nó đó. Như vậy còn hơn thằng Hùng Cối, má nó cưới vợ đem lên cho nó thì sao?"

Có lẽ minh sợ con Ua buồn chăng? Chắc nó sẽ hờn giận ghê gớm nếu mình làm đám cưới với con Chia. Không đúng như vậy đâu. Mình đang nghĩ tới Thu Hà, cặp mắt đẫm lệ sau gốc bằng lăng cứ theo dõi mình hoài.

Tôi mơ hồ nghe tiếng bùn sền sệt khua ột ột theo mỗi bước nhích tới của Quản và Thu. Mắt tôi nhắm hay mở tôi cũng không biết. Những vòm tròn trắng mờ nhạt lao xao tan vỡ trước mặt tôi. Đó là linh hồn sắp lìa khỏi xác. Nó còn bám vía lại như một tơ vương, sợi tơ mong manh mà bất cứ một cử động nhẹ nào cũng làm đứt đi.

Vĩnh biệt niềm vui! Vĩnh biệt tình yêu!

Vĩnh biệt mọi người yêu dấu. Tôi không bao giờ còn có thể trở về dòng sông Tân Bửu của tuổi thơ để gặp lại Duyên nữa. Dòng sông lấp loáng trong dầu tôi như một dãy ánh trăng với chiếc xuồng hai đứa đang bơi lên. Chơi vơi, chơi với....

Không! không phải dòng sông Tân Bửu mà là sông Sài gòn. Sông Sài gòn có giang thuyền, có Bến Dược nơi tôi đứng xem tàu cặp bến. Tôi bị cô xã đội phó nhốt trong vòng. Ồ con sông rộng mênh mông, mênh mông tan loãng ra trong trí tôi Một trái, một loạt M79 bay như những trái vú sữa nhà Tám Phụng hôm nào rơi mà không nổ. Bảy Mô ơi hầm của đội em đã xong chưa? Má vô lần này sẽ không gặp ai. Lan đâu rồi, hãy băng vết thương cho anh. Anh bị một mảnh đạn trúng sau ót, ồ mảnh đạn của thằng Chi. Anh gục xuống rồi. Anh bị thương khắp người. Anh bị cụt chân như thằng Hoa, anh của con Nga, nên Tám Mang chê không làm đám cưới. Anh trở thành thương binh chống hai cây nạng đi khập khểnh trên R. Ông Sáu Nam quát: "Sao mày bỏ con Thanh Tuyền để nó khóc sưng cả mắt?"

Ông Cục trưởng ơi! Ba Lê đẹp lắm nhưng tôi phải về vì trên đời này tôi còn có Củ Chi, Củ Chi là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, nơi tôi sống và chết nơi này. Kìa cái hòm của thằng Chi bỗng nhiên bật nắp văng tung hai khúc chuối cây. Nó ngồi dậy. Năm Tiều đè nó xuống. Con Chanh chạy lại gào lên. Năm Tiều bảo: "Mày có thương thì chui vô với nó." Trời! cây xoài múc cao quá, ngộp quá. Ngực tôi như có đá đè. Ừ cái tấm đá tròn nắp địa tầng hai, con Thu nó ném trên ngực tôi. Tôi muốn la lên muốn vùng dậy mà không nổi. Ai bóp cổ tôi, ai ngồi trên ngực tôi? Con quỉ! con quỉ!

Tôi vùng lên. Tôi phá tan cái địa đạo. Tôi bắn thằng Mỹ đang lui cui moi nắp hầm. Ha ha ha... con phóng viên lại tới.mở sắc cốt lấy ra một trái tim máu đỏ ròng ròng. Ô! miếng thịt chó của Ba Tiến. Ồ! nàng Út! cho em xin một đứa con! Em sẽ bỏ cái chức khu ủy này. Mấy bà Hai Xót Năm Đang còn họp suốt đêm ở đó với mấy lão già dềnh. Sông Sàigòn trắng xóa vỡ ra thành biển...


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx