sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 6: Tấn Công 1

Thứ sáu, 22 tháng 5 là một ngày nghỉ ngơi và chuẩn bị. Những người du kích làm nhiệm vụ bảo vệ chúng tôi - như chúng tôi thường nghĩ như thế - không bao giờ cho chúng tôi biết trước lịch trình di chuyển ban đêm từ nơi này sang nơi khác. Chỉ có những cái khều nhẹ vào ngón chân và thì thầm ra lệnh: “Chuẩn bị đi”. Nhưng ngày thứ sáu hôm đó chúng tôi linh tính một cuộc hành quân quan trọng sắp xảy ra.

Chị y tá đã khỏi bệnh, xếp gọn ba-lô và cho dầu đầy vào cây đèn nhỏ, rồi vặn chặt nắp như để chuẩn bị kỹ cho một chuyến đi xa. Sau khi mang cho chúng tôi bữa ăn sáng, anh Tư lặng lẽ ra phòng ngoài ngồi vá lại chiếc áo sơ-mì xanh anh thường mặc. “Nhăn Nhó", một du kích ngăn nắp nhất trong một nhóm người cực kỳ ngăn nắp bỏ ra cả nửa giờ để bắt những con mối chui vào chiếc mùng màu xanh của anh đêm qua. Anh đứng thẳng, đưa chiếc mùng ra ánh sáng từ cửa ra vào, cố bắt mấy con còn sót, rồi quay chiếc mùng trở lại bắt nốt phía bên kia, miệng và mũi của anh nhăn nhó vì quá tập trung vào công việc. Cuối cùng anh xếp chiếc mùng vuông vức như một cuốn sách, nhét vào ba-lô - một túi ni-lông với dây rút vòng từ hai bên đáy. Trên miệng ba-lô cũng có một sợi dây buộc hai đầu để dễ móc ba-lô lên. Sau khi thắt miệng ba-lô, anh kéo hai dây lên làm thành quai mang trên vai. Anh thử nhấc chiếc ba-lô cỡ 15 ký lên để coi thử nó cân bằng chưa. Lần đầu thất bại, anh lấy hết vật dụng ra - mùng, mền, quần áo, quẹt lửa, giấy vấn thuốc, thuốc rê, kể cả tiêu, muối, đường, thư từ hình ảnh cá nhân, một tấm ni-lông xanh lớn có thể trải nằm hay làm lều dã chiến. Rồi anh xếp lại, có thứ tự hơn, cột chặt lại, cho đến khi anh cảm thấy hài lòng. "Ba-lô bộ đội cụ Hồ" - như tôi thường gọi - cùng với những vật dụng tiêu chuẩn chứa trong đó, là vật kỷ niệm mà tôi tha thiết muốn mang về nhà Washington.

Beth, Mike và tôi mất gần cả ngày để viết bài hay ghi lại nội dung những cuộc nói chuyện một vài ngày trước với anh Hai và những người khác. Mike có một trí nhớ chính xác tuyệt vời, cả tiếng Anh và tiếng Việt, chúng tôi cùng làm việc với nhau để ghi lại chính xác những buổi thảo luận dài dằng dặc về bản chất của chiến tranh và cuộc sống của người cách mạng. Thỉnh thoảng chúng tôi tranh thủ xả hơi bằng cách làm một giấc ngủ ngắn trên sàn tre hay chơi trò đố "hai mươi câu hỏi" hay lấy những tờ giấy cũ chơi trò đố chữ của Beth: mỗi người nghĩ ra một từ gồm năm chữ cái, rồi đố những người khác thử đoán xem là từ gì bằng cách đưa ra nhiều từ gồm năm chữ cái khác nhau. Mỗi lần như vậy sẽ được công khai có bao nhiêu chữ cái tương thích, cho đến khi đoán đúng.

Ngôi nhà lớn hình như là một trạm liên lạc của du kích. Ngay đêm mới đến, tôi đã chú ý thấy người chủ nhà cao lớn với vầng trán đầy nếp nhăn lấy từ một chỗ bí mật trên tường một mảnh giấy nhó xếp gọn, rồi trao cho một trong những du kích. Chuyện này làm tôi nhớ đến Wilfred Burchett đã từng viết về những bì thư nhỏ dùng để truyền tin mà ông thấy trong những chuyến hành trình của ông cùng với các cánh quân của Mặt trận Giải phóng bên trong miền Nam Việt Nam và tôi cho rằng mảnh giấy nhỏ kia là một lá thư để lại cho nhóm của chúng tôi.

Chỗ ngủ đã được trải dọc trên sàn nhà và ba-lô được đặt ngay đầu giường, người đi ra đi vào - tất cả nếu không có những khẩu súng dựa vào tường và tiếng động cơ của máy bay do thám xa xa - đều gợi lên ấn tượng đây là một ký túc xá thanh niên. Ba thiếu nữ người Việt mới đến, được giới thiệu là y tá, khiến cảm tưởng đó càng thêm mạnh mẽ. Ba cô gái có lẽ đã đến đây trước khi chúng tôi thức dậy vào lúc bình minh, và giết thì giờ bằng cách dạo quanh ngôi nhà hay ngồi giữa nhà, cạnh những chiếc ba-lô, mặc quần pijama đen và áo màu xanh biển, nói chuyện với nhau hay chải kỹ mái tóc dài đen mượt, bới rồi kẹp lại bằng những kẹp tóc màu bạc. Trong vài phút, họ nói chuyện với chúng tôi một cách vui vẻ - mặc dù đó là sự chỉ đạo của cấp trên. Họ không hỏi câu gì ngoài những tuyên bố như: "Cách mạng sẽ thành công bất luận kéo dài bao lâu nữa."

Ban Tun, người chiến sĩ Campuchia vui tính, dường như không có nhiệm vụ gì quan trọng, ngoài việc lo củi lửa và múc nước giếng đưa vào nhà bếp. Anh rất khỏe và siêng năng. Ban Tun đi vào nhà, nhặt lá rơi từ các cây quanh nhà. Anh mất cả giờ nói chuyện với các người Víệt Nam: anh đưa cao một chiếc lá để họ nói tên loại cây đó bằng cả tiếng Campuchia và tiếng Việt. Sau đó, anh đi ra khỏi nhà, mang theo một cây sào dài có một cái rổ và cây nĩa ở đầu sào. Anh dùng nĩa hái trái trên cây roi vào rổ. Rồi anh quay trở lại, mang cho chúng tôi mỗi người vài trái dâu xanh nhỏ chua lè và một gói muối ăn cho bót chua. Chúng không quá tệ bởi vì tôi cảm thấy chúng bù đắp thêm được một ít vitamin C trong người. Một chú tắc kè lớn - được gọi như thế vì tiếng kêu hai nhịp não nùng của nó - đang bò ngược trên kèo nhà. Anh Ba - chỉ huy quân sự của chúng tôi - đang nằm lim dim trên chiếu, thấy nó anh vội chụp lấy một cây tre dài và cố hất con vật xuống. Những bàn chân của nó cố bám chặt, nhưng cây tre mạnh hơn nó, nên cuối cùng nó đành rơi bạch xuống sàn nhà. Anh Ba dùng cây tre ghìm nó xuống, rồi chộp lấy nó từ phía sau đầu để tránh chiếc miệng to đủ rộng có thể cắn vào ngón tay. Anh mang chú tắc kè vào bếp, để thêm một món đột xuất vào nồi cháo đêm.

Vào buổi tối, lúc chúng tôi ra giếng tắm. chúng tôi thấy ba cô y tá, với mái tóc óng ả và những cây trâm bạc lấp lánh dưới ánh trăng, ba-lô trên lưng, vai quàng AK-47, lặng lẽ vượt qua chúng tôi, rồi đi tiếp trên những bờ ruộng lúa phía xa. Quay vào nhà, chúng tôi lại thấy anh Ba đang ngồi viết một mảnh giấy nhỏ dưới ánh đèn dầu. Chúng tôi cảm thấy một cuộc hành quân nữa sắp đến nhưng tốt hơn không nên hỏi. Ở đây không ai được quyền tự ý tiết lộ thông tin.

Chúng tôi được gọi dậy lúc 3 giờ sáng. Anh Tư khẽ bảo chúng lôi thời gian và nói chúng tôi sẽ di chuyển sớm. Anh mang đến cho chúng tôi cháo và một đĩa đậu phộng muối. Cháo hãy còn nóng và Mike nhớ lại cách mà người châu Á nhận biết thành phần xuất thân của một người: nếu anh ta xuất thân từ một gia đình nghèo, anh ta sẽ có thói quen dùng muỗng rà quanh tô cháo để ăn những chỗ nguội trước. Vài phút sau, theo lệnh của anh Tư, chúng tôi rời khỏi ngôi nhà, mang giày dép đã đặt sẵn ở chân cầu thang như thường lệ và lội bộ qua một lối mòn đẫm ánh trăng, đến chiếc Land Rover chờ sẵn, được giấu trong căn nhà hàng xóm. Chúng tôi leo lên xe, tìm chỗ ngồi giữa ngổn ngang đồ đạc, súng ống, một trái dừa và một thúng nhỏ đầy gà con kêu chiêm chiếp. Xe chạy suốt đêm, len lỏi theo những con đường mòn, bỏ lại phía sau lưng và hai bên đường ánh sáng của những trái hỏa châu Mỹ lập lòe trên bầu trời đêm và thỉnh thoảng tiếng đạn đại bác gầm lên như nhắc nhở chiến tranh đang quanh quẩn đâu đây.

Lúc rạng sáng, chúng tôi có thể thấy những dãy nhà sàn bằng gỗ khi xe chạy vào một ngôi làng lớn. Chiếc Land Rover dừng trước một ngôi nhà. Chúng tôi lấy xà-rông che lên đầu khi những người hộ tống trao đổi với một nhóm người Campuchia. Sau một hồi bàn bạc về chỗ ở cho chúng tôi, anh Tư ngoắc chúng tôi ra khỏi xe, theo anh leo lên cầu thang, vào một căn phòng nhỏ phía trái cửa ra vào. Căn phòng được ngăn bởi dãy tủ gỗ cao. Vợ chồng chủ nhà trải chiếu dưới sàn và treo những tấm mền che chắn tầm nhìn, nhưng chúng tôi vẫn thấy những đôi mắt nâu qua mỗi khe hở, khi các em bé Campuchia kháo nhau về những người phương tây vừa đến. Khi tôi mỉm cười với một em bé, em vội vã bỏ đi, nhưng lát sau em quay lại khe hở vì tính hiếu kỳ đã chiến thắng sự nhút nhát.

Chuyện bình thường là ngủ sau một chuyến đi đêm, và sau khi ăn sáng no nê với cơm thịt bò, đậu đũa và nước mắm - món nước chấm được làm từ cá của người Việt, giống như món ketchup vậv, chúng tôi ngả lưng xuống chiếu cạnh nhau. Khi vừa thiu thiu, thì anh Tư đến và ra lệnh “Chuẩn bị đi” - giọng anh khẩn trương hơn thường lệ. Chúng tôi vơ vội hành lý và anh dẫn chúng tôi xuống cầu thang phía sau nhà. Không kịp mang giày, tôi đành để chân trần chạy theo anh Tư, qua dãy nhà sau, ra đến một con đường đất. Xa xa vọng lại tiếng máy bay và tiếng cánh quạt trực thăng. Chúng tôi là một phần của cuộc tản cư tập thể của dân làng và du kích, bỏ chạy tán loạn ra khỏi thị trấn, để tránh trận tấn công đang đến. Đám đông chạy khỏi con đường và băng xéo qua cánh đồng lúa lầy lội. Chúng tôi cũng lội qua đồng. cố gắng bước nhanh. Anh Ba và anh Tư đi trước, thỉnh thoảng nhìn lại thúc giục chúng tôi cố gắng theo kịp. Leo qua một bờ đê thấp, chúng tôi đến một cánh đồng khác, chỉ có bùn sâu và đầy những bãi phân trâu. Chiếc quần lấm bùn của tôi như dán chặt vào chân khi chạy. Đôi lúc tôi cũng cố ngoái đầu xem thử Beth có theo nổi không. Tôi tự hỏi làm sao mình có thể viết được gì về những điều đang xảy ra nếu vẫn cứ giữ kẽ là một nhà báo thận trọng, không bao giờ dám đặt mình vào nơi nguy hiểm. Hơi thở đã phì phò, tôi bắt kịp hai phụ nữ bế con và anh du kích đang ôm trong tay một chú gà còn sống. Không suy nghĩ, tôi hỏi người lính: "Còn phải đi nhiều như thế này không?" Khi anh lính quay lại vì nghe một giọng nói lạ, và phát hiện khuôn mặt phương Tây của tôi, thoáng qua mắt anh có một cái nhìn kinh ngạc mà tôi chưa từng thấy bao giờ.

Rồi chúng tôi cũng vượt qua cánh đồng thứ hai, tiến vào một vùng đất trống, thỉnh thoảng có bóng cây và bụi rậm. Tiếng máy bay trực thăng tuần tra càng lớn hơn. Khi du kích và dân làng chạy lên trước, tản ra để tránh máy bay, nhóm chúng tôi cũng dừng lại một chút, trong khi anh Ba trèo lên cây quan sát phía sau. Tôi tranh thủ cột chặt dây giày và quàng qua dây đeo của túi bay cho dễ mang theo. Anh Ba bảo cứ tiếp tục chạy xa hơn, rồi mới tìm chỗ núp, chúng tôi chạy tiếp qua những bụi cây và dây leo cao đến bụng. Vài phút sau, anh Hai dẫn Mike và Beth chạy một hướng, còn Nhăn Nhó dẫn tôi chạy về một hướng khác. Chúng tôi đến một lùm cây thấp với những cành tươi bị bẻ gãy phủ lên những bụi cây cạnh đó. Nhăn Nhó chỉ vào một khe hở nhỏ giữa bụi và ra hiệu cho tôi chui vào. Anh cố ra hiệu cho tôi vào sâu bên trong cho đến khi tôi được cành lá che phủ an toàn, xong anh bò ra xa một chút, nằm nghe ngóng và quan sát bầu trời. Xa xa vọng lại tiếng đại bác, máy bay trực thăng, máy bay cánh quạt và cả phản lực cơ chiến đấu. Có lẽ Nhăn Nhó nghe thấy một điều gì khác thường - tiếng gầm của pháo đài bay - thường chúng bay quá cao nên ít khi nghe thấy. "Bê năm hai" (B-52), Nhăn Nhó thì thầm. Anh lôi ra một miếng bông gòn, xé một nửa cho tôi, ra hiệu cho tôi nhét vào tai nằm úp mặt xuống đất, nhắm mắt lại. Khi tôi xoay người úp mặt xuống đất, tôi phát hiện mình đang năm ngay trên một tổ kiến, nhưng tôi không thể di chuyển sang nơi khác, vì tôi sẽ làm "kinh động" đến tổ ong gần đó nếu tôi nhích thêm chút nữa. Tôi nằm yên chịu trận, chờ mặt đất rung lên và lỗ tai sẽ nổ tung khi bom B-52 rơi gần đó. Vài phút trôi qua, thấy không có gì xảy ra, lôi đưa mắt nhìn sang Nhăn Nhó. Anh hiểu ánh mắt của tôi nên ra hiệu cứ úp mặt xuống đất và nhắm mắt lại. Tôi liều lén nhìn lần nữa và bắt gặp anh mở nắp bao da của cây súng lục bên hông. Anh đoán được ý nghĩ của tôi, nên đưa ngón tay lên như khẩu súng, chỉ vào tôi, lắc đầu rồi chi lên trời, gật đầu "Súng không phải bắn anh, mà bắn bọn chúng," anh muốn nói. Một khoảnh khắc im lặng, không nghe tiếng máy bay. Nhăn Nhó đưa cho tôi cái bi-đông nước và tháo túi ba-lô lấy ra một túi giấy màu nâu. Anh xé một nửa đưa cho tôi trong đó chứa năm cục đường. Chất ngọt làm tinh thần hưng phấn và cung cấp năng lượng nhanh, nên tôi cảm thấy khỏe ngay.

Vào lúc đó, mặt trời đã lên cao và trời bắt đầu nóng. Nhăn Nhó lại mở ba-lô, lấy ra một mảnh ni-lông xanh lá cây, buộc hai góc vào cành cây, che nắng. Anh lại mở ba-lô lấy thuốc rê, rồi đóng ba-lô, vấn thuốc và lặng lẽ hút. Mở, đóng ba-lô liên tục là một phần trong cuộc sống của người du kích, luôn luôn sẵn sàng di chuyển khi có lệnh.

Rồi có báo động mới, anh lại tháo tấm che nắng, xếp gọn, bỏ vào ba-lô. Máy bay lại đến, lần này gần hơn. Tôi có thể nghe tiếng bom rơi xuống cách đó vài dặm và đôi khi tiếng gầm rú của phản lực cơ ngay trên đầu. Những cành cây dày giúp che khuất chúng tôi. Nhăn Nhó quá điềm tĩnh - nhìn lên qua bụi cây - khiến tôi có cảm giác an toàn, còn hơn cả cảm giác khi ngồi máy bay trực thăng trước đây bay qua những cánh rừng già nơi du kích bắn tỉa đang ẩn núp.

Máy bay bỏ đi, nhưng chúng tôi nghe một âm thanh lạ. Tiếng xích xe tăng và những tràng súng liên thanh ngày càng gần hơn, chi cách một hai dặm. Ba tuần lễ trước khi bị bắt tôi có được các chuyên gia về xe bọc thép Mỹ cho biết xe tăng của họ cỏ thể băng qua những vùng tương đối trống trải như thế này với tốc độ 35 dặm một giờ. Tôi không biết làm thế nào có thể thoát được nếu như các xe tăng chạy thẳng về phía chúng tôi. Nhưng cuối cùng, tiếng xe tăng xa dần. Chúng tôi an toàn.

Sau một hồi nằm bất động, Nhăn Nhó nhẹ nhàng đứng thẳng dậy, nhìn qua những bụi cây, theo hướng xe tăng đang bỏ đi, đầu anh quay tới quay lui như một con rắn khi anh cố nhìn xuyên qua những cành cây rậm rạp. Có vẻ hài lòng, anh chuẩn bị làm một điếu thuốc nữa khi thấy anh Ba tới. Cả hai thầm thì với nhau, rồi bỏ đi, khuất sau những lùm cây, mang theo súng trường, nhưng bỏ lại ba-lô và súng lục gần chỗ tôi. Tôi nghe tiếng đào bới và đoán có lẽ họ đang làm một hầm trú ẩn. Khi Nhăn Nhó quay lại, tôi thử ra dấu hỏi anh rằng tôi có thể giúp một tay không. Anh vội vã chạy đi, rồi quay lại, bảo tôi mang giày, túi xách và theo anh. Anh dẫn tôi đi gần một trăm mét, tới một lùm cây khác - nơi Beth, Mi ke đang ngồi cùng với anh Hai. Họ mắc mấy miếng ni-lông và vải xanh tiệp với màu cây rừng để che nắng cho chúng tôi, rồi lấy vài tấm ni-lông khác trải dưới đất để chúng tôi khỏi bị ẩm. Âm thanh mà tôi đã nghe là tiếng chặt cây để che những khoảng hở phía trên chỗ nấp. Nhăn Nhó báo cáo với anh Hai, và anh Hai nói Nhăn Nhó rất lo cho tôi vì anh đã hiểu lầm cách ra dấu của tôi. “Anh ấy nói anh ấy muốn chăm lo cho anh đặc biệt tốt" anh Hai nói. Tôi hài lòng vì được coi là quan trọng, có lẽ vì tôi là người của Pos - Disparch - một tờ báo quan trọng, nhưng anh Hai lại nói tiếp: “Anh ấy lo cho anh vì anh lớn tuổi hơn và có vẻ sợ hãi hơn những người khác." Tận đáy lòng, tôi không nghĩ tôi hoảng sợ hơn bất cứ ai, nhưng tôi quyết định là sẽ ứng xử tốt hơn. Trong sổ tay, khi ghi về sự cố này, tôi còn tự nhắc nhở: "phải giữ thái độ không lo lắng, thậm chí, phải can đảm lên."

Anh Ba, Wang và Ban Tun đi trinh sát, và quay lại, nói ngắn gọn rằng, máy bay đã đánh bom một khu rừng cách đây vài dặm, nơi chẳng có ai. Họ biết được rằng xe tăng đã theo con đường chạy ngang qua chỗ chúng tôi khoảng hai dặm. Tiếng xe đến gần nhưng rồi xa dần khi con đường chạy sát nách chỗ ẩn nấp của chúng tôi. Anh Ba lại bỏ đi, và tôi mong anh về với nồi cơm và bình nước nóng. Có thể đây sẽ là đêm đầu tiên chúng tôi ở ngoài trời, nhưng theo kinh nghiệm của mình, thì bất luận thế nào, du kích cũng không bao giờ bỏ bữa cơm. Cũng có thể chúng tôi sẽ phải đi bộ nhiều hơn và đi xe ít hơn vì sợ “phe bên kia" đã bắt được chiếc Land Rover. Nhưng vài phút sau, đã thấy anh Ba quay lại, báo rằng một người đưa tin từ trong làng ra cho biết lính Mỹ đã bỏ đi và chúng tôi có thể về nhà an tòan để dùng bữa tối. Chúng tôi đi bộ dưới ánh hoàng hôn, băng qua những đồng lúa, ra đường lớn hướng về làng. Chúng tôi không còn là kẻ xa lạ được che giấu, mà đã trở thành những "cựu binh" từ một trận đánh đe dọa tính mạng của tất cả mọi người. Từ đây sự có mặt của chúng tôi hẳn là đã được nhiều người biết đến. Dân làng vẫy tay và mỉm cười với chúng tôi, và khi đến nhà, gia đình người Campuchia nồng nhiệt chào đón chúng tôi. Tốt hơn cả, bữa ăn tối dọn sẵn cho tất cả cùng ăn: gia đình chủ nhà, các du kích, ba phóng viên bị bắt. Tất cả chúng tôi ngôi quây quần quanh hai nồi cơm lớn, bên cạnh những bát canh gà, cá kho và đậu rán. Chủ nhà mang ra một chai rượu đế, rót đầy ly, rồi chuyền cho từng người một uống. Có tiếng máy phát thanh ở đâu đó, và tôi nghe một bài hát tiếng Campuchia, xen lẫn tiếng kêu của những con vật. Tôi bỗng nhớ đến bài "ông già Macdonald có một trang trại", và cả ba chúng tôi - Mike, Beth và tôi cùng hát vài câu kết thúc với tiếng kêu “quác, quác" và "ộc, ộc". Đó là một bữa cơm đầy tình thân và ấm áp, nhưng nó kết thúc bất ngờ khi anh Tư bảo chúng tôi rằng ngôi làng không phải là nơi an toàn để qua đêm và chúng tôi phải rời đi tức khắc.

Như thường lệ, chiếc Land Rover đậu dưới chân cầu thang chờ sẵn. Chúng tôi lên phía sau xe và xe bắt đầu lăn bánh, tạm biệt bao nhiêu bàn tay vẫy và những lời chúc may mắn. Chúng tôi chạy trên con đường làng gập ghềnh. thỉnh thoảng băng qua các cánh rừng, các đồng trống và cuối cùng đến một đồng lúa bằng phẳng. Những ruộng lúa ngập nước vẫn trải dài mút mắt, phản chiếu ánh hỏa châu lập lòe xa xa. Anh Hai - uống khá nhiều rượu đế - ngồi cùng băng sau với chúng tôi và vui hơn thông lệ. Đôi má tròn rung lên và đuôi mắt nhăn lại khi anh cười theo câu chuyện này đến câu chuyện khác. Một câu chuyện kể về một cuộc nhậu mà khi tỉnh dậy anh thấy quần áo của mình đã mặc lộn ngược. Các du kích khác là những khán giả nhiệt tình. Tiếng cười của họ khuyến khích anh chuyển sang một câu chuyện khác. Anh kể về trận đánh của quân mặt trận dân tộc giải phóng, có lẽ trong cuộc tấn công năm 1968, nhằm chiếm thị trấn của Tỉnh Kiến Hòa. Mặc dù thất bại, thay vì thất vọng, họ quyết định sáng tạo ra những chức vụ khôi hài mà họ sẽ được tưởng thưởng một khi, cuối cùng, họ chiến thắng cuộc chiến tranh, như Giám đốc Kiểm tra và Nếm thử rượu đế hay Bộ trướng Bộ Tán tỉnh và Hôn nhân.

Đang lúc vui vẻ, chúng tôi nhận thấy có ánh đèn nhấp nháy... phía sau chúng tôi chừng một dặm. Có ai đang tiến gần và không có cách gì để biết đó là bạn hay thù. Tài xế của chúng tôi rẽ vào con đường đê hẹp nằm giữa cánh đồng. Chúng tôi chạy được chừng một dặm thì xe bị xóc nẩy lên, chao về phía phải rồi dừng hẳn trên một bờ lề dốc. Leo ra khỏi xe, chúng tôi thấy nó tông phải một đầu ống cống xi măng. Hai bánh xe phải đã bị trượt khỏi bờ đường, để bụng xe nằm sát trên đường. Máy hai cầu chẳng giúp gì. Cả hai bánh phải đều không kiểm soát được khi tài xế nổ máy xe. Bị kẹt ở đây thì rất nguy hiểm. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe tiếng máy bay do thám. Chúng tôi e rằng máy bay quan sát có thể phát hiện hình dáng chiếc xe dưới ánh sáng phản chiếu của hỏa châu trên cánh đồng ngập nước. Trăng đã lên cao và đang ra khỏi một đám mây, làm cho trời thêm sáng. Không có chỗ trốn, cũng không có chỗ để chạy trừ con đường hẹp cả phía trước và sau, còn hai bên đường thì bùn ngập tới đâu gối dài hàng dặm. Tài xế, một thanh niên gốc miền Nam, đội chiếc mũ kiểu phương Tây, và không muốn bất cứ ai điều khiển xe thay minh nên làm hết sức để đưa chiếc xe trở lại trên đường Anh bảo vài người khác dùng xẻng đào một cái rãnh nhỏ để chúng tôi có thể đẩy chiếc xe trở lui trên mặt đường bằng phẳng. Chúng tôi cố gắng làm như thế nhiều lần, trong khi “bác tài" tập trung dùng xà-beng nạy bánh xe lên, nhưng hai bánh xe sau vẫn kẹt trong chỗ bể của cống xi măng. Trừ lúc được yêu cầu phụ đẩy xe, cả ba phóng viên chúng tôi ngồi bệt bên vệ đường với xà-rông trùm kín đầu để đoàn người gồm du kích và dân thường đang vượt qua không nhìn ra khuôn mặt phương Tây của chúng tôi.

Chị y tá lúc này đang giữ nhiệm vụ chỉ huy giao thông, luôn miệng hối thúc đoàn người nhanh chân vượt qua chiếc xe “mắc kẹt", rồi bảo chúng tôi tiếp tục ngồi che kín mặt lại. Phần lớn chiến sĩ mang súng các-bin hoặc súng trường và đeo loại ba-lô nhỏ như các du kích hộ tống chúng tôi. Vài người mang vũ khí nặng như súng cối, súng không giật và có thể cả đại liên. Có cả thương binh chống nạng hay, trong vài trường hợp được cáng bằng võng. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy đoàn người lại đông như thế ngay trong bán kính chỉ vài dặm thuộc các căn cứ hỏa lực Mỹ. Một cảm giác an toàn hơn khi có nhiều đơn vị xuất hiện cùng chúng tôi trong khu vực trống trải này. Trong đoàn quân cũng có vài phụ nữ, thậm chí có một người đẹp bất ngờ, với mái tóc uốn cong theo kiểu Pháp. Dáng chị cao ráo, với bộ quân phục ka ki mặc trên người. Chị tình cờ đến chỗ chúng tôi ngay lúc có một gia đình với đồ đoàn nội trợ lỉnh kỉnh chất đầy trên một chiếc xe bò bị chiếc xe của chúng tôi chặn đường. Chị ra lệnh cho người đánh xe đi vòng xuống ruộng, rồi leo lên đường, vượt qua chúng tôi.

Sau này nhờ theo cách này của chị mà chúng tôi đưa xe thoát ra chỗ kẹt. Trước đó, chúng tôi gần như buông xuôi. Có lẽ do kiêu hãnh, các du kích không muốn nhờ các chiến sĩ của đơn vị bạn đang đi qua đẩy xe giúp, hoặc nhờ bò kéo xe ra. Đang tuyệt vọng thì vận may lại đến khi khoảng hai mươi thanh niên từ trong ngôi làng gần đó, kéo nhau ra giúp vì họ nghe các chiến sĩ đi ngang báo cho biết về tai nạn của chúng tôi. "Bác tài" nổ máy và nhóm trai tráng đẩy tới, kéo lui một hồi cho đến khi xe trượt thẳng xuống ruộng.

Mike nhảy xuống nước, phụ một tay. Nước ngập quá sàn xe, nhưng máy xe vẫn nổ. Trong khi bánh xe quay, toán thanh niên tiếp tục đẩy xe trong bùn về phía con đường. Rồi bác tài de lại, nhắm thẳng bờ, cho xe thoát ra khỏi đám ruộng, nằm hẳn trên đường. Mọi người đều đưa tay lên đầu và vỗ tay sung sướng. Các trai làng còn nán lại giúp chúng tôi tìm những ống cống bể khác có thể đe dọa xe của chúng tôi trên đoạn đường trước mặt. Mỗi lần tìm thấy một ống cống bể, họ lại nhảy xuống ruộng tìm những miếng gỗ, đá, gạch rồi vá lại, để xe chúng tôi qua.

Phải mất ít nhất hai tiếng đồng hồ. Mặt trăng treo lơ lửng trên đâu vào lúc chúng tôi tới bờ ruộng bên kia, để lại tiến sâu vào rừng. Xe chạy tiếp chừng vài dặm, rồi dừng lại ở một ngã tư khi thấy một toán chiến sĩ ngồi nghỉ hay ngủ quanh đó. Anh Tư dẫn chúng tôi đến một thân cây và bảo ngồi xuống, che mặt để khỏi bị để ý. Lúc này, sau khi to nhỏ với các du kích tại chỗ, những người hộ tống trở lại chỗ chúng tôi, và chúng tôi bắt đầu đi bộ theo con đường nhánh. Còn chiếc Land Rover chạy theo con đường lớn. Chỉ vài phút sau, chúng tôi mới hiểu tại sao phải cuốc bộ. Những hố sâu được đào dọc hai bên, còn bề ngang thì ra gần nửa mặt đường. Như vậy có thể dễ dàng khóa con đường lại đối với xe hơi, mặc dù vẫn có nhiều xe gắn máy chạy qua. Tôi đoán mình đang đi vào vùng căn cứ của quân giải phóng. Càng có nhiều dấu hiệu chỉ rõ điều đó khi chúng tôi đi thêm năm dặm nữa, thỉnh thoảng dừng lại nghỉ, trước khi đến một làng nhỏ được bảo vệ cẩn mật với nhiều lính gác và đèn pin. Toán hộ tống chúng tôi trao đổi với lính gác, nhưng hình như có trục trặc vì vệ binh không đồng ý cho tiến xa hơn. Anh Tư đưa chúng tôi đến một chòi tranh, không có gì ngoài một chiếc giường trơ trụi, vài băng ghế và mái nhà trên đầu. Khoảng sáu người lính đang ngủ ở đó với súng ống và ba-lô bên cạnh. Chúng tôi rất mệt, nên Beth và Mi ke ngã vật xuống nền nhà đầy bụi và đi ngay vào giấc ngủ. Tôi ngồi xuống băng ghế, mơ màng, thỉnh thoảng ném một cục đất để đuổi chú heo hay chú trâu mon men lại gần hai đồng nghiệp của tôi. Anh Tư, anh Ba và những người khác tiếp tục đi vào làng, có lẽ để dàn xếp cho chúng tôi một chỗ ở. Một giờ sau họ trở lại và đưa chúng tôi vào làng - những ngôi nhà rải rác, trải dài chừng nửa dặm. Chúng tôi đi qua một dãy nhà thấp lợp tranh với cái bảng treo bên ngoài: “Bệnh viện căn cứ”.

Y tá lẫn những thương binh băng bó hay chống nạng đi ra đi vào. Rồi, chúng tôi đến một dãy nhà gỗ. Chúng tôi chờ ngoài cổng, còn anh Ba, anh Tư và Ban Tun vào trong trao đổi gì đó với chủ nhà - một ông cụ tóc bạc nhưng bộ dạng còn lanh lẹ. Nhìn cử chỉ của ông, tôi đoán có lẽ ông từ chối cho chúng tôi ở lại chỗ ông. và khó khăn lắm anh Ba, anh Tư và Ban Tun mới thuyết phục được ông lão đi cùng họ để tìm chỗ ở một căn nhà khác. Chúng tôi đi qua ba căn nhà nhưng không được căn nào, còn ông lão vẫn khăng khăng không chịu đi nữa, trước khi chúng tôi tìm được một nhà cho chúng tôi vào. Trời đã sáng, còn chúng tôi quá mệt sau hành trình dài hai mươi sáu giờ đến nỗi không còn thiết chỗ ở ra sao. Chúng tôi ngã người trên chiếu và ngủ thiếp đi.

Khi anh Tư đánh thức chúng tôi dậy ăn sáng vài giờ sau, anh giải thích lý do đã gây phiền hà cho chúng tôi: "Dân vùng này không biết chúng tôi. Khi họ thấy chúng tôi đi với ba người Tây, họ không tin chúng tôi là lực lượng cách mạng. Nhưng chúng tôi đã cho họ xem hình của Sihanouk và Chủ tịch Hồ Chí Minh và đã thuyết phục được họ. Bây giờ thì họ đã đón tiếp chúng ta, đã mang thức ăn đến." Anh không quên nói thêm về phía bên kia: "Bọn lính Thiệu-Kỳ không bao giờ làm như vậy. Họ sẽ bắt bỏ tù những người dân lành không tuân theo ý họ."

Sau đó, anh Hai nói với chúng tôi thêm vài tin tức về cuộc tấn công ngày hôm trước. Anh nói có 110 xe tăng và 3.000 lính tham gia cuộc càn quét cách ngôi nhà chúng tôi đã dùng bữa sáng và sau đó trở lại ăn tối chưa đầy hai trăm mét. Anh nói lực lượng tấn công chỉ cách chỗ nấp của chúng tôi trong rừng chừng hai dặm, nhưng như thường lệ, đội quân đó chỉ bám lấy con đường lớn và do đó không thể tìm ra chúng tôi. Anh Hai kể lính Mỹ đã đi sâu vào ngôi chợ trong làng và hiếp dâm một phụ nữ. Cũng như những chuyện tương tự, không có cách nào xác minh sự thật cả.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx