sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 8: Tấn Công 2

Ngày 9 tháng Sáu khởi đầu một cách u ám và không hề có điềm báo nào rằng đây sẽ là một trong những ngày nguy hiểm nhất và đầy ý nghĩa nhất trong đời chúng tôi. Các cơn mưa đầu mùa từng giữ chúng tôi ở trong nhà đã tạm ngưng, và anh Hai nói rằng sẽ đưa chúng tôi vào rùng lần nữa. Thời gian chúng tôi bị bắt đã vừa tròn một tháng từ hai ngày trước đó, mà vẫn chưa có dấu hiệu chắc chắn nào về việc liệu chúng tôi sẽ được sớm thả ra hay là chúng tôi sẽ bị giam giữ cho đến khi cuộc chiến kết thúc, hoặc để "cải tạo" chúng tôi, hoặc để thực hiện một kế hoạch nào đó nhằm từng bước sử dụng chúng tôi, những nhà báo bị bắt giữ, vào việc phục vụ tổ chức cách mạng.

Anh Ba và Ban Tun dẫn chúng tôi băng qua những cánh đồng vào lúc rạng đông. Không có một bóng người nào khác. Chúng tôi lách qua những vũng nước do trận mưa ngày hôm trước để lại, thận trọng lần bước để tránh các dây leo và các cọc nhọn trên nền đất vừa được phát quang làm một cánh đồng bắp nhỏ. Chúng tôi tiến thẳng đến túp lều nơi cất giữ các bao thóc. Tại đó họ để chúng tôi được ở riêng với nhau. Anh Ba mắc võng giữa hai thân cây, còn Ban Tun nằm trong gian nhà chái đánh một giấc trước bữa ăn. Lần này đã biết mục đích của một ngày ở trong rừng là nhằm tạo cho chính chúng tôi sự thoải mái và bớt nhàm chán, chúng tôi đã tận dụng sự tự do có giới hạn đó. Sau khi phơi quần áo còn ẩm do mới giặt tối hôm trước, Mike chọn một nhánh cây thẳng để gọt đẽo cho mình một đôi đũa. Rồi anh ấy và Beth đi một đoạn ngắn theo hai hướng ngược nhau trên con đường mòn và tập các động tác thế dục như cúi mình xuống và chạy tại chỗ. Tôi lo đi lùng kiếm các sợi dây rừng dài và dẻo để chuẩn bị làm vài thứ. Trước hết là sợi dây nịt tạm thời cho Beth. Cả bọn chúng tôi đều đã giảm cân, và những chiếc quần của Beth đã bị xệ xuống. Chúng tôi luồn một sợi dây rừng qua mép quần rồi cột lại để kéo căng ra, giữ cho quần ở vị trí thích hợp. Tôi cũng lấy làm mãn nguyện vì mình vẫn còn bện được một cái nút theo kiểu Thổ Nhĩ Kỳ, điều mà tôi từng làm hồi ở hướng đạo bốn mươi năm trước, và thế là có một cái vòng để giữ cái xà-rông ngay ngắn quanh cổ tôi. Sau cùng, sợi dây kéo của cái túi xách của tôi đã hỏng, và tôi cần thêm một sợi dây rừng nữa để đóng túi lại được.

Ban Tun tham gia với chúng tôi sau bữa ăn sáng, phô diễn kỹ năng của một người thợ rừng. Anh rà soát khu đất rồi dừng lại, đào lên một con châu chấu lớn mà anh đã phát hiện được nhờ cái lỗ thông hơi bé tí của nó. Anh cất nó vào túi áo, để dành cho bữa ăn chiều. Sau khi bắt thêm vài con nữa, anh xách khẩu súng trường đi tìm bắn mấy con chim bồ câu, thế là chúng tôi lại có khoảng thời gian riêng với nhau. Chúng tôi nói chuyện về thi ca, về lịch sử Mỹ và Trung Quốc, và rồi tới câu chuyện cố hữu ấy là chúng tôi thích ăn gì trong bữa ăn đầu tiên khi trở lại Sài Gòn (Mike quả quyết chọn món sữa chua và trái mơ khô). Mike bắt đầu dạy một bài tiếng Việt mà không có hệ thống gì cả, rồi Beth luyện tiếng Pháp với anh ấy một lát. Đến trưa thì ngày hôm đó đã trở nên khá buồn tẻ.

Đột nhiên, chúng tôi nghe thấy tiếng máy bay trực thăng từ xa. Ngay lập tức anh Ba nhanh chóng tháo võng ra và xếp lại, còn Beth thì quơ vội mớ quần áo đang phơi trên mái hiên và các bụi cây. Ban Tun khom mình đằng sau một thân cây lớn với túi đồ và khẩu súng cacbin của anh. Ba người chúng tôi ngồi trong chòi, dựa lưng vào các bao thóc, chống cằm trên đầu gối. Anh Ba bảo chúng tôi cứ nấp kín và dù có chuyện gì xảy ra cũng đừng bỏ chạy.

Cành lá trên đầu chúng tôi quá rậm rạp nên chỉ thấy được một chút bầu trời, nhưng lại nghe rõ tiếng rền của các động cơ máy bay trực thăng. Nghe như chúng ở ngay trên đầu chúng tôi. Anh Ba chộp lấy khẩu súng trường M-16 của anh ấy rồi chạy xuyên rừng theo hướng ngược với cái làng chúng tôi đang ở. Ban Tun đợi một lát cho đến khi các chiếc trực thăng đổi hướng đi nơi khác, rồi anh ra lệnh cho chúng tôi xuống nấp ở bên dưới cái chòi. Tôi quơ túi xách và giày dép, và chúng tôi cùng với người lính Campuchia bò vào lớp bùn nhão trong khoảng trống thấp lè tè ngay phía dưới các bao thóc.

Đáng sợ thật. Mike đã từng vài lần bảo tôi và Beth rằng máy bay trực thăng là tệ hại nhất. Máy bay phản lực và máy bay cánh quạt bay quá cao và quanh lại quá chậm nên không thể phát hiện và tấn công người ở dưới đất. Xe tăng có thể chuyển động nhanh, nhưng chúng thường bám sát các trục lộ, hơn nữa, người ta có thể chạy qua một bên và dễ tránh được chúng. Nhưng máy bay trực thăng thì, như Mike nói, có thể săn đuổi một người trên mặt đất như mèo săn đuổi chuột và hạ gục anh ta bằng súng máy. Lúc ấy Mike thì thào rằng vận may lớn nhất của chúng tôi là những người trên trực thăng không nhìn thấy những đường viền hình vuông trên mái chòi xuyên qua các cành cây. Các bao thóc có thể cản đạn súng máy, anh nói, nhưng hỏa tiễn sẽ xuyên thằng qua. Các máy bay trực thăng quay lại, và chúng tôi có thể nghe thấy chúng đang đảo vòng và chúi xuống, âm thanh lớn đến nỗi chắc chúng ở ngay trên đầu chúng tôi. Chúng tôi nghe được ít nhất là một tràng súng máy và đoán rằng đó là “loạt đạn trinh sát", tức là kỹ thuật bắn súng hú họa để làm cho các du kích trên mặt đất phải tự bộc lộ vị trí bằng cách bắn đáp trả. Sau bốn mươi lăm phút các máy bay trực thăng chuyển hoạt động tới vị trí cách đó chừng vài trăm thước, và sau khoảng mươi, mười lăm phút nữa thì chúng bay đi hẳn.

Anh Ba quay lại, nhặt túi đồ của anh ấy lên, và bảo chúng tôi chuẩn bị di chuyển. Anh nói: "Hãy mang theo túi xách. Chúng ta sẽ đến một chỗ khác. Chỗ này dễ bị tấn công quá." Ban Tun dẫn đường men theo một con đường mòn đầy cỏ dại trong rừng, trong khi anh Ba đi theo một hướng khác. Chúng tôi gạt những nhánh cây và đạp trên dây rừng mà đi, được khoảng một phần tư dặm thì đến một cái hố trũng bên dưới một cái cây rậm rạp. Các lùm cây nhỏ đã mọc lan trên các cành thấp của cái cây ấy, làm thành một mái che dày đặc. Chúng tôi ngồi xuống đó yên lặng và không cử động trong nửa giờ, với khả năng là các máy bay sẽ quay lại hoặc cuộc không kích hồi nãy sẽ được tiếp nối bằng một cuộc tấn công đường bộ.

Rồi chúng tôi đợi thêm nửa giờ nữa trong lúc Ban Tun đi thárn sát khu vực chung quanh. Anh ấy quay lại với một mớ cam dại nhỏ và chua lè, và chúng tôi cố ăn các trái cam ấy cho qua thời gian. Chúng đắng nghét và đặc quánh, cứ như thể ăn một loại nhựa cây có hương chanh.

Cuối cùng thì anh Ba đã trở lại, tươi cười và tự tin, nom vẫn bảnh bao và tinh tươm như thường lệ. Anh gác khẩu súng trường lên một khúc cây, lột cái nón cối màu vàng nâu, rồi ngồi xổm xuống, bắt đầu tường trình về chuyện đã xảy ra. Gạt bỏ đám lá khô để tạo ra một ô đất trống, anh vẽ lên đó một bản đồ thô sơ bằng một nhánh cây. Một chữ X để đánh dấu vị trí túp lều, và một vòng tròn gần chữ X để diễn tả đường bay của các trực thăng trong thời gian bốn mươi lăm phút chúng ở trên đầu chúng tôi.

Anh nói: "Đó là các trực thăng của Mỹ. Trong đó có một chiếc bay cao hơn ngọn cây chỉ khoảng mười lăm mét để lùng kiếm mục tiêu. Nó bay thấp đến nỗi sức gió từ cánh quạt đã làm cây cối nghiêng ngả và có thể làm lộ ra đường nét của túp lều. Tôi đã nhìn thấy người và súng máy trên chiếc trực thăng bay thấp nhất. Có một chiếc Cobra ở độ cao hơn, và cao hơn nữa là hai chiếc trực thăng khác".

Vạch thêm một đường cong ở phía bên kia khu vực bị tấn công, anh Ba nói rằng đó là nơi anh đã chạy khi các trực thăng bắt đầu tiến lại gần túp lều.

Anh kể: "Tôi đã tự để lộ mình và bắn ba phát vào chiếc trực thăng thấp nhất. Việc này khiến chúng tưởng rằng các chiến sĩ tụi tôi đang ở đằng đó và đánh lạc hướng chú ý của chúng khỏi căn lều mà các anh đang ẩn nấp. Chúng bắt đầu bay quanh chỗ đó để tìm cách tấn công chúng tôi. Nhưng tôi đã chạy vào rừng rồi quay lại túp lều.

Ngừng một lát, anh vỗ vào khẩu M-16 tịch thu được của Mỹ, nói: "Đây là một vũ khí kém. Nếu như tôi đã xài một khẩu AK-47 thì đã bắn trúng cái trực thăng ấy rồi."

Anh Ba nói rằng loại súng tiểu liên của Trung Quốc có thề bắn hạ một chiếc máy bay ở độ cao hơn năm trăm mét. Anh cho biết anh đã bắn hạ một chiếc trực thăng vài ngày trước khi chúng tôi bị bắt và còn kể tên bốn loại máy bay khác, trong đó có cả chiến đấu cơ Phantom F-4, mà anh nói rằng anh đã từng bắn hạ bằng khẩu súng Trung Quốc đó.

Rồi anh nói: "Điều tồi tệ nhất mà các anh đã có thể làm trong cuộc tấn công vừa rồi là chạy ra khoảng trống để tự lộ mình cho người Mỹ thấy. Tôi có đeo theo khẩu súng ngắn này bên hông, và nếu như điều tồi tệ đó xảy ra, tôi đã phải bắn các anh. Nhưng tôi biết các anh không làm như vậy. Tôi không nói nhiều. nhưng đã quan sát kỹ các anh. Tôi biết rằng các anh là người tốt."

Lần đầu tiên, anh kể cho chúng tôi đôi điều về anh. Anh đã chiến đấu chống Pháp tại Việt Nam, hiển nhiên là ở Đồng bằng sông Cửu Long về phía nam, trong nhiều năm cho tới khi Hiệp định Geneve đem lại một nền hòa bình tạm thời. Rồi anh sinh sống ở Phnom Penh, đi học, và trở thành một ngôi sao bóng dá, là thành viên một đội tuyển Campuchia trong một giải bóng đá quốc tế. Anh nói anh đã từng viết một cuốn sách về bóng đá. Nhưng rồi cuộc cách mạng bắt đầu trở lại, và anh đã trở lại với cuộc sống của một du kích suốt từ năm 1960.

Mike hỏi anh Ba phải mất bao lâu để huấn luyện một người thành một chiến sĩ du kích giỏi. Anh Ba đáp: "Một năm. Đủ để biết được liệu anh ta có ý chí chịu đựng chiến tranh và gian khổ hay không."

Bầu không khí thoải mái sau cơn nguy hiểm của cuộc tấn công có vẻ thích hợp để hỏi một câu hỏi đã ảm ảnh chúng tôi hầu như từ ngày đầu tiên: "Anh có thích công việc mà anh đang được phân công này không?" Anh trả lời thẳng thắn: “Chắc các anh còn nhớ các trận tấn công vừa qua khi chúng ta phải bỏ chạy trước các cuộc không kích và trước quân địch đang tiến đến. Nếu không có các anh, tôi đã tham gia tất cả các cuộc chiến đấu đó, trụ vững và bắn đến cùng. Tôi sẽ ở trong số những ngươi cuối cùng phải bỏ chạy." Anh nói anh đã bị thương ba lần và cho chúng tôi thấy các vết sẹo ở chân và lưng để chứng minh, nhưng anh tự hào vì chưa bao giờ ngưng chiến đấu quá một tháng. Anh là một người du kích tự nguyện, và anh thích điều đó.

Chúng tôi chưa từng cảm thấy gần gũi nhau đến thế. Chúng tôi cùng trở lại túp lều, đợi ở đó cho đến tối, là lúc chúng tôi có thể an toàn quay về căn nhà ăn bữa cơm chiều. Trong khi chờ đợi, Wang đem ra một bình trà đầy nước đã đun sôi; và vì không có ly nên anh đề nghị chúng tôi ngửa nắp bình ra để uống.

Tới lúc ấy, do chúng tôi đã đạt được tiêu chuẩn trong sự đánh giá của anh về chúng tôi, anh Ba đã thổ lộ đôi điều mà anh vẫn giữ kín. Anh hỏi: “Các anh có còn nhớ vào ngày các anh bị bắt, khi các anh bị trói ngồi dưới đất và bị bịt mắt, có một ngươi đã nói chuyện với các anh và nới lỏng dây trói rồi nói rằng các anh sẽ không bị bắn và nếu các anh đúng là phóng viên thì sẽ được trả tự do chứ?” Rồi anh nói với Mi ke: "Ấy, tôi chính là người đã đến và nới lỏng dây trói. Anh đã hỏi tôi có phải là một đại úy không, và tôi trả lòi rằng tôi chỉ là một trung úy thôi. Tôi đã nói như thế chỉ là để cho qua chuyện thôi." Không nói ra cấp bậc thật sự của mình, anh muốn ngụ ý là cấp bậc của anh cao hơn thế một chút.

Anh nói: “Tình thế của các anh lúc đó rất là hiểm nghèo. Dân chúng muốn giết các anh." Anh dùng cụm từ "danh chet " (đánh chết). Rồi nói tiếp: “Và có người muốn làm hại quý bà" - ý nói Beth. "Tôi cử hai người lính ở với các anh rồi giao nhiệm vụ cho một người lính khác ở với bà ấy. Sẽ là điều không đúng nếu người ta giết các anh khi không biết rõ các anh là người tốt hay xấu." (Ngụ ý của anh là nếu chúng tôi là "người xấu” thì giết chúng tôi cũng được thôi.) "Người Campuchia thì còn chưa hiểu rõ về chuyện này và trong một thời gian dài đã không tham gia cách mạng nên họ làm một số điều không tốt.”

Anh Ba tiếp tục câu chuyện về cái ngày đầu tiên ấy: "Chiều hôm đó, lúc anh nói chuyện với người đàn ông to lớn - anh còn nhớ ông ấy chứ hả? - và ông ấy bảo anh rằng anh Ba sẽ chịu trách nhiệm về các anh. Là tôi đó. ông ấy bảo tôi rằng đây là trách nhiệm của tôi. Dù xảy ra chuyện gì, tôi phải bảo vệ an toàn cho các anh. Đây là mối bận tâm chính của tôi trong mấy tuần lễ chúng ta sống với nhau vừa qua. Tôi muốn các anh sống. Tôi muốn thấy các anh bình yên về với gia đình. Tôi chỉ muốn các anh hội ngộ lại với gia đình."

Sau đó anh dặn dò thêm một số điều, và trở lại điều mà anh đã dặn trước đó: "Dù xảy ra chuyện gì, đừng bỏ chạy hay gọi người Mỹ. Sớm muộn gì thì các anh cũng sẽ được thả. Nếu các anh tự để lộ diện thì chỉ gây ra vấn đề cho chúng ta mà thôi. Tôi có khẩu súng ngắn ở bên hông đây. Nếu buộc phải làm trong tình huống nguy hiểm thì tôi có thể bắn các anh. Nhưng dù xảy ra chuyện gì, tôi cũng sẽ không làm điều đó."

Mike nói với anh ấy rằng chúng tôi hoàn toàn tin lời anh ấy về việc sẽ đưa chúng tôi sống sót ra khỏi tình thế này và chúng tôi sẽ không bỏ chạy. Tôi cảm nhận là anh Ba cũng tin điều Mike nói và anh ấy đã hiểu rằng sẽ không bao giờ phải khơi lại vấn đề bắn hay không bắn chúng tôi nữa.

Anh nói: "Tôi hiểu. Sống với nhau một thời gian, người ta có thể hiểu nhau. Tôi thường ít nói, nhưng tôi hiểu những chuyện này."

Ngừng một lát, anh Ba quyết định tiến thêm một bước nữa. Anh nói bằng tiếng Việt.

Nghe xong, Mike quay qua Beth và tôi, khuôn mặt gầy gò của anh phản ánh sự lo âu xen lẫn xúc động. Mike nói: "Tôi không biết có nên phiên dịch lại câu này không, tôi có thể hiểu sai, nhưng tôi nghĩ là điều anh ấy nói là: Mặc dù chưa có ai nói cho các anh biết, nhưng các anh đã được đánh giá là các nhà báo chân thật và các anh sắp được thả."

Lúc ấy trời đã xâm xẩm tối. Chúng tôi đi bộ ra khỏi khu rừng rồi băng qua các cánh đồng dưới cơn mưa nhẹ, với các tấm xà-rông che trên đầu. Khi đến gần cái giếng, chúng tôi có thể nhìn thấy một số dân làng đang tắm. Ban Tun ra hiệu cho chúng tôi nấp vào bên một hàng cây thấp để đợi họ đi khỏi. Lúc ấy Beth đang tụt lại phía sau mấy bước. Tôi thấy cô ấy bước vội vào chỗ nấp, cặp mắt hé nhìn dưới tấm xà-rông và qua cặp kính có gọng bằng sừng màu mè, rồi khom mình xuống. Cảm giác nhẹ nhõm trước triển vọng được tự do đã bắt đầu ngấm, và bỗng nhiên cô ấy cảm thấy thích thú với vẻ mặt ngộ nghĩnh của chúng tôi khi đội các tấm xà-rông. Cô thì thào: "Tôi chưa bao giờ cảm thấy mình giống một nhân vật trong một cuốn phim hạng B như bây giờ."

Anh Hai đang chờ chúng tôi bên ngọn đèn dầu khi chúng tôi leo cầu thang lên căn nhà nhỏ. Trước đó Wang đã vào trong làng để mua sắm. Anh Hai đưa xà phòng cho chúng tôi và nói: "Các anh có thể tắm, nhưng phải nhanh lên, vì chúng ta sẽ di chuyển tối nay. Nhưng trước hết sẽ có một người ở cấp trên đến thăm các anh."

Đến bữa ăn tối, mọi người đều đói bụng sau một ngày dài nguy hiểm, căng thẳng và gắng sức. Mỗi người ăn ba đĩa cơm đầy. Chẳng cần đến lời khuyên ăn tốt của Ban Tun, nhưng anh ấy muốn bảo đảm chúng tôi được tăng cường sức lực cho chuyến đi sắp tới.

Chúng tôi rửa chén ở cái hiên nhỏ sau nhà rồi trở lại căn phòng chính. Mi ke và tôi mặc áo sơ-mi và chải đầu. Chúng tôi ngồi đợi.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx