sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 27

O Bên Ánh Lửa tháng Mười năm ấy là tháng hạnh phúc vô cùng, đầy những ngày ta cảm thấy như mình phải chạy nhảy rồi hát hò rồi huýt sáo. Mẹ đã khỏe lại, không chịu để đối xử như người dưỡng bệnh nữa, có những dự tính cho vườn tược, cười lại... Jem vẫn nghĩ mẹ có giọng cười rất đẹp đẽ, vui tươi... và trả lời không biết bao nhiêu là câu hỏi. “Mẹ ơi, từ đây đến hoàng hôn là bao xa?... Mẹ ơi, sao ta không gom ánh trăng tràn lênh láng được?... Mẹ ơi, có thật vào ngày Halloween linh hồn người chết về lại không?... Mẹ ơi, cái gì gây ra nguyên nhân?... Mẹ ơi, thà mình bị rắn chuông cắn chết còn hơn là hổ đúng không, vì hổ sẽ làm ta rối trí rồi ăn thịt?... Mẹ ơi, nơi kín gió nghĩa là gì?... Mẹ ơi, có đúng góa phụ là người đàn bà có giấc mơ thành sự thật không? Wally Taylor nói cậu ấy là một góa phụ... Mẹ ơi, khi trời mưa to thì lũ chim non làm gì?... Mẹ ơi, nhà mình có thật là một gia đình vô cùng mơ mộng không?”

Câu hỏi cuối là của Jem, ở trường cậu nghe bọn bạn đồn là bà Alec Davies nói vậy. Jem không thích bà Alec Davies, vì cứ mỗi lần gặp cậu đi với mẹ hay với bố thì bà đều huơ huơ ngón trỏ dài về cậu và hỏi, “Ở trường Jemmy có ngoan không?” Jemmy! Có lẽ họ cũng hơi mơ mộng thật đấy. Susan hẳn đã nghĩ vậy khi phát hiện lối đi lót ván đến nhà kho được trang hoàng thật phung phí những vệt sơn đỏ thắm. “Bọn cháu phải sơn thế cho trò trận giả, Susan à,” Jem giải thích. “Nó tượng trưng cho máu đổ.”

Ban đêm có thể sẽ có đàn ngỗng trời bay qua một mặt trăng đỏ ối và mỗi khi thấy chúng Jem thầm ao ước được bay đi cùng... đến những bến bờ xa lạ rồi đem về nào khỉ... báo... vẹt... những thứ đại loại thế... rồi thám hiểm Spanish Main[1].

[1]. Phần lục địa châu Mỹ bao quanh vùng biển Caribe và vịnh Mexico.

Với Jem thì một số thuật ngữ, như “Spanish Main” chẳng hạn, bao giờ nghe cũng có vẻ mời gọi khó cưỡng nổi... “những bí ẩn của đại dương” là một thuật ngữ khác. Bị quấn trong những vòng xoắn chết người của mãng xà và giao chiến với một con tê giác bị thương, thảy đều nằm trong công việc hằng ngày của Jem. Còn từ “rồng” thì làm cậu hồi hộp ghê gớm. Bức tranh cậu ưa thích nhất, dán trên tường dưới chân giường cậu, là hình một hiệp sĩ mặc áo giáp cưỡi con ngựa trắng mập mạp đẹp đẽ đứng trên hai chân sau trong khi kỵ sĩ cầm giáo đâm con rồng có cái đuôi lộng lẫy đầy những cuộn những vòng lướt thướt đằng sau, kết liễu nó bằng một cái chĩa. Phía sau một tiểu thư mặc váy hồng điềm nhiên thanh thản quỳ hai bàn tay chắp lại. Không còn nghi ngờ gì là thiếu nữ trông rất giống Maybelle Reese mà đây đó khắp trường Glen mấy cái liếc nhìn ưu ái chín tuổi đầu vẫn dành cho. Ngay cả Susan cũng nhận ra vẻ giống nhau và chọc Jem mặt đỏ lựng về chuyện đó. Nhưng con rồng thì quả là hơi thất vọng... nó trông thật nhỏ bé vô nghĩa dưới con ngựa cao lớn. Đâm nó thì dường như không có gì dũng cảm đặc biệt cả. Nhưng con rồng mà Jem cứu Maybelle thoát khỏi trong những giấc mơ thầm kín thì ra dáng rồng hơn nhiều. Hôm thứ Hai tuần rồi cậu đã cứu cô bé khỏi con ngỗng đực của Sarah Palmer. Biết đâu đấy... a, từ “biết đâu đấy” nghe thật là hay!... cô bé đã nhận ra vẻ kiêu mạn của cậu khi cậu chộp cái cổ như rắn của sinh vật kêu quang quác kia rồi liệng nó qua hàng rào. Nhưng không hiểu sao một con ngỗng đực còn lâu mới lãng mạn bằng rồng.

Tháng Mười ấy đầy gió... gió nhỏ lao xao trong thung lũng còn gió lớn thì quật trên mấy đọt cây thích... gió hú dọc bờ cát nhưng khi đến dãy núi đá thì lom khom nấp... khom mình nấp rồi nhảy vụt ra. Đêm, cùng những vần trăng đỏ ối ngái ngủ, đủ lạnh để ý nghĩ về một cái giường ấm trở nên dễ chịu, mấy bụi việt quất ngả màu đỏ tươi, dương xỉ úa màu nâu đỏ sẫm, mấy cây sơn cháy héo sau nhà kho những đồng cỏ xanh nằm đây đó như mảnh vá trên mấy cánh đồng đã gặt hái ở Bắc Glen, còn trong góc vân sam trên bãi cỏ, cúc đại đóa vàng và nâu đỏ nở rộ. Có bầy sóc ríu rít vui vẻ khắp nơi và dế kéo vĩ cầm cho những vũ điệu thần tiên trên cả ngàn ngọn đồi. Có táo để hái, cà rốt để đào. Đôi khi bọn con trai đi đào “vỏ sò” cùng thuyền trưởng Malachi khi mấy “con nước” bí ẩn cho phép... thủy triều vào vuốt ve đất liền nhưng rồi lại lùi về biển sâu. Mùi những đám lửa đốt lá khắp Glen, một đụn bí đỏ to trong kho, và Susan đã làm những chiếc bánh nam việt quất đầu tiên.

Bên Ánh Lửa rộn tiếng cười từ bình minh cho tới hoàng hôn. Ngay cả khi mấy đứa lớn hơn đi học thì Shirley và Rilla giờ cũng đã đủ lớn dể duy trì truyền thống tiếng cười. Ngay cả Gilbert mùa thu này cũng cười nhiều hơn bình thường. “Mình thích một ông bố biết cười,” Jem ngẫm nghĩ. Bác sĩ Bronson ở Mowbray Narrows không cười bao giờ. Người ta nói ông gây dựng sự nghiệp chỉ thuần bằng cái vẻ trí tuệ nghiêm nghị; nhưng cách bố hành nghề còn hay hơn nữa và khi người ta không cười nổi trước một câu đùa của bố thì chắc hẳn họ đã bị bệnh nặng lắm rồi.

Những ngày trời ấm Anne bận tíu tít trong vườn, uống lấy sắc màu như rượu mà nắng cuối ngày rót trên đám cây thích đỏ thắm, say sưa nỗi “buồn thấm thía của vẻ đẹp qua nhanh”. Một buổi chiều khói xám vàng óng ả cô và Jem ươm hết mấy bầu uất kim hương, nó sẽ hồi sinh những bông hoa hồng đỏ tím vàng trong tháng Sáu. “Chuẩn bị cho mùa xuân khi biết mình phải đối mặt mùa đông thú vị nhỉ, Jem?” “Làm đẹp khu vườn cũng thú vị nữa,” Jem nói. “Bà Susan nói chính Chúa là người làm cho khuôn vật đẹp đẽ nhưng ta có thể phụ Ngài một tay, phải không mẹ?”

“Luôn là thế... luôn là thế, Jem ạ. Ngài san sẻ cái đặc quyền ấy với chúng ta.”

Tuy vậy, không có gì mãi hoài toàn hảo. Người nhà Bên Ánh Lửa đang lo vì chú chim cổ đỏ. Nghe nói khi bầy chim cổ đỏ đi thì chú cũng sẽ muốn theo.

“Cứ nhốt nó lại cho đến khi mấy con kia đi cả rồi và trời có tuyết,” thuyền trưởng Malachi khuyên. “Bấy giờ đã gần như nó sẽ quên rồi mọi chuyện sẽ đâu vào đấy cho đến mùa xuân.”

Thế là chim cổ đỏ trở thành một kiểu tù nhân. Chú đâm đứng ngồi không yên. Chú bay tha thẩn quanh nhà hay đậu trên bậu cửa sổ bâng khuâng nhìn ra chúng bạn đang lục tục sửa soạn đi theo tiếng gọi huyền bí nào ai biết. Chú chẳng thiết ăn nữa và ngay cả sâu và mấy quả hạnh ngon lành nhất của Susan cũng không hấp dẫn được chú. Bọn trẻ chỉ ra cho chú thấy mọi hiểm nguy chú có thể chạm trán... lạnh, đói, lẻ bạn, bão, đêm đen, mèo. Nhưng chim cổ đỏ đã cảm thấy hay nghe thấy những lời hiệu triệu và toàn bản thể trong chú khát khao đáp lời.

Susan là người cuối cùng nhượng bộ. Suốt nhiều ngày bà rất ủ ê. Nhưng cuối cùng, “Thả cho nó đi đi,” bà nói. “Giữ nó là trái tự nhiên.”

Một ngày cuối tháng Mười chúng thả cho chú bay đi, sau khi đã nhốt chú cả tháng trời. Bọn trẻ khóc lóc hôn từ biệt chú. Chú hồ hởi bay vút lên, sáng hôm sau quay lại bậu cửa phòng Susan lấy vụn bánh và rồi sải cánh cho một chuyến bay thật dài. “Chắc đến mùa xuân nó lại về với mình thôi, con yêu,” Anne nói với Rilla đang thổn thức. Nhưng Rilla vẫn không thấy nguôi ngoai.

“Dzậy thì lâu quá,” cô bé nức nở.

Anne mỉm cười rồi thở dài. Bốn mùa mà đối với Rilla dường như rất lâu lại đang bắt đầu trôi quá nhanh đối với cô. Một mùa hè nữa đã qua, tàn dần vì màu vàng bất tử của những ngọn đuốc dương Lombardy. Chẳng mấy chốc... rất nhanh thôi... bầy trẻ Bên Ánh Lửa sẽ không còn trẻ con nữa. Nhưng chúng vẫn là của cô... để mỗi chiều tối cô đón mừng chúng về... để cô đong đầy đời sống bằng những điều kỳ lạ và niềm vui... để cô yêu thương và khuyến khích và quở mắng... một chút. Vì đôi khi chúng cũng rất hư, dù chúng không đáng bị bà Alec Davies gọi là “bọn quỷ Bên Ánh Lửa đó” khi nghe nói Bertie Shakespeare Drew bị cháy sém một tí lúc đóng vai thổ dân da đỏ bị thiêu trên cọc trong thung lũng Cầu Vồng. Phải một lúc lâu hơn dự tính Jem và Walter mới cởi trói được cho nó. Hai đứa cũng bị sém một chút mà nào có ai thương chúng đâu.

Năm ấy tháng Mười một là tháng muộn phiền... một tháng gió đông và sương mù. Có những ngày chỉ độc mỗi sương mù lạnh lẽo cuốn qua hay trôi trên biển xám bên kia cồn cát ngầm. Đám bạch dương run rẩy buông những chiếc lá cuối cùng. Khu vườn đã úa tàn và mọi sắc màu tính cách đều cạn khô trừ luống măng tây, vẫn là một tính cách đều cạn khô trừ luống măng tây, vẫn là một rừng nhiệt đới vàng ươm quyến rũ. Walter phải bỏ góc học trên cây thích mà học bài trong nhà. Trời mưa... cứ mưa... rồi lại mưa. “Có khi nào đất trời khô ráo lại không vậy?” Di rền rĩ chán chường. Rồi có một tuần đẫm trong sức quyến rũ của nắng thu muộn, vào những buổi chiều tối lạnh se sắt mẹ sẽ đưa que diêm lên nhóm bừng lò sưởi và Susan sẽ nướng khoai tây cho bữa tối.

Những chiều tối ấy lò sưởi lớn là trung tâm của gia đình. Sau bữa tối họ quây quần quanh lò sưởi và đó sẽ là sự kiện đặc biệt trong ngày. Anne khâu vá và dự trù một ít áo quần cho mùa đông... “Nan phải có một váy đỏ, vì cô bé rất cương quyết phải có”... thỉnh thoảng cô nghĩ về Hannah, năm nào cũng đan chiếc áo khoác nhỏ cho Samuel bé bỏng... Bao thế kỷ qua các bà mẹ vẫn luôn như thế. Một tình chị em cao cả trong tình yêu và phụng sự... người được và không được nhớ đến cũng như nhau.

Susan nghe bọn trẻ đánh vần rồi cả bọn được vui chơi tùy thích. Walter, sống trong thế giới những điều tưởng tượng và giấc mơ tuyệt đẹp, mải mê viết một loạt thư từ chú sóc chuột sống trong thung lũng Cầu Vồng gửi cho cậu sóc chuột sống đằng sau nhà kho. Khi cậu đọc cho Susan nghe thì bà vờ như chế giễu, nhưng bà âm thầm chép lại mà gửi cho Rebecca Dew.

“Tôi thấy mấy cái này đọc cũng hay hay, cô Dew thân mến ạ, dù có thể cô sẽ thấy chúng quá nhỏ nhặt không cần để tâm đến. Nếu vậy tôi biết cô sẽ thứ lỗi cho một bà già lẩm cẩm vì đem nó ra làm phiền cô. Ở trường thằng bé được xem là rất thông minh và ít nhất mấy tác phẩm này cũng không phải thơ. Tôi có thể nói thêm rằng tuần trước bé Jem được chín mươi chín điểm cho bài kiểm tra số học và không ai hiểu vì sao điểm kia bị trường đi. Có lẽ tôi không nên nói vậy, cô Dew thân yêu, nhưng tôi tin chắc rằng đứa trẻ này sinh ra để trở thành vĩ nhân. Có lẽ chúng ta không còn sống để thấy điều đó nhưng có thể cậu bé sẽ trở thành thủ tướng Canada.”

Tôm sưởi ấm trong quầng sáng từ lò sưởi còn cô mèo con Pussywillow của Nan, luôn khiến ta nghĩ đến một tiểu thư tuyệt trần tao nhã nào đó mặc đồ đen và bạc, thì trèo lên đùi mọi người không thiên vị riêng ai. “Hai con mèo, vậy mà chuột sục sạo khắp trong phòng đồ ăn,” là dấu ngoặc đơn bất bình của Susan. Bọn trẻ cùng trò chuyện về những cuộc phiêu lưu nho nhỏ còn tiếng than van của đại dương xa xa vọng qua đêm thu lạnh.

Thỉnh thoảng cô Cornelia ghé chơi một lúc khi chồng cô đang bàn chuyện trong tiệm Carter Flagg. Bọn trẻ sẽ dỏng hai tai dài lên nghe lén, vì bao giờ cô Cornelia cũng có những mẩu tin mới nhất nên chúng luôn được nghe những điều thú vị nhất về mọi người. Sẽ rất vui khi Chủ nhật tới ngồi trong nhà thờ nhìn người được nói đến, khoái trá nhấm nháp cái điều ta biết về họ, dù bề ngoài họ nghiêm nghị và đứng đắn là thế.

“Trời, sao nhà cháu trong này ấm cúng quá, Anne cưng. Đêm nay rét buốt thật mà tuyết lại bắt đầu rơi. Cậu bác sĩ đi rồi à?”

“Vâng. Cháu ghét thấy anh ấy đi... nhưng đằng Cửa Vịnh họ gọi nói bà Brooker Shaw cứ một hai phải gặp anh ấy.” Anne nói, trong khi Susan nhanh nhảu lén lút nhặt đi miếng xương cá to trên thảm lò sưởi Tôm tha vào, mong sao cô Cornelia không để ý thấy.

“Bà ta chẳng bệnh hoạn gì hơn tôi đâu!” Susan nói chua cay. “Nhưng tôi nghe kể bà ta có chiếc váy ngủ ren mới nên chắc là muốn cậu bác sĩ thấy mình mặc. Váy ngủ ren cơ đấy!”

“Cô con gái Leona mua từ Boston về cho bà ta đấy. Con bé về chiều thứ Sáu, cùng bốn rương đồ,” cô Cornelia nói. “Tôi còn nhớ chín năm trước con bé lên đường đi nước ngoài. Đó là khi con bé cảm thấy buồn vì bị Phil Turner phụ bạc. Con bé cố giấu nhưng ai cũng biết. Giờ con bé trở về chăm sóc mẹ, nó nói thế. Con bé sẽ cố tán tỉnh cậu bác sĩ cho xem, ta báo cho cháu biết trước đấy, Anne cưng. Nhưng ta nghĩ chuyện đó sẽ chẳng ăn thua gì với cậu ấy, dù cậu ấy là đàn ông. Vả lại cháu đâu có như phu nhân bác sĩ Bronson ở Mowbray Narrows. Cô ta rất hay ghen với các bệnh nhân nữ của chồng, ta nghe nói vậy.”

“Mấy nữ y tá chuyên nghiệp nữa chứ,” Susan nói.

“Thì đấy, một số nữ y tá chuyên nghiệp ấy quá xinh so với công việc,” cô Cornelia nói. “Giờ thì có Janie Arthur; con bé nghỉ giữa các ca và cố giữ cho hai anh chàng của mình không biết gì về nhau.”

“Con bé đó cũng xinh đấy, nhưng giờ nó cũng đâu còn trẻ trung gì nữa,” Susan nói dứt khoát, “nó nên chọn rồi yên bề đi thì tốt hơn nhiều. Nhìn dì Eudora của nó xem... cô ta nói chưa định cưới để còn bông đùa đã, rồi nhìn kết quả đấy. Vậy mà cứ thấy đàn ông là cô ta cố tán tỉnh dù chí ít cũng bốn mươi lăm tuổi đầu rồi. Khi mắc phải một thói quen rồi thì sẽ thế đấy. Cô bác sĩ thân yêu, cô nghe cô ta nói gì với cô em họ Fanny khi cô em họ đi lấy chồng chưa? ‘Cô đang lấy đồ thừa của tôi,’ cô ta nói thế đấy. Nghe kể đã có một trận đụng độ dữ dội và từ đó họ không nói chuyện với nhau nữa.”

“Sống chết gì cũng nằm trong quyền năng của cái lưỡi cả thôi,” Anne lơ đãng lẩm nhẩm.

“Nói đúng quá, cưng à. Nhân nói chuyện đó, ta ước ông Stanley khôn ngoan hơn một chút trong mấy bài giáo lý. Ông ta xúc phạm Wallace Young nên Wallace định bỏ nhà thờ. Ai cũng nói bài giáo Chủ nhật vừa rồi là dành cho Wallace.”

“Khi mục sư giảng một bài trúng một cá nhân cụ thể nào đó thì mọi người cứ tưởng nhằm vào chính người đó,” Anne nói. “Một cái mũ cũ thì thể nào chả vừa đầu ai đó, nhưng đâu có nghĩa nó được may cho anh ta.”

“Nghe có lý đấy,” Susan tán thành. “Mà tôi cũng không ưa gì Wallace Young. Ba năm trước ông ta cho một hãng vẽ quảng cáo trên đàn bò của mình. Tôi thấy vậy thì hà tiện thái quá.”

“Ông em David của ông ta cuối cùng cũng sắp lấy vợ rồi đấy,” cô Cornelia nói. “Lâu nay hắn vẫn tính xem thế nào thì rẻ hơn - cưới hay thuê người làm. ‘Không có đàn bà thì tôi cũng trông coi nhà cửa được nhưng nó sẽ rơi vào tình trạng khó khăn, Cornelia ạ,’ có lần hắn nói với tôi sau khi bà mẹ qua đời. Tôi nghĩ hắn đang ướm ý nhưng hắn không nhận được khích lệ nào từ tôi cả. Nên cuối cùng hắn sắp cưới Jessie King.”

“Jessie King! Vậy mà tôi tưởng hắn đang tán tỉnh Mary North chứ.”

“Hắn nói sẽ không cưới đàn bà ăn cải bắp. Nhưng nghe đâu hắn cầu hôn thì bị chị ta bạt tai cho. Còn nghe đồn Jessie King nói là chị ta thích có một ông chồng dễ coi hơn nhưng nếu là hắn thì cũng đành. Chao ơi, tất nhiên với một số người thì méo mó có hơn không mà.”

“Bà Marshall Elliott này, tôi nghĩ thiên hạ trong vùng đó không nói được phân nửa những gì người ta đồn thổi rằng họ nói đâu,” Susan trách. “Tôi nghĩ Jessie King sẽ thành người vợ tốt cho David Young hơn những gì xứng với hắn nhiều... dù nhìn bề ngoài mà nói thì tôi sẽ công nhận trông hắn cứ như bị thủy triều cuốn.”

“Cô có biết Alden và Stella sinh con gái rồi không?” Anne hỏi.

“Nghe nói vậy. Ta hy vọng trong chuyện con cái Stella biết điều hơn bà mẹ Lisette của con bé. Anne cưng ạ, cháu có tin được không, hồi xưa Lisette đã khóc quá trời vì con của cô em họ Dora biết đi trước Stella?”

“Mấy bà mẹ chúng cháu là hạng ngu muội mà,” Anne mỉm cười. “Cháu nhớ mình đã cảm thấy đằng đằng sát khí khi thằng bé Bob Taylor, hơn Jem một ngày tuổi, mọc được ba cái răng rồi mà Jem chưa mọc cái nào.”

“Bob Taylor bị cắt amidan,” cô Cornelia nói.

“Sao bọn con không bao giờ bị cắt hả mẹ?” Walter và Di đồng thanh hỏi, giọng điệu có vẻ phật lòng. Chúng thường cùng nói một thứ. Rồi chúng chắp tay lại ước một điều. “Bọn con nghĩ và cảm thấy như nhau về mọi thứ,” Di thường sốt sắng giải thích.

“Làm sao mà ta quên được đám cưới của Elsie Taylor?” cô Cornelia nói vẻ hoài niệm. “Bạn thân nhất của cô ta là Maisie Millison phải chơi nhạc đám cưới. Thay vì thế cô ta lại chơi Khúc truy điệu trong vở Saul. Dĩ nhiên cô ta vẫn luôn nói mình bối rối quá nên nhầm lẫn, nhưng thiên hạ có cách nghĩ riêng. Cô ta muốn Mac Moorside cho mình. Một tên xỏ lá dễ coi miệng lưỡi khôn khéo... luôn nói với phụ nữ đúng cái mà hắn nghĩ họ muốn nghe. Hắn bắt Elsie phải chịu khổ sở. Dù sao thì, Anne cưng ạ, cả hai đã về Cõi Tịch Liêu từ lâu còn Maisie thì cưới Harley Russell được nhiều năm nên ai cũng đã quên chuyện anh ta cầu hôn vì cứ tưởng cô ta sẽ nói ‘Không’ nhưng cô ta lại nói ‘Vâng’. Bản thân Harley cũng đã quên chuyện đó... đúng là đồ đàn ông. Anh ta nghĩ mình lấy được người vợ hoàn hảo nhất trên đời và tự chúc mừng mình đã đủ thông minh mà cưới được cô ta.”

“Sao anh ta lại cầu hôn khi biết cô ta sẽ từ chối? Tôi thấy việc đó có vẻ rất lạ lùng,” Susan nói... tức thì thêm vào với sự khiêm nhường khủng khiếp, “Nhưng dĩ nhiên tôi thì làm sao mà biết được những chuyện như thế.”

“Cha anh ra lệnh cho anh ta cầu hôn. Anh ta không muốn, nhưng nghĩ chuyện đó khá an toàn... Cậu bác sĩ về đây rồi.”

Khi Gilbert vào, một đám tuyết nhỏ lùa vào theo. Anh ném áo khoác ra rồi sung sướng ngồi xuống cạnh lò sưởi.

“Anh về trễ hơn dự kiến...”

“Chắc là áo ngủ ren phải quyến rũ lắm,” Anne nói, cười tinh quái với cô Cornelia.

“Em nói gì vậy? Anh thấy một số trò đùa của phụ nữ vượt quá nhận thức đàn ông thô tháp của anh. Anh đi Bắc Glen thăm Walter Cooper luôn mà.”

“Thật khó hiểu sao mà ông đó gượng thêm được,” cô Cornelia nói.

“Cháu hết kiên nhẫn với ông ta rồi,” Gilbert mỉm cười “Đáng ra ông ta phải chết lâu rồi chứ. Một năm trước cháu cho ông ta hai tháng mà giờ ông ta làm tiếng tăm cháu tiêu tùng vì vẫn còn sống.”

“Cháu mà biết nhà Cooper rõ như ta thì anh sẽ không liều tiên đoán cho họ đâu. Cháu không biết ông nội của ông ta sống lại khi họ đã đào huyệt và mua quan tài sao? Người lo tang lễ cũng không chịu nhận lại. Tuy nhiên ta đoán Walter Cooper sẽ thú lắm khi được diễn tập trước đám tang cho mình... đúng là đồ đàn ông. Thôi, tiếng chuông của Marshall kia rồi... còn lọ lê dầm này là cho cháu, Anne cưng ạ.”

Tất cả cùng ra cửa tiễn cô Cornelia. Đôi mắt xám sẫm của Walter ló nhìn ra đêm bão.

“Chẳng biết tối nay chim cổ đỏ ở đâu và nó có nhớ bọn con không,” cậu buồn rầu nói. Có lẽ chim cổ đỏ đã đến nơi bí ẩn mà bà Elliott luôn nhắc đến là Cõi Tịch Liêu.”

“Chim cổ đỏ đang ở một miền đất nắng ấm phương Nam rồi,” Anne nói. “Mùa xuân nó sẽ về, mẹ cảm thấy khá chắc như thế, mà vậy là chỉ còn năm tháng nữa thôi. Các bé yêu, đáng lẽ các con phải đi ngủ lâu rồi chứ.”

“Susan ơi,” Di hỏi trong kho lương thực, “bà muốn có em bé không? Cháu biết bà có thể lấy đâu ra một đứa... mới toanh nhé.”

“À há, đâu?”

“Đằng nhà Amy mới có một em. Amy nói các thiên thần đem em bé tới và nó nghĩ lẽ ra họ đã có thể sáng suốt hơn. Giờ nhà họ có tới tám đứa con rồi, không kể em bé đó. Hôm qua cháu nghe bà nói rằng Rilla đang lớn như thổi làm bà thấy lẻ loi... giờ thì bà sẽ không còn em bé nữa. Cháu chắc bà Taylor sẽ cho bà em bé của bà ấy.”

“Xem bọn trẻ nghĩ ra những thứ gì kìa! Nhà Taylor có nòi con đàn cháu đống mà. Cha của Andrew Taylor chẳng bao giờ nói ngay được mình có mấy đứa con... luôn phải dừng lại để nhẩm trong đầu. Nhưng bà nghĩ bà chưa cần lấy em bé nào ở ngoài đâu.”

“Susan ơi, Amy Taylor nói bà là gái già. Có phải không hả, Susan?”

“Đó là số phận mà Chúa vô cùng anh minh đã ban cho bà,” Susan nói không nao núng.

“Bà có thích làm gái già không vậy, Susan?”

“Bà không thể thật lòng là bà thích, cháu cưng ạ. Nhưng...” Susan nói thêm, nhớ đến thân phận một số bà vợ mà bà được biết, “bà đã biết ra rằng có những đền bù. Giờ thì đem bánh táo lên cho bố cháu đi, rồi bà mang trà sau. Anh chàng tội nghiệp chắc đói xỉu rồi.”

“Mẹ ơi, mình có gia đình đáng yêu nhất đời phải không?” Walter vừa nói vừa ngái ngủ lên lầu. “Nhưng mà có điều mẹ có nghĩ nếu ta có thêm dăm ba con ma nữa thì sẽ hay hơn không?”

“Ma ư?”

“Vâng. Nhà của Jerry Palmer đầy ma. Nó thấy một con một người đàn bà cao lêu đêu mặc áo trắng có bàn tay toàn xương thôi. Con kể cho bà Susan nghe thì bà nói nó bịa chuyện hoặc bụng nó bị gì rồi.”

“Susan nói đúng đấy. Còn Bên Ánh Lửa thì chỉ có những người hạnh phúc sống thôi... nên con thấy đấy, ta không có ma được đâu. Giờ thì con cầu nguyện rồi ngủ đi.”

“Mẹ, con nghĩ tối qua con hư. Con đọc, ‘Ngày mai xin hãy cho chúng con bánh mì hằng ngày,’ thay vì hôm nay. Thế nghe có vẻ hợp lý hơn. Mẹ nghĩ Chúa có để bụng không hả mẹ?”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx