sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ba tách trà - Chương 01

CHƯƠNG 1

Thất bại

Khi trời đủ tối bạn có thể nhìn thấy các vì sao.

- Ngạn ngữ Ba Tư

Ở Karakoram, Pakistan, nhô lên lởm chởm ngang qua vùng đất trơ trụi rộng một trăm dặm, hơn sáu mươi ngọn núi cao nhất thế giới ngự trị với vẻ uy nghiêm trên độ cao hoang vu không người biết đến. Ngoài báo tuyết và dê rừng núi Anpơ rất ít sinh vật đi qua mỏm tuyết trơ trụi này, nơi mà sự hiện diện của ngọn núi cao thứ hai trên thế giới, K2, chỉ là lời đồn đại với thế giới bên ngoài cho đến tận đầu thế kỉ 20.

Xuôi xuống từ K2 đến những vùng cao có người ở thung lũng Indus, giữa bốn chóp đá hoa cương của những ngọn Gasherbrum và mũi nhọn như dao găm giết người của những ngọn Great Trango Tower, chỉ có dòng sông băng Baltoro dài sáu mươi hai kilômét làm xáo động cái giáo đường lặng lẽ của đá và băng này. Ngay cả chuyển động của dòng sông băng, trôi dạt với vận tốc mười centimet một ngày, hầu như không thể nhận ra.

Chiều ngày 2 tháng 9 năm 1993, Greg Mortenson cảm thấy mình khó mà di chuyển được nhanh hơn nữa. Mặc bộ shalwarkamiz(5) màu bùn giống những người khuân vác Pakistan của mình, anh có cảm giác đôi ủng da leo núi màu đen nặng trịch đang tự động đưa anh xuôi dòng Baltoro theo tốc độ băng hà của nó, bởi một hạm đội những tảng băng trôi dàn ra như những cánh buồm của hàng nghìn con tàu bị băng giữ chặt.

5. Trang phục của người dân các nước Nam Á. Shalwa là kiểu quần xà rông. Kamiz là loại áo dài thắt ngang lưng.

Bất cứ lúc nào Mortenson cũng hi vọng tìm thấy Scott Darsney, một thành viên trong đoàn, người sẽ cùng anh trở lại với thế giới văn minh, đang ngồi trên một tảng đá, cười nhạo vì anh đi quá chậm. Nhưng vùng thượng Baltoro là một mê lộ chứ không phải là con đường mòn. Mortenson vẫn chưa nhận ra mình đã lạc đường và đơn độc. Anh đã đi trệch khỏi dòng chính của sông băng theo hướng không dẫn về phía tây, phía ngôi làng Askole ở cách năm mươi dặm nơi anh hi vọng tìm được một người lái xe jeep sẵn lòng chở anh ra khỏi những ngọn núi này, mà dẫn về phía nam, vào một mê cung không thể vượt qua của những thác băng vỡ và xa hơn, là vùng cao chết người, nơi quân lính Ấn Độ và Pakistan rót đạn pháo vào nhau qua bầu không khí loãng.

Thường thì Mortenson phải chú ý hơn. Anh phải tập trung vào thông tin mang tính sống còn, như việc Mouzafer, người khuân vác đã xuất hiện như một phép lạ và tình nguyện vận chuyển chiếc túi đựng đồ leo núi nặng trình trịch cùng chiếc lều và gần như hết thảy số thực phẩm của anh và phải giữ ông ta trong tầm mắt. Anh còn phải lưu ý hơn nữa sự đáng sợ của môi trường xung quanh.

Năm 1909, công tước Abruzzi, một trong những nhà leo núi vĩ đại nhất và có lẽ là người am hiểu nhất thời đại mình về những cảnh quan vách đá, đã dẫn đoàn thám hiểm người Ý lên đến Baltoro trong một nỗ lực không thành để lên đỉnh K2. Ông kinh ngạc trước vẻ đẹp trần trụi của những đỉnh núi bao quanh.

“Nói về vẻ đẹp vùng núi cao thì không gì có thể so sánh được,” ông ghi lại trong nhật kí. “Đó là thế giới băng hà và núi đá lởm chởm, một quang cảnh lạ thường có thật làm hài lòng người nghệ sĩ cũng như nhà leo núi.”

Nhưng khi mặt trời lặn về phía tây sau những đường răng cưa hoa cương lớn của ngọn Muztagh Tower và bóng tối quét lên các vách thung lũng phía đông về phía núi đá liền khối như lưỡi dao găm Casherbrum, Mortenson hầu như không nhận thấy. Buổi chiều hôm đó, anh đang nhìn vào chính bản thân mình sững sờ và bị thu hút bởi một điều gì đó khá xa lạ trong cuộc đời mình cho đến thời điểm đó - sự thất bại.

Thọc tay vào túi quần shalwar, anh chạm đầu ngón tay vào chuỗi hạt hổ phách mà cô em gái Christa thường đeo. Khi còn là đứa bé ba tuổi ở Tanzania, nơi cha mẹ Mortenson vốn sinh ra ởMinnesota làm giáo viên và nhà truyền giáo của giáo phái Luther, Christa bị viêm màng não cấp tính và không bao giờ hồi phục. Greg lớn hơn cô em gái mười hai tuổi, đã tự phân công mình làm người bảo trợ cho em. Mặc dù Christa đã nỗ lực để thực hiện những việc đơn giản - mặc quần áo vào mỗi buổi sáng cũng mất đến cả giờ - và phải chịu những cơn động kinh nghiêm trọng, Greg đã thúc ép mẹ mình, Jerene, cho phép em gái được tự lập phần nào. Anh giúp Christa tìm một công việc lao động chân tay, chỉ dạy cho cô những tuyến xe buýt công cộng ở Twin Cities để cô có thể đi đây đó một cách tự do và do sự ngại ngùng của mẹ, anh trao đổi chi tiết với em gái về việc kiểm soát sinh sản khi biết cô đang hẹn hò.

Hằng năm, không kể là đang phục vụ trong quân y Mỹ và là trung đội trưởng ở Đức chăm sóc bệnh nhân ở South Dakota, đang nghiên cứu về sinh lí thần kinh tại một trường cao học ở Ấn Độ với hi vọng tìm ra cách chữa trị cho Christa, hay đang sống như một người leo núi rời xa chiếc xe hơi của mình ở Berkeley, California, Mortenson đều nài nỉ cô em gái bé nhỏ đến thăm mình một tháng. Cùng nhau, hai anh em đã khám phá được những cảnh quang làm cho Christa rất thích thú. Họ đã tham dự cuộc đua Indy 500, cuộc đua ngựa Kentucky Derby, rong ruổi đến Disneyland, và anh đã hướng dẫn em gái tham quan thánh đường kiến trúc của riêng mình vào thời điểm đó, những vách đá hoa cương nhiều tầng ở Yosemite.

Chuẩn bị cho sinh nhật lần thứ hai mươi ba, Christa và mẹ dự định thực hiện chuyến hành hương từ Minnesota đến cánh đồng ngô ở Deyersville, Iowa, nơi bộ phim Field of Dreams - bộ phim mà Christa đã xem đi xem lại nhiều lần, đã được quay. Nhưng vào hôm sinh nhật, lúc một hai giờ sáng trước khi họ khởi hành, Christa đã chết sau một cơn động kinh dữ dội.

Sau cái chết của Christa, Mortenson giữ lại chuỗi hạt trong số những đồ vật ít ỏi của em gái. Chuỗi hạt vẫn vương mùi lửa trại mà họ đã đốt trong lần cuối cô em đến thăm anh ở California. Anh đã mang theo chuỗi hạt đến Pakistan, buộc vào một lá bùa của người Tây Tạng cùng với một kế hoạch tưởng nhớ cô em gái bé nhỏ của mình. Là một nhà leo núi, Mortenson đã quyết định, với sự thành tâm nhất trong lòng mình, sẽ leo lên đỉnh K2, đỉnh núi mà hầu hết những nhà leo núi xem là khó đến nhất trên trái đất và đặt chuỗi hạt của Christa ở đó, tại độ cao 8.615 mét.

Anh đã được nuôi dạy trong một gia đình ưa thích những nhiệm vụ khó khăn, như xây dựng một trường học và bệnh viện trên sườn núi Kilimanjaro ở Tanzania. Nhưng bất chấp những bề mặt phẳng lặng trong niềm tin không nghi ngờ của cha mẹ, tâm trí của Mortenson chưa được chuẩn bị cho bản chất thần linh. Anh sẽ dâng tặng lễ vật cho bất cứ vị thần nào sống trên tầng khí cao.

Ba tháng trước đó, Mortenson đã băng qua dòng sông băng này một cách tích cực trong đôi sandan Teva không vớ, với chiếc balô nặng bốn mươi kí dành cho chuyến mạo hiểm vẫy gọi anh đến Baltoro. Anh đã bắt đầu chuyến đi sáu mươi dặm từ Askole với một đội gồm mười nhà leo núi người Anh, Ireland, Pháp và Mỹ, một đội không dồi dào về tài chính nhưng gan dạ một cách điên rồ, leo lên ngọn núi cao thứ hai trên thế giới.

So với Everest, một nghìn dặm về phía nam dọc theo sống lưng của dãy Himalaya, cả đội đều biết K2 là ngọn núi giết người. Với những người leo núi, vốn gọi nó là “Đỉnh núi Hoang dã,” thì nó vẫn còn là thử thách tuyệt đối, một kim tự tháp như dao cạo bằng đá hoa cương dốc đến mức tuyết không thể bám vào những chỏm đá có mép sắc như dao. Và Mortenson, khi đó là chàng trai ba mươi lăm tuổi, khỏe như bò mộng, từng lên đỉnh Kilimanjaro năm mười một tuổi và theo học trên những vách đá hoa cương dốc đứng ở Yosemite, rồi tốt nghiệp với nhiều lần thành công trong việc chinh phục các đỉnh núi ở Himalaya, khi đến nơi vào tháng năm, đã tin tưởng rằng sẽ sớm được đứng ở cái nơi mà anh gọi là “đỉnh cao lớn nhất và trơ trụi nhất trên trái đất.”

Anh đã đến rất gần trong vòng sáu trăm mét tính từ đỉnh. Nhưng K2 đã chìm trong làn sương mù phía sau anh và chuỗi hạt vẫn nằm trong túi. Tại sao điều đó lại xảy ra? Anh dụi mắt vào tay áo, mất phương hướng bởi những giọt nước mắt xa lạ và đổ lỗi chúng do độ cao gây ra. Anh chắc chắn không còn là chính mình. Sau sáu mươi tám ngày chiến đấu theo bản năng ở độ cao của K2, anh cảm thấy mình như một vết sẹo mờ nhăn nheo của chính mình. Đơn giản là anh không biết có còn đủ đồ dự trữ để đi thêm năm mươi dặm qua vùng đất nguy hiểm để đến Askole hay không.

Tiếng kêu răng rắc, chói tai như tiếng súng của một tảng đá rơi đưa anh về với quang cảnh xung quanh. Anh nhìn tảng đá có kích thước bằng tòa nhà ba tầng đang rơi nhanh dần, nảy lên và xoay tròn xuống một dốc đá li ti rồi nghiền vụn một núi băng trên đường đi của nó.

Mortenson cố tự lay tỉnh mình trở lại trạng thái cảnh giác. Anh tìm lại chính mình, nhận thấy bóng tối đã lên cao như thế nào trên những đỉnh núi phía đông, và cố nhớ xem đã bao lâu rồi kể từ khi anh nhìn thấy dấu vết của những người khác. Đã nhiều giờ trôi qua kể từ khi Scott Darsney biến mất dưới lối mòn ở phía trước. Một giờ trước đó, hoặc có thể lâu hơn, anh đã nghe thấy những tiếng chuông của một đoàn la thồ của quân đội đang tải đạn về phía sông băng Siachen, bãi chiến trường cao sáu nghìn mét cách đó mười hai dặm về phía nam, nơi quân đội Pakistan đã đóng băng trong thế cầm cự chết chóc vĩnh viễn với quân đội Ấn Độ.

Anh lùng sục con đường mòn tìm kiếm dấu vết. Ở một nơi nào đó trên con đường mòn trở về Askole, phải có rác rưởi mà quân đội để lại đằng sau. Nhưng không thấy phân la. Không có những mẩu thuốc lá. Không có những vỏ lon thực phẩm. Không có cỏ khô mà những người cưỡi la mang theo cho con vật của mình. Anh nhận ra chỗ đó không hề giống lối mòn, mà chỉ là một đường nứt trong cái mê cung không ổn định của đá và băng, và tự hỏi vì sao mình lại lang thang đến điểm này. Anh cố giữ đầu óc sáng suốt để tập trung. Nhưng tác động của việc dãi gió dầm mưa kéo dài ở độ cao đã làm Mortenson mất khả năng suy nghĩ và hành động một cách dứt khoát.

Anh mất một giờ để leo lên dốc đá vụn, hi vọng đến một điểm thuận lợi trên những tảng đá và núi băng, một nơi mà anh có thể nhận ra điểm mốc mình đang tìm kiếm, mỏm đá lớn Urdukas, nhô ra khỏi dòng Baltoro như một nắm đấm lớn và kéo anh quay về hướng đường mòn. Nhưng ở trên đỉnh, anh không nhận được gì nhiều ngoài sự kiệt sức hơn nữa. Anh đã đi lạc tám dặm đến tận một thung lũng hoang vắng, và trong ánh nắng đang tắt dần, ngay cả đường viền của những đỉnh núi mà anh biết rất rõ cũng trông như xa lạ trong phối cảnh mới này.

Cảm thấy có sự hoang mang đang ẩn chứa bên dưới sự sững sờ do độ cao gây ra, Mortenson ngồi xuống lấy lại bình tĩnh. Trong chiếc túi nhỏ màu đỏ tía bạc phếch vì nắng của anh có một tấm chăn nhẹ của quân đội Pakistan, một chai nước rỗng không và một thanh protein duy nhất. Túi ngủ, toàn bộ quần áo ấm, chiếc lều, bếp lò, thực phẩm, thậm chí cả đèn pin và mọi que diêm của anh đều nằm trong chiếc balô mà người khuân vác mang theo.

Anh phải ở đây qua đêm và tìm ra con đường mòn lúc bình minh. Mặc dù nhiệt độ đã xuống dưới không độ khá nhiều, anh sẽ không chết, anh nghĩ như vậy. Ngoài ra, anh còn đủ tỉnh táo để nhận ra rằng đi trượt chân trong đêm, trên dòng sông băng đang chuyển động, nơi có những khe nứt há ra hàng chục mét bên dưới, qua những mảnh vỡ vụn của băng xanh vào trong những vũng nước ngầm còn nguy hiểm hơn nhiều. Quay trở xuống từ gò đá vụn, Mortenson tìm một chỗ cách các vách núi khá xa để không bị nghiền nát bởi một tảng đá lăn khi đang ngủ, và đủ chắc chắn để không nứt ra và dìm anh vào sâu trong dòng sông băng.

Anh tìm thấy một phiến đá phẳng có vẻ khá chắc chắn, nạo lấy tuyết cho vào chai nước bằng hai bàn tay không mang găng, và quấn mình trong chăn, mong rằng sẽ không chú tâm vào việc mình cô độc và đang ở trong tình trạng nguy hiểm như thế nào. Cánh tay anh bị dây thừng quật bỏng trong đợt cứu hộ và anh biết cần phải xé bỏ những lớp băng gạt và nặn mủ từ vết thương không chịu lành ở cao độ này, nhưng anh không thể nhanh chóng định vị cử động của mình. Khi nằm run rẩy trên tảng đá gồ ghề, Mortenson nhìn ánh sáng cuối cùng của mặt trời cháy âm ỉ như máu đỏ trên những đỉnh núi nhọn như dao ở phía đông; rồi lóe sáng để lại những dư ảnh cháy bừng trên nền màu xanh đen.

Gần một thế kỉ trước, Filippo De Filippi, bác sĩ và là người viết sử biên niên trong đoàn thám hiểm của công tước Abruzzi đến Karakoram đã ghi chép về sự cô độc mà ông cảm nhận được khi ở giữa những ngọn núi này. Mặc dù đi cùng một đoàn hai chục người châu Âu và hai trăm sáu mươi phu khuân vác địa phương và họ mang theo những chiếc ghế xếp, những bộ ấm trà bằng bạc và có một đội những người chạy bộ giao báo châu Âu đều đặn, ông vẫn cảm thấy bị nghiền nát thành vô nghĩa bởi đặc điểm của cảnh quan này. Ông viết, “Sự thinh lặng bao phủ toàn thung lũng, thậm chí đè xuống tâm trí chúng tôi với sự nặng nề mơ hồ. Không có nơi nào khác trên thế giới mà người ta lại cảm thấy mình cô đơn biệt lập, bị bỏ rơi hoàn toàn bởi thiên nhiên, bất lực trong việc đối thoại với thiên nhiên như ở đây.”

Có lẽ do bản thân đã từng cảm nhận được sự cô độc, là đứa trẻ người Mỹ đơn độc giữa hàng trăm người Phi châu hoặc do những đêm ở ngoài trời giữa độ cao gần một nghìn mét của đỉnh Half Dome thuộc vườn quốc gia Yosemite trong chuyến leo núi dài ngày mà Mortenson cảm thấy thanh thản. Nếu hỏi tại sao, anh sẽ quy cho trạng thái phân liệt tâm thần do độ cao gây ra. Nhưng bất cứ ai đã sống cùng Mortenson trong một thời gian những người đã theo dõi cách anh thuyết phục một đại biểu quốc hội, một nhà từ thiện miễn cưỡng, hay một viên tư lệnh người Afghanistan lì lợm, cho đến khi anh có được những khoản tiền viện trợ trễ nải, hoặc một khoản hiến tặng, hoặc giấy phép mà anh đang tìm kiếm để đi vào các lãnh thổ của bộ lạc, cũng đều công nhận rằng đêm hôm đó là một ví dụ nữa về tinh thần thép của Mortenson.

Gió đã nổi lên và đêm tối trở nên buốt giá. Anh cố phân biệt những đỉnh núi mà anh cảm thấy đang lượn lờ một cách ác ý xung quanh nhưng không thể phân biệt chúng khi xung quanh là bóng tối bao trùm. Sau một giờ nằm dưới chăn, anh có thể làm tan chảy thanh protein đang áp sát vào cơ thể và làm tan nước băng bùn vừa đủ để nuốt nó xuống, nước băng làm anh run bắn lên. Ngủ trong cái lạnh này dường như là điều bất khả kháng. Vì thế, Mortenson nằm dưới những vì sao như rắc muối trên bầu trời và quyết định xem xét bản chất sự thất bại của mình.

Những người chỉ huy đoàn thám hiểm của anh, Dan Mazur và Jonathan Pratt cùng nhà leo núi người Pháp Etienne Fine, là những người dũng cảm. Họ nhanh nhẹn và phong nhã, thừa hưởng gen cần thiết để đi nhanh ở độ dốc kĩ thuật ở độ cao lớn. Mortenson đi chậm và khỏe như gấu. Với chiều cao gần hai mét và nặng chín mươi lăm kí, Mortenson từng theo học tại trường Cao đẳng Concordia ở Minnesota với học bổng của môn bóng bầu dục.

Mặc dù không ai chỉ đạo nên làm gì, nhưng phần việc chậm và nặng nhọc khi leo núi tự nhiên rơi vào anh và Darsney. Tám lần khác nhau, Mortenson đã phục vụ như la thồ, kéo thực phẩm, nhiên liệu và những bình oxy đến vài nơi cất giữ trên đường đến Hành lang Nhật Bản - cái hang mong manh mà đoàn thám hiểm đã tạo ra cách đỉnh K2 trong vòng một trăm tám mươi mét, tích trữ hàng cho những trại trên cao của đoàn thám hiểm, để những nhà leo núi đi đầu có thể có tiếp liệu tại chỗ khi họ quyết định leo lên tới đỉnh.

Tất cả các đoàn thám hiểm khác trên núi vào mùa này đều đã chọn thách thức đỉnh cao bằng con đường truyền thống đi lên theo con đường đã được khai phá gần một thế kỉ trước, chóp núiAbruzzi phía đông nam của K2. Chỉ riêng họ chọn chóp núi phía tây, một lộ trình khúc khuỷu cực kì khó khăn, tiếp nối chướng ngại này đến chướng ngại khác của các sườn dốc, độ dốc kĩ thuật, mà chỉ có duy nhất một thành công vào mười hai năm trước bởi nhà leo núi người Nhật Eiho Otani và người đồng sự Pakistan Nazir Sabir.

Mortenson hồi tưởng lại thách thức và thấy tự hào về con đường gian khổ mà họ đã chọn. Và mỗi khi đến được một trong những cái hang mà họ đã đào cao trên chóp phía tây và chất những hộp nhiên liệu, những cuộn dây thừng, anh nhận ra mình cảm thấy mạnh mẽ hơn. Anh có thể chậm nhưng việc chính anh lên được đến đỉnh, dường như là một điều chắc chắn.

Rồi vào một buổi tối sau hơn bảy mươi ngày trên núi, Mortenson và Darsney trở về trại căn cứ, sắp chìm vào giấc ngủ xứng đáng sau chín mươi sáu giờ leo núi cho một chuyến tiếp liệu khác. Nhưng khi nhìn lần cuối về phía đỉnh núi qua ống nhòm ngay sau khi trời tối, Mortenson và Darsney chú ý đến ánh đèn nhấp nháy cao trên chóp tây của K2. Họ nhận ra đó là các thành viên trong đoàn, đang gửi tín hiệu bằng những ngọn đèn đeo trên trán, và họ đoán rằng đồng đội người Pháp đang gặp rắc rối. “Etienne là dân miền núi.” Mortenson giải thích, nhấn mạnh bằng cách phát âm tiếng Pháp cường điệu với sự tôn trọng và kiêu hãnh mà thuật ngữ đó có thể chuyển tải giữa những người leo núi. “Anh ấy di chuyển nhanh và nhẹ với đồ dùng tối thiểu tuyệt đối. Và chúng tôi đã ngăn cản trước khi anh ấy đi quá nhanh mà chưa thích nghi với khí hậu.”

Mortenson và Darsney, đang do dự không biết liệu họ có đủ sức để leo lên chỗ Fine sau lần xuống núi kiệt sức vừa rồi, đã gọi những người tình nguyện từ năm đoàn thám hiểm khác ở trại căn cứ. Không ai đứng ra giúp đỡ. Họ nằm nghỉ và duy trì độ ẩm trong hai tiếng, sau đó thu dọn đồ đạc và quay trở lại.

Leo xuống từ Trại IV ở độ cao bảy nghìn sáu trăm mét, Pratt và Mazur nhận thấy họ phải đấu tranh cho sự sống của chính mình. “Etienne đã leo lên gia nhập với chúng tôi trong nỗ lực cuối cùng để lên đỉnh.” Mazur nói. “Nhưng khi đến được chỗ chúng tôi, anh ấy đã suy sụp. Trong khi cố giữ hơi thở, anh ấy nói với chúng tôi là anh nghe thấy tiếng lộp bộp trong phổi.”

Fine đã bị phù phổi, tràn dịch phổi do độ cao gây ra, có thể gây chết người nếu không được đưa ngay xuống nơi thấp hơn. Mazur nói, “Thật đáng sợ. Bọt đỏ hồng không ngừng tuôn ra từ miệng Etienne. Chúng tôi cố gọi giúp đỡ nhưng đã để rơi vô tuyến vào trong tuyết và nó không hoạt động được nữa. Do vậy chúng tôi bắt đầu đi xuống.”

Pratt và Mazur thay nhau kẹp Fine vào người mình, và tuột theo dây cùng với anh xuống những dốc cao nhất ở sườn phía tây. “Trông giống như treo một túi khoai tây lớn vào sợi dây thừng.” Manzur nói. “Và chúng tôi phải tranh thủ thời gian để không tự giết chết mình.”

Với tính cách ít nói đặc trưng, Mortenson không nói gì nhiều về hai mươi bốn giờ mà anh phải tự kéo mình lên để đến với Fine trừ lời nhận xét “thật gian khổ”.

“Dan và John thật sự là những người hùng,” anh nói. “Họ đã từ bỏ nỗ lực leo lên đỉnh núi để đưa Etienne xuống.”

Lúc Mortenson và Darsney gặp đồng đội của mình, trên một tảng đá gần Trại I, Fine lúc tỉnh lúc mê và còn bị phù não, chứng sưng viêm não do độ cao gây ra. “Anh ấy không thể nuốt và đang cố tháo dây đôi ủng.” Mortenson nói.

Mortenson, từng làm y tá trong phòng cấp cứu chấn thương, để được tự do về giờ giấc giúp anh theo đuổi sự nghiệp leo núi, đã tiêm cho Fine những mũi Decadron để làm dịu chứng phù, và bốn nhà leo núi kiệt sức bắt đầu một hành trình gian khổ bốn mươi tám giờ để kéo và hạ Fine xuống những mặt đá lởm chởm.

Đôi khi Fine, bình thường nói tiếng Anh lưu loát, tỉnh táo đủ để bập bẹ bằng tiếng Pháp, Mortenson nói. Ở những độ dốc kĩ thuật nhất, với bản năng sinh tồn của một người leo núi lâu năm, Fine tự gượng dậy để móc thiết bị bảo hộ của mình vào dây thừng, trước khi trở lại thành một khối bất động. Mortenson nhớ lại.

Bảy mươi hai giờ sau khi Mortenson và Darsney khởi hành, cả nhóm đã thành công trong việc hạ Fine xuống khu đất bằng ở trại căn cứ tiền trạm của họ. Darsney gọi vô tuyến cho đội ngườiCanada phía dưới; họ chuyển yêu cầu của anh cho quân độiPakistan xin một chiếc trực thăng cấp cứu đến cao độ Lama. Vào thời điểm đó, đấy là một trong những chuyến cấp cứu bằng trực thăng ở nơi cao nhất được thực hiện. Nhưng ban chỉ huy của quân đội đã trả lời rằng thời tiết quá xấu và gió quá mạnh, và ra lệnh đưa Fine xuống vùng đất thấp hơn.

Ra lệnh là một chuyện. Nhưng đối với bốn con người đang ở trong tình trạng kiệt sức sâu nhất của động vật thì việc thi hành mệnh lệnh lại là chuyện khác. Trong sáu giờ, sau khi buộc Fine bằng dây đai vào chiếc túi ngủ, họ chỉ trao đổi với nhau bằng những tiếng lầm bầm và rên rỉ, họ đã kéo bạn mình xuống núi theo một lộ trình kĩ thuật nguy hiểm qua thác băng của sông băng Savoia.

“Chúng tôi không còn chút sức lực và đã vượt quá giới hạn của mình, nhiều khi chúng tôi chỉ có thể bò để cố đưa anh ấy xuống.” Darsney nhớ lại.

Sau cùng, cả nhóm đến trại căn cứ K2, kéo theo Fine trong chiếc túi ngủ phía sau. Darsney nói, “Tất cả các đoàn khác đều đi dọc theo một phần tư dặm phía trên sông băng để chào đón chúng tôi và hoan nghênh chúng tôi như người hùng. Sau khi trực thăng của quân đội Pakistan đến và đưa Etienne đi, những thành viên trong đoàn Canada đã nấu một bữa ăn lớn và mọi người có một buổi liên hoan. Nhưng Greg và tôi không dừng lại để ăn, uống, thậm chí để đi tiểu, chúng tôi chỉ ngã ngay vào túi ngủ giống như bị bắn hạ.”

Trong hai ngày, Mortenson và Darsney bị cuốn vào giấc ngủ do độ cao gây ra cả với những người kiệt sức nhất. Gió lùa vào căn lều của họ mang theo âm thanh của những chiếc đĩa ăn kim loại khắc tên bốn mươi tám nhà leo núi đã bỏ mạng trên Savage Mountain, kêu leng keng ma quái ở khu tưởng niệm Art Gilkey, được đặt theo tên một nhà leo núi của đoàn thám hiểm người Mỹ đã chết vào năm 1953.

Khi thức dậy, họ chỉ thấy lời nhắn của Pratt và Mazur; cả hai đã quay lại trại trên cao. Họ mời gọi đồng đội cùng tham gia vào một nỗ lực lên đỉnh sau khi đã hồi phục. Nhưng hồi phục là một điều nằm ngoài tầm của họ. Vụ cứu hộ đến quá nhanh ngay sau chuyến leo bổ sung hàng tiếp tế, đã lấy đi hết sức lực của họ.

Sau cùng, khi đã rời được căn lều, cả hai đều thấy phải phấn đấu để bước đi. Fine đã được cứu sống với giá đắt, thử thách đó sau cùng phải trả giá bằng tất cả các ngón chân của anh. Và vụ cứu hộ đã lấy của Mortenson và Darsney mọi nỗ lực họ có thể tự họp tại đỉnh núi mà họ đã làm việc vất vả để đạt tới. Một tuần sau, Mazur và Pratt sẽ thông báo với thế giới rằng họ đã đứng trên đỉnh núi và trở về nhà với thành tích đáng tự hào của mình. Nhưng số đĩa kim loại đong đưa trong gió sẽ nhiều thêm lên khi bốn trong số mười sáu nhà leo núi lên được đến đỉnh trong mùa đó đã chết trong chuyến đi xuống của họ.

Mortenson lo ngại tên của mình sẽ được thêm vào khu tưởng niệm. Darsney cũng vậy. Họ quyết định thực hiện chuyến đi xuống hướng về thế giới văn minh, nếu họ có thể. Lạc lối, hồi tưởng lại vụ cứu hộ, một mình trong chiếc chăn len mỏng trong những giờ trước lúc bình minh, Greg Mortenson cố gắng tìm một tư thế thoải mái. Với chiều cao của mình, anh không thể nằm thẳng mà không thò đầu ra ngoài không khí không khoan dung này. Anh đã sụt mất mười ba kí trong những ngày ở K2, và không kể dù anh xoay người kiểu nào, những khúc xương không được lót đệm dường như ép vào đá lạnh bên dưới. Trôi dạt giữa ý thức và vô thức trong tiếng rền rĩ bên trong dòng sông băng bí ẩn, anh cảm thấy thanh thản dù không vinh danh được cho Christa. Cơ thể anh chứ không phải tinh thần đã thất bại, anh quyết định như vậy, và cơ thể nào cũng có những giới hạn của nó. Anh, lần đầu tiên trong đời, đã thấy giới hạn tuyệt đối của cơ thể mình.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx