sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ba tách trà - Chương 02

CHƯƠNG 2

Bên bờ lạc lối của dòng sông.

Vì sao mi phải trầm tư để đoán trước tương lai, và mệt óc vì sự phức tạp hão huyền?

Hãy vứt đi sự thận trọng, chừa lại những kế hoạch mà Allah đã sắp đặt - Ngài đã sắp đặt mọi chuyện không cần hỏi ý mi.

- Omar Khayyam, The Rubaiyat

Mortenson mở mắt ra.

Bình minh quá êm ả khiến anh quên đi ham muốn mãnh liệt để thở. Anh lọng cọng rút hai tay ra khỏi chiếc chăn quấn chặt như trong cơn ác mộng rồi đưa về phía đầu, hiện đang phơi ra trên tảng đá trần trụi. Miệng và mũi anh bị bịt kín dưới lớp băng nhẵn. Anh gỡ lớp băng mỏng ra và thở hơi thở sâu đầu tiên một cách hài lòng rồi anh ngồi dậy, tự cười với mình.

Anh ngủ vừa đủ để mất phương hướng hoàn toàn. Khi duỗi người và cố xoa bóp những cơn đau sau lưng do những tảng đá gây ra, anh chú ý đến cảnh vật xung quanh. Những đỉnh núi được tô vẽ sắc màu rực rỡ - tất cả đều màu hồng, màu tím và xanh mơn mởn - và bầu trời ngay trước lúc mặt trời mọc, lặng gió và trong sáng.

Cùng với sự tuần hoàn máu ở các chi, những chi tiết về tình thế khó khăn của anh từ từ quay trở lại - vẫn mất phương hướng, vẫn cô độc – nhưng Mortenson không lo lắng. Buổi sáng đã tạo ra mọi khác biệt.

Cao cao trên ngọn Baltoro, một con chim gorak lượn vòng hi vọng, đôi cánh lớn màu đen lướt qua cảnh nhìn của những đỉnh núi tẩm đường. Với hai bàn tay khum lại vì lạnh, Mortenson nhét tấm chăn vào chiếc túi nhỏ màu đỏ tía và cố gắng mở nắp chai nước còn một nửa. Anh cẩn thận cất nó và tự nhủ sẽ uống ngay khi hai bàn tay hết cóng. Con chim gorak nhìn thấy Mortenson cử động, vỗ cánh bay về phía dưới của dòng sông băng, tìm kiếm một nguồn cung cấp bữa sáng khác.

Mặc dù đã ngủ nhiều, nhưng Mortenson vẫn cảm thấy mình đang suy nghĩ một cách sáng suốt hơn. Nhìn ngược lại con đường đã đi đến đây từ phía trên thung lũng, anh nhận ra rằng nếu quay trở lại đường cũ trong vài giờ, chắc chắn anh sẽ đi vào lối mòn.

Anh khởi hành về hướng bắc hơi vấp váp trên những tảng đá, căng người nhảy qua chỗ hẹp nhất của những khe nứt với đôi chân vẫn còn tê cóng nhưng anh thực hiện được điều mà anh xem như là một tiến bộ đáng kể. Như thường lệ, một bài ca từ thời thơ ấu tuôn trào cùng nhịp bước của anh. “Yesu ni refiki Yangu, Ah kayee Mbinguni” (“Chúng ta có người bạn tốt là Jesus, Ngài hiện sống trên thiên đường”), anh hát bằng tiếng Swahili, ngôn ngữ mà anh và mọi người dùng trong những buổi lễ vào mỗi chủ nhật ở ngôi nhà thờ bình dị, với cảnh núi Kalimanjaro ở phía xa. Âm điệu đã quá quen thuộc đối với Mortenson để anh nhận ra được sự lạ lùng trong giây phút này - một người Mỹ lạc lối ở Pakistan, đang hát một bài thánh ca Đức bằng tiếng Swahili. Thay vào đó, ở giữa bãi đất hoang đầy đá cuội và băng xanh, nơi những viên sỏi anh đá vào sẽ biến mất dưới khe nứt trong vài giây trước khi làm tung tóe nước trong những con sông ngầm, làm cháy lên nỗi nhớ quê hương nồng nàn, một ngọn đèn biển từ xứ sở mà anh từng gọi là quê hương.

Đã một giờ trôi qua trên con đường này. Rồi một giờ nữa. Mortenson đã tự đi lên một con đường dốc dẫn ra khỏi khe sâu mà anh vừa đi vào, cúi khom người trên cả đôi tay và đầu gối để bò qua một khối tuyết cứng trên miệng vực, và đứng trên mép vực ngay lúc mặt trời vừa lên khỏi các vách thung lũng.

Cứ như là anh vừa bị bắn thủng mắt.

Quang cảnh hùng vĩ làm anh lóa mắt. Gasherbrum, đỉnh Broad, đỉnh Mitre, tháp Muztagh - những ngọn núi khổng lồ phủ đầy băng đó, trần trụi trong vòng tay của ánh mặt trời, cháy rực lên như những đốm lửa trại.

Mortenson ngồi trên một tảng đá và uống nước trong chai cho đến cạn. Nhưng anh không tận hưởng được hết cảnh trí này. Trước khi qua đời vào năm 2002 trong một vụ rơi máy bay, nhiếp ảnh gia chuyên chụp phong cảnh hoang dã, Galen Rowell, đã dành nhiều năm cố nắm bắt vẻ đẹp siêu việt của những ngọn núi đi kèm theo ngọn Baltoro xuống đến vùng đất thấp hơn.

Những bức ảnh đã làm mọi người kinh ngạc nhưng Rowell luôn cảm thấy chúng không thể sánh với trải nghiệm của việc được đứng ở đây, trở nên nhỏ bé trước cảnh quan mà ông xem là nơi đẹp nhất trên trái đất, nơi ông gọi là “chốn đặt ngai vàng của những vị thần núi.”

Mặc dù đã ở đây nhiều tháng, nhưng Mortenson vẫn say sưa ngắm nhìn những đỉnh núi này như chưa bao giờ được nhìn thấy. “Theo một cách mà tôi chưa từng có,” anh giải thích. “Cả mùa hè tôi đã nhìn những ngọn núi này như những mục tiêu, hoàn toàn tập trung vào ngọn K2 cao nhất. Tôi đã nghĩ về độ cao của chúng và những thách thức kĩ thuật mà chúng đặt ra cho một người leo núi như tôi. Nhưng buổi sáng đó, lần đầu tiên, tôi đơn giản chỉ nhìn chúng. Thật là choáng ngợp.”

Anh đi tiếp. Đây có thể là kiến trúc tuyệt hảo của những ngọn núi - những hốc lõm lớn và núi đá hoa cương màu nâu sẫm và màu hoàng thổ được dựng nên với sự hài hòa cao độ hướng về phần cuối cao ngất, cô độc của những đỉnh núi - nhưng bất chấp tình trạng yếu đuối của mình, sự thiếu thốn lương thực và quần áo ấm, cơ may sống sót sẽ xấu đi nếu không sớm tìm được một trong hai thứ đó. Mortenson cảm thấy hài lòng một cách kì lạ. Anh lấy đầy chai nước từ một khe nước sông băng tan chảy và nhăn mặt vì lạnh khi uống. Thực phẩm không phải là vấn đề trong một vài ngày, anh tự nhủ, nhưng bạn phải nhớ uống nước.

Khoảng gần trưa, anh nghe có tiếng chuông leng keng rất mơ hồ và hướng theo đó về hướng tây. Một đoàn lừa thồ. Anh tìm kiếm những ụ đá đánh dấu con đường chính từ Baltoro đi xuống nhưng chỉ thấy đá vương vãi theo sự sắp xếp ngẫu nhiên nhất. Trên mép dốc đứng bên hông lớp băng tích, những dải băng vụn tạo thành mép của một dòng sông băng, anh đột nhiên đối mặt với một bức tường cao một nghìn năm trăm mét, chắn ngang bất cứ hi vọng nào để đi xa hơn. Anh nhận ra mình hẳn đã đi qua con đường mòn này mà không nhận ra, do vậy anh quay trở lại theo lối đã đi qua, tự buộc mình phải nhìn xuống để tìm các dấu vết chứ không nhìn lên những đỉnh núi mê hoặc. Sau ba mươi phút, anh nhìn thấy một mẩu thuốc lá, rồi một ụ đá đánh dấu đường. Anh đi xuống con đường mòn tĩnh mịch lờ mờ hướng theo những tiếng chuông mà lúc này đã có thể nghe rõ hơn.

Anh không thể nhìn thấy đoàn lữ hành. Nhưng sau cùng, cách xa khoảng một dặm hay hơn, anh nhìn thấy hình dáng một người đàn ông, đứng trên tảng đá nhô ra trên dòng sông băng in bóng trên nền trời. Mortenson hét lên nhưng tiếng của anh không đi được xa. Sau giây lát, người đàn ông biến mất rồi lại xuất hiện trên một tảng đá ở gần hơn chín mươi mét. Mortenson gào thét lên với tất cả sức lực của mình, và lần này người đàn ông quay ngoắt về phía anh rồi trèo nhanh xuống từ tảng đá và biến mất khỏi tầm nhìn. Ở bên dưới, giữa dòng sông băng, giữa những tảng đá như hầm mộ, trong bộ áo quần màu đá đầy bụi bặm, Mortenson không ở trong tầm nhìn, nhưng anh có thể làm cho giọng mình vọng lên từ những tảng đá.

Anh không thể chạy, do đó hổn hển bước vội từng bước ngắn hướng về điểm cuối cùng mà anh đã nhìn thấy người đàn ông và cứ vài phút lại hét lên mà mỗi khi nghe, chính anh cũng ngạc nhiên là mình đã phát ra nó. Rồi có một người đàn ông ở đó đang đứng phía bên sườn xa xa của một khe nứt rộng, với nụ cười thậm chí còn rộng hơn nữa. Có vẻ như nhỏ bé bởi chiếc balô North Face chất đầy hàng của Mortenson, Mouzafer, người khuân vác anh thuê để dẫn đường và mang hành lí của mình đến những vùng có người ở, đã tìm chỗ hẹp nhất của khe nứt, rồi nhẹ nhàng nhảy qua với hơn bốn mươi kí trên lưng.

“Ông Gireg, ông Gireg.” ông ta la lên, đặt chiếc balô xuống và quàng quanh người Mortenson bằng một cái ôm như của loài gấu. “Allah, Akbhar! Tạ ơn Allah, ông vẫn còn sống!”

Mortenson co người lại một cách vụng về, gần như ngộp thở bởi sức mạnh và sinh lực của người đàn ông thấp hơn mình ba tấc và lớn hơn mình hai mươi tuổi.

Rồi Mouzafer buông tay và bắt đầu vỗ vào lưng Mortenson một cách sung sướng. Không biết là do đám bụi bốc ra từ chiếc áo shawar dơ bẩn hay từ những cú thụi của Mouzafer mà Mortenson bắt đầu ho, rồi gập người lại không sao ngừng ho.

“Cha(6), ông Gireg.” Mouzafer kê toa, ái ngại xem xét tình trạng suy yếu của Mortenson. “Cha sẽ mang lại sức mạnh cho ông!” Mouzafer dẫn Mortenson đến một hang đá nhỏ khuất gió. Ông ta xé hai nắm từ bó ngải đắng giắt ở balô, lục trong các túi của chiếc áo khoác GoreTex màu đỏ tía rộng quá khổ, vật bị bỏ đi từ một trong vô số chuyến thám hiểm mà ông đã hướng dẫn qua Baltoro, tìm ra một viên đá lửa và cái ấm bằng kim loại, rồi ngồi xuống pha trà.

6. Trà

Mortenson đã gặp Mouzafer Ali đầu tiên sau bốn giờ rời K2cùng với Darsney. Chuyến đi bộ ba dặm đến trại căn cứ ở đỉnh Broad, vốn chỉ mất bốn mươi lăm phút khi họ đi dạo vào mùa hè trước đó đến thăm một thành viên nữ của đoàn thám hiểm Mexico mà Darsney đã cố ve vãn trong suốt mùa hè, đã trở thành một thử thách bốn giờ vấp ngã trên những đôi chân khẳng khiu vì độ cao dưới trọng lượng mà họ không thể tưởng tượng là sẽ phải mang theo trong hơn sáu mươi dặm.

Mouzafer và người bạn của ông, Yakub, đã hoàn thành nhiệm vụ cho đoàn thám hiểm Mexico và đang trở về từ Baltoro mà không mang vác thứ gì. Họ đề nghị mang những chiếc balô nặng trịch cho Mortenson và Darsney trong suốt chặng đường đến Askole với giá bốn đôla một ngày. Hai người Mỹ vui vẻ đồng ý và mặc dù gần hết sạch tiền, họ đã dự định trả cho hai người đàn ông này nhiều hơn nữa khi ra khỏi núi.

Mouzafer là người Balti, một dân tộc miền núi sống ở những thung lũng cao hẻo ánh nhất miền bắc Pakistan. Người Balti có nguồn gốc từ Tây Tạng, đã di trú về phương nam, qua Ladakh hơn sáu trăm năm trước và Phật giáo đã phai nhạt đi khi họ di chuyển trên những đèo đá và được thay thế bằng một tôn giáo phù hợp hơn với sự khắc nghiệt của miền đất mới: đạo Hồi Shiite. Nhưng họ đã giữ lại ngôn ngữ, một dạng tiếng Tây Tạng cổ. Với thân hình nhỏ gọn, dẻo dai và khả năng tột bực để sống sót ở những cao độ mà thậm chí chỉ có rất ít người đã chọn để đến, khiến nhiều nhà leo núi nhớ đến những người anh em họ hàng xa của mình ở phía đông, người Sherpa ở Nepal. Nhưng những phẩm chất khác của người Balti, sự ầm lì nghi ngại người ngoài cùng với đức tin không khoan nhượng, đã ngăn cản những người phương Tây tôn vinh họ như đã từng làm với người Sherpa Phật giáo.

Fosco Maraini, một thành viên của đoàn thám hiểm Ý năm 1958 tìm được cách lần đầu tiên đến Gasherbrum IV, một vùng lởm chởm gần K2, đã rất kinh ngạc và bị mê hoặc bởi người Balti, nên trong quyển sách uyên bác của mình về chuyến thám hiểm, Karakoram: The Ascent of Gasherbrum IV, ông đã viết như một chuyên luận về lối sống của người Balti hơn là một kí sự về thắng lợi của đoàn leo núi. Maraini viết: “Họ làm ngơ, than phiền và làm ta thất vọng đến cực độ. Và ngoài mùi hôi của mình, họ có cái vẻ không nhầm lẫn được của một băng cướp. Nhưng nếu bạn có thể nhìn xuyên qua vẻ cộc cằn của họ, bạn sẽ được biết họ phục vụ bạn một cách trung thành và họ rất dũng cảm. Về thể chất, họ mạnh khỏe; nhất là trong cái cách mà họ chịu đựng sự gian khổ và mệt mỏi. Bạn có thể thấy những người đàn ông nhỏ bé với đôi chân như chân cò vác trên vai bốn mươi kí từ ngày này sang ngày khác trên những con đường mòn mà người lạ phải đắn đo suy nghĩ trước khi mạo hiểm đi vào dù không phải mang vác gì cả.”

Mouzafer cúi người trong hang đá, thổi mạnh vào đám ngải đắng mà ông đã đốt với viên đá lửa cho đến khi nó bùng lên thành ngọn lửa. Ông đẹp một cách thô thiển, dù hàm răng sún và làn da đen sạm vì nắng gió khiến ông trông già hơn nhiều so với độ tuổi giữa ngũ tuần của mình. Ông chuẩn bị pha chế paiyu cha, một loại trà bơ vốn là món cơ bản trong thực đơn hằng ngày của người Balti. Sau khi nấu trà xanh trong cái nồi thiếc sạm đen, ông thêm muối bột nổi và sữa dê trước khi cạo nhẹ một miếng mar, thứ bơ chua lâu ngày làm từ sữa bò Tây Tạng mà người Balti tự hào hơn bất cứ món ngon nào khác, và khuấy vào trà bằng ngón tay trỏ không mấy sạch sẽ của mình.

Mortenson lo lắng nhìn. Anh đã ngửi mùi paiyu cha ngay từ khi đến Baltistan và mùi của nó, như anh mô tả là “hôi hơn thứ phomai đáng sợ nhất mà người Pháp từng nghĩ ra,” đã khiến anh phải bịa ra bất cứ lí do nào để tránh phải uống nó.

Mouzafer đưa cho anh ca trà bốc khói.

Thoạt đầu, Mortenson nôn ra hết, nhưng cơ thể anh cần muối và hơi ấm, và anh đã uống hết ca trà. Mouzafer lại rót đầy ca. Rồi lại một ca đầy nữa.

“Zindabad! Thật tốt! Ông Gireg.” Mouzafer nói sau chén trà thứ ba, hoan hỉ đấm nhẹ lên vai Mortenson làm cho cái hang đá mù mịt hơn nữa do bụi từ người Mortenson bay ra.

Darsney đã đi trước hướng về Askole cùng với Yakub, và trong ba ngày tiếp theo cho đến khi họ rời khỏi Baltoro, Mouzafer không bao giờ rời mắt khỏi Mortenson. Trên lối mòn mà Mortenson vẫn phải đánh vật để đi theo, còn Mouzafer lại thấy rõ như đi trên đường cao tốc New Jersey, người khuân vác nắm tay Mortenson khi di chuyển hoặc nhấn mạnh rằng anh phải đi ngay theo dấu đôi giày cao cổ Trung Quốc bằng nhựa rẻ tiền mà ông đang mang không có vớ. Ngay cả trong những phiên cầu nguyện năm lần mỗi ngày, Mouzafer, người đàn ông sùng đạo khó tính vẫn trộm liếc khỏi hướng Thánh địa Mecca để biết chắc Mortenson vẫn ở kế bên.

Mortenson đã tận dụng sự gần gũi và hỏi Mouzafer những từ tiếng Balti về tất cả mọi thứ họ nhìn thấy. Sông băng là gangs-zhing, tuyết lở là rdo-rut. Và người Balti có nhiều tên gọi cho đá cũng giống như người Inuit gọi tuyết. Brak-lep là tảng đá phẳng để ngủ hay nấu ăn trên đó. Khrok là đá hình nêm, lí tưởng để bít kín lỗ những căn nhà bằng đá. Và những viên đá tròn nhỏ gọi là khodos, mà người ta nung trong lửa, rồi quấn vào bột nhào để làm bánh mỳ không lên menkurba hình sọ người, nướng mỗi sáng trước khi bắt đầu lên đường. Với đôi tai ngôn ngữ của mình, Mortenson sớm học được những từ vựng Balti cơ bản.

Chọn lối đi xuống một hẻm núi hẹp, Mortenson bước qua lớp băng và lần đầu tiên đặt chân lên mặt đất vững chắc sau hơn ba tháng. Mõm sông băng Baltoro nằm ở đáy một hẻm núi, màu đen với những mảnh vỡ và được chạm khắc thành mũi nhọn giống như mũi của chiếc 747. Từ cửa khẩu này, những dòng sông ngầm di chuyển bên dưới sáu mươi hai kilômét băng, bắn vào chỗ hở với luồng không khí giống như ống khói của một động cơ phản lực. Chỗ nước xoáy sủi bọt nhô lên này là nơi sinh ra dòng sông Braldu. Năm năm sau, một vận động viên thuyền kayak người Thụy Điển đã đến với nhóm quay phim tài liệu và khởi hành từ ngay điểm này, dự định đi theo sông Braldu để vào sông Indus, một nghìn tám trăm dặm đến biển Ả Rập. Chẳng bao lâu sau khi xuống nước, vận động viên này đã chết do va mạnh vào những tảng đá bởi sức mạnh nguyên sơ của Braldu.

Mortenson nhìn thấy bông hoa đầu tiên sau nhiều tháng, hoa tầm xuân năm cánh hồng, và anh quỳ xuống xem xét nó, ghi nhận cứ như đó là sự trở về của anh từ mùa đông vĩnh cửu. Lau sậy và ngải đắng mọc rải rác bên bờ sông khi họ đi xuống và sự sống đơn sơ, vì đó là vùng cửa sông đầy đá, dường như mê hoặc Mortenson. Không khí mùa thu ở độ cao ba nghìn ba trăm năm mươi mét có một sức nặng và sự xa xỉ mà anh đã lãng quên.

Giờ đây sau khi đã bỏ lại những hiểm nguy của Baltoro ở phía sau, Mouzafer đi trước, dựng trại và chuẩn bị bữa tối mỗi buổi chiều trước khi Mortenson đến. Dù đôi lúc lạc lối khi con đường mòn rẽ nhánh về một bãi cỏ mùa hè của những người chăn cừu, nhưng Mortenson nhanh chóng tìm lại được lối đi và nó khá đơn giản khi anh chỉ việc đi dọc theo dòng sông cho đến khi nhìn thấy khói lửa trại của Mouzafer mỗi buổi chiều. Bước đi trên đôi chân đau và yếu ớt của mình không phải là điều đơn giản nhưng từ khi không có chọn lựa nào khác, anh đã kiên nhẫn bước tiếp, dừng lại nghỉ càng lúc càng thường xuyên hơn.

Vào ngày thứ bảy sau khi rời khỏi K2, trên một rìa đá ở bờ nam hẻm núi sông Braldu, Mortenson nhìn thấy những cái cây đầu tiên. Đó là năm cây dương, uốn cong bởi gió mạnh, và vung vẩy như những ngón tay của một bàn tay đang chào đón. Họ đã trồng chúng ở đây, để chỉ ra ảnh hưởng của con người, thay cho sức mạnh nguyên sơ của Karakoram, một sức mạnh đã gửi những thềm băng và phiến đá đua nhau chạy xuống sườn núi, nơi chúng xóa đi những sinh vật vô nghĩa như một con người đơn độc. Những cái cây nói cho Mortenson biết anh đã sống sót xuống núi.

Chìm trong suy tưởng về cây cỏ, anh đã không nhìn thấy nhánh đường mòn hướng xuống dòng sông, nơi dẫn đến một zamba, “cây cầu” dây thừng dây bện bằng lông bò Tây Tạng bắc qua dòng nước chảy xiết giữa hai tảng đá. Lần thứ hai, Mortenson lạc lối. Cây cầu dẫn đến đích của anh, Askole, xa hơn tám dặm trên bờ bắc của dòng sông. Thay vào đó, anh ở lại trên rìa đá cao dọc theo bờ nam của dòng sông, đi về phía những cái cây.

Những cây dương tan biến dần vào trong những vườn mơ. Tại đây, ở độ cao trên ba nghìn mét, mùa thu hoạch đã kết thúc vào giữa tháng chín. Những đống quả chín được xếp chồng trên hàng trăm chiếc rổ đan phẳng. Chúng làm tràn ngập vùng bên dưới tán mơ bằng ánh màu nảy lửa của chúng. Những người phụ nữ đang quỳ bên những chiếc rổ, tách quả mơ và đặt hạt mơ sang một bên để cạy lấy phần nhân. Trông thấy anh, họ kéo khăn choàng che mặt và chạy ra sau những cây mơ để tránh Angrezi - người đàn ông da trắng xa lạ.

Trẻ con không dè dặt như vậy. Mortenson lôi cuốn một đám đông theo đuôi khi anh đi qua những cánh đồng vàng nâu, nơi những người phụ nữ khác săm soi nhìn anh qua những đám lúa kiều mạch và đại mạch mà họ đang gặt bằng liềm. Trẻ con sờ mó chiếc áo shalwar của anh, tìm kiếm nơi cổ tay chiếc đồng hồ mà anh không đeo và xoay sang nắm tay anh.

Lần đầu tiên sau nhiều tháng, Mortenson nhận thức được bộ dạng của mình. Tóc anh dài và rối bù. Anh cảm thấy mình to lớn và bẩn thỉu. “Đã hơn ba tháng tôi chưa tắm,” anh nói. Anh khom người cố không để cao hơn lũ trẻ. Nhưng chúng không thấy anh có vẻ gì là đe dọa. Chiếc áo shalwar kamiz của chúng ố bẩn và rách rưới như áo anh, và hầu hết chúng đều đi chân trần dù trời lạnh.

Mortenson phát hiện ra làng Korphe từ xa một dặm trước khi anh đến gần. Sau sự cằn cỗi của độ cao, mùi củi cây bách xù và mùi con người không tắm giặt thật nồng. Nghĩ là vẫn đúng đường, anh cho rằng mình đang đến gần Askole, nơi anh đã đi qua trước đó ba tháng trên đường đến K2, nhưng không có gì quen thuộc cả. Lúc anh đến cổng chào của ngôi làng, một vòm cuốn đơn giản bằng gỗ dương đứng đơn độc bên rìa cánh đồng khoai tây, anh đang dẫn đầu một đám nhóc khoảng năm mươi đứa trẻ.

Nhìn về phía trước, anh hi vọng sẽ thấy Mouzafer đang đợi mình ở bên ngoài thị trấn. Nhưng thay vào đó, ngồi ở phía bên kia cổng làng, là một ông lão da nhăn nheo, mặc bộ áo topi, đội chiếc nón lông cừu hình hộp thuốc cũng có màu bạc đặc biệt như bộ râu của ông, với những đường nét mạnh mẽ như được tạc ra từ vách núi đang chờ anh. Tên ông ấy là Haji Ali và ông là nurmadhar, già làng của Korphe.

“As-salaam Alaaikum. ”(7) Haji Ali nói, bắt tay Mortenson. Ông đi cùng anh qua cổng làng, với sự hiếu khách không thể không có của người Balti, dẫn anh đến một con suối nhỏ, hướng dẫn anh rửa tay và mặt, sau đó đưa anh về nhà mình.

7. Lời chào, có nghĩa là “chúc bình an”

Làng Korphe nằm cheo leo trên rìa đá cao gần hai trăm năm mươi mét bên trên sông Braldu bám vào vách núi theo cách thức lạ lùng như một tảng đá phẳng làm chỗ ngủ cho những người leo núi được bắt vào sườn của một vách đá dựng đứng. Vùng đất chật cứng những ngôi nhà đá ba tầng vuông vức, được xây dựng không trang trí, hầu như không phân biệt được với những vách hẻm núi, ngoại trừ sự náo loạn của mơ, hành và lúa mì chất đống đầy màu sắc trên mái nhà.

Haji Ali dẫn Mortenson vào một căn chòi trông chẳng nguy nga gì hơn những căn chòi khác. Ông đập vào đống chăn nệm trải giường cho đến khi bụi bay đều khắp balti - căn phòng rộng giữa nhà, đặt những chiếc gối tại vị trí trân trọng gần một miệng lò sưởi và bố trí cho Mortenson ở đó.

Họ không nói gì khi trà được chuẩn bị, chỉ có tiếng bước chân và tiếng xếp đặt những chiếc gối khi hai mươi thành viên nam trong đại gia đình của Haji Ali xếp hàng đi vào và ngồi xuống chỗ của mình quanh lò sưởi. Phần lớn thứ khói cay từ ngọn lửa phân bò Tây Tạng bên dưới ấm trà thoát ra một cách khoan dung, qua một lỗ lớn hình vuông trên trần nhà. Khi nhìn lên, Mortenson thấy những đôi mắt của năm mươi đứa trẻ đã đi theo anh, xếp vòng tròn trên mái quanh cái lỗ vuông. Chưa từng có một người nước ngoài nào ở Korphe.

Bàn tay của Haji Ali sục mạnh trong túi chiếc áo khoác thêu, chà xát những miếng khô dê núi bốc mùi vào lá thuốc nhai màu xanh sậm được gọi là naswar. Ông mời Mortenson một miếng sau khi nó đã được tẩm hương liệu đầy đủ và Mortenson cố nuốt miếng ăn thách thức nhất trong đời mình khi các khán giả trong gian phòng lặng lẽ cười tán thưởng.

Khi Haji Ali đưa cho anh tách trà bơ, anh uống với một chút gì đó giống như là hài lòng.

Người già làng nghiêng người tới trước, lúc này, ngưỡng cần thiết của sự hiếu khách đã được vượt qua, và đẩy bộ mặt râu ria của ông đến trước mặt Mortenson.

“Cheezaley?” ông gầm gừ, một từ ngữ Balti không thể thiếu có nghĩa là “Điều quái quỷ nào đã đưa anh đến đây?”

Với những đoạn ngắn bằng tiếng Balti và phần lớn là ra điệu bộ, Mortenson nói với đám đông đang chăm chú nhìn mình, rằng anh là người Mỹ, rằng anh đến để leo núi K2 (điều này gây ra những tiếng xì xầm trong đám đàn ông), rằng anh mất sức và ốm, phải đi bộ đến Askole để tìm một chiếc xe jeep sẵn lòng chở anh trong tám giờ để đến Skardu, thủ phủ vùng Baltistan.

Mortenson ngồi xuống những chiếc gối, dốc cạn hết sức lực dự trữ cuối cùng của mình giữa những ngày đi bộ bất tận và những nỗ lực đã bỏ ra để chuyển tải nhiều thông tin như vậy. Ở đây, ấm áp bên lò sưởi, trên những chiếc gối mềm ấm cúng trong quá nhiều tình người, anh cảm thấy sự kiệt sức mà mình giữ trong tầm tay, dâng trào lên tràn ngập.

“Met Askole” (“Không phải Askole”) Haji Ali cười nói, ông chỉ vào mặt đất dưới chân mình. “Korphe.” ông nói.

Adrenaline làm Mortenson bật thẳng người dậy. Anh chưa bao giờ nghe nói đến Korphe. Anh chắc là nó chưa hề xuất hiện trên bất cứ tấm bản đồ nào mà anh đã nghiên cứu về Karakoram và anh đã nghiên cứu hàng chục tấm. Trấn tĩnh lại, anh giải thích rằng mình phải đến Askole để gặp một người đàn ông tên là Mouzafer, người đã mang theo toàn bộ đồ dùng cá nhân của anh.

Haji Ali nắm chặt vai người khách bằng đôi tay mạnh mẽ của mình và đẩy anh ngồi trở lại trên gối. Ông gọi người con trai Twaha của mình, người thường xuyên đi đến Skardu đủ để học được một mớ từ vựng phương Tây lõm bõm và chỉ thị cho anh ta phiên dịch. “Hôm nay không đi Askole được. Rắc rối lớn. Nửa ngày đi xe bò.” người đàn ông hóa thân không thể nhầm lẫn của cha mình, ngoại trừ bộ râu, nói, “Inshallah”(8) , ngày mai Haji gửi người đi tìm Mouzafer, bây giờ anh ngủ đi.”

8. “Cầu trời phù hộ”

Haji Ali đứng dậy vẫy tay ra hiệu cho bọn trẻ rời xa vuông trời đang tối sầm. Những người đàn ông tản khỏi lò sưởi trở về nhà. Bất chấp sự lo lắng gợn lên trong suy nghĩ, tự giận bản thân một lần nữa đi lạc khỏi con đường mòn, cảm giác trọn vẹn và dứt khoát về sự dịch chuyển, Greg Mortenson thiếp đi và cảm thấy buồn ngủ không sao cưỡng lại được.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx