sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ba tách trà - Chương 03

CHƯƠNG 3

“Tiến bộ và hoàn thiện”

“Hãy nói cho chúng tôi biết, nếu chúng tôi có thể làm một việc cho làng của các bạn, thì đó là việc gì?”

“Với tất cả sự kính trọng, Sahib, ông không có gì nhiều để dạy chúng tôi về sức mạnh và sự dẻo dai. Và chúng tôi không thèm muốn tinh thần thao thức của ông. Có lẽ chúng tôi hạnh phúc hơn ông? Nhưng chúng tôi muốn con cái mình được đến trường. Trong mọi thứ ông có, sự học là thứ chúng tôi mong muốn cho con cái của mình nhất.”

- Cuộc đối thoại giữa Sir Edmund Hillary và Urkien Sherpa, trích từ Schoolhouse in the Clouds.

Có ai đó đã đắp một tấm chăn dày cho anh. Rúc mình dưới tấm chăn, Mortenson đắm mình trong sự ấm áp. Đây là đêm đầu tiên anh được ngủ trong nhà, kể từ cuối mùa xuân. Trong ánh sáng mờ mờ của than trong lò sưởi, anh có thể thấy đường nét của nhiều khuôn mặt đang ngủ. Tiếng ngáy đến từ mọi góc phòng, với những độ lớn khác nhau. Anh cuộn người lại và góp thêm tiếng ngáy của mình.

Lần tiếp theo khi anh thức dậy, chỉ có một mình anh và bầu trời trong xanh hiện ra qua ô vuông trên trần nhà. Sakina, vợ của Haji Ali nhìn thấy anh cử động và mang đến cho anh sữa chua lassi, bánh chapatti mới nướng và một tách trà đường. Bà là người phụ nữ Balti đầu tiên đến gần anh. Mortenson nghĩ rằng Sakina chắc hẳn có khuôn mặt ân cần nhất mà anh đã từng gặp. Khuôn mặt đó nhăn lại theo cách gợi ra những nét của một nụ cười nơi khóe miệng và khóe mắt của bà rồi di chuyển từ mắt đến miệng và từ miệng đến mắt cho đến khi chúng hoàn tất cuộc chinh phục. Bà có mái tóc dài được bện cẩn thận theo kiểu của người Tây Tạng, bên dưới urdwa - cái nón len được trang điểm bằng những hạt cườm, vỏ sò và đồng tiền xưa. Bà đứng đó chờ Mortenson nếm thử bữa sáng.

Anh cắn một miếng bánh chapatti còn ấm sau khi đã nhúng nó trong lassi, ăn ngấu nghiến hết những gì được dọn cho mình, và nuốt trôi chúng bằng trà đường. Sakina cười khích lệ và đem thêm trà cho anh. Nếu như Mortenson biết được sự khan hiếm và quý báu của đường ở Balti, chính họ hiếm khi dùng đến đường, chắc chắn anh sẽ từ chối ly trà đường thứ hai.

Sakina để anh lại một mình, và anh nhìn kĩ căn phòng. Nó thanh đạm đến mức nghèo khổ. Một bức tranh quảng cáo du lịch đã phai màu in hình một căn nhà gỗ Thụy Sĩ trên cánh đồng cỏ tươi tốt sống động với những bông hoa dại được đóng đinh trên một bức tường. Mọi đồ vật khác, từ những vật dụng nấu ăn sạm đen cho đến những chiếc đèn dầu đã được sửa chữa nhiều lần, đều có vẻ còn dùng được. Chiếc chăn dày anh đã đắp khi ngủ được làm bằng lụa nhung lông màu hạt dẻ và được trang trí bằng những tấm gương nhỏ. Chăn mà những người khác sử dụng làm bằng len mỏng đã sờn được vá bằng bất cứ mảnh vải nào kiếm được. Rõ ràng, họ đã đắp cho anh vật sở hữu đẹp nhất trong nhà Haji Ali.

Lúc xế chiều, Mortenson nghe vang vang những tiếng nói và bước đi, với hầu hết cư dân còn lại, đến vách đá trông ra sông Braldu. Anh thấy một người đàn ông đang đẩy thân mình trong chiếc hộp treo trên một sợi cáp thép dài sáu mươi mét bên trên dòng sông. Băng qua sông theo cách này tiết kiệm được nửa ngày cho một người phải đi lên thượng nguồn sông và đi qua cây cầu bên trên làng Korphe, nhưng nếu rơi xuống chắc chắn sẽ chết. Khi người đàn ông đã qua được nửa hẻm núi, Mortenson nhận ra đó là Mouzafer, và thấy ông nhét người trong thùng cáp nhỏ xíu được ghép từ ván vụn, đang ngồi trên chiếc balô bốn mươi kí quen thuộc.

Lần này cái vỗ lưng chào của Mouzafer không làm cho Mortenson bất ngờ, và anh đã cố để không ho. Mouzafer bước xuống, nhìn anh từ đầu đến chân, mắt ông ươn ướt, rồi giơ hai tay lên trời và la lên “Allah, Akbhar!” và lắc tay cứ như là ân huệ của Thượng đế đã chất đầy quanh chân ông.

Ở nhà Haji Ali, qua bữa ăn với biango, món gà nướng chắc và dai như những người Balti đã nuôi chúng, Mortenson được biết Mouzafer nổi tiếng khắp vùng Karakoram. Đó là bởi ông đã phục vụ như một trong những người khuân vác giỏi nhất vùng núi cao ởHimalaya trong ba thập niên. Thành tích của ông nhiều và đa dạng, gồm cả việc tháp tùng nhà leo núi nổi tiếng Nick Clinch trong chuyến lên núi Masherbrum lần đầu tiên của người Mỹ vào năm 1960. Nhưng điều mà Mortenson thấy ấn tượng nhất về Mouzafer là ông chưa bao giờ kể ra những thành tích của mình trong suốt thời gian họ cùng đi và trò chuyện với nhau.

Mortenson kín đáo đưa cho Mouzafer ba nghìn rupi, khá nhiều hơn số tiền công mà họ đã thỏa thuận và hứa sẽ đến thăm ông tại ngôi làng của chính ông khi anh hoàn toàn bình phục. Mortenson không có cách nào để biết rằng Mouzafer sẽ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời anh suốt thập kỉ sắp tới, hướng dẫn anh vượt qua những trở ngại trên đường đời ở phía bắc Pakistan cùng với bàn tay chắc chắn mà ông đã đưa ra để giúp anh tránh những vụ tuyết lở và men theo những khe nứt.

Cùng với Mouzafer, Mortenson gặp lại Darsney và thực hiện chuyến đi dài bằng xe jeep để đến Skardu. Nhưng sau khi nếm trải những thú vị của người khách bộ hành với bữa ăn được chuẩn bị cẩn thận và chiếc giường tiện nghi ở khu lưu trú nổi tiếng dành cho những người leo núi, gọi là Motel K2, Mortenson cảm thấy có điều gì đó níu giữ anh quay lại vùng Karakoram. Anh cảm giác mình đã phát hiện một điều hiếm có ở Korphe và đã quay lại ngay khi anh có thể sắp xếp được một chuyến đi.

Từ chỗ trú tại nhà Haji Ali, Mortenson đã tạo một thói quen. Mỗi buổi sáng và buổi chiều, anh đi bộ một quãng ngắn quanh Korphe, luôn luôn có những đứa trẻ níu tay anh cùng đi. Anh đã thấy ốc đảo nhỏ bé xanh tươi trong sa mạc đá bụi bặm này có được sự hiện hữu của nó nhờ vào sức lao động đáng kinh ngạc và đã chiêm ngưỡng hàng trăm dòng kênh tưới mà làng đã bảo dưỡng bằng tay, để dẫn nước băng tan về những cánh đồng và vườn cây của họ.

Rời khỏi Baltoro, ngoài những hiểm nguy, anh nhận thức được sự sống sót của mình mới mong manh làm sao và anh đã trở nên suy yếu đến như thế nào. Anh chỉ có thể có được sự sống khi đi theo lối rẽ dẫn đến dòng sông và ở đó, trong dòng nước đang đóng băng, khi cởi áo ra giặt, anh giật mình bởi hình dạng của bản thân. “Cánh tay tôi trông như những que tăm, gầy gò cứ như tay của một người nào khác.” Mortenson nói.

Hổn hển thở trên đường quay lên ngôi làng, anh cảm thấy mình ốm yếu như những ông lão ngồi hàng giờ dưới những cây mơ ở Korphe, hút thuốc ống điếu và ăn hạt mơ. Sau một hay hai giờ đi loanh quanh mỗi ngày, anh không chịu nổi sự kiệt sức và quay trở lại để ngắm bầu trời từ cái tổ bằng những chiếc gối bên lò sưởi của Haji Ali.

Già làng cẩn thận quan sát tình trạng của Mortenson, và ra lệnh làm thịt một trong những con chogo rabak(9) quý giá của làng. Bốn mươi người dân xâu xé từng miếng thịt nướng từ những khúc xương của con vật gầy nhom, rồi đập vỡ xương bằng những viên đá, tước hết tủy bằng răng của họ. Mortenson nhận thức được một bữa ăn như vậy đối với người dân Korphe mới hiếm hoi làm sao và họ sống gần với cái đói như thế nào.

9. Con cừu đực

Khi sức khỏe đã trở lại, năng lực nhận thức của anh nhạy bén hơn. Lúc đầu, ở Korphe, anh nghĩ mình đã sẩy chân vào một xứ sở hạnh phúc. Nhiều người phương Tây đi qua vùng Karakoram có cảm tưởng rằng người Balti sống một cuộc sống đơn giản tốt hơn so với cuộc sống của họ khi quay trở lại quê hương ở những nước phát triển. Những du khách buổi ban đầu tìm cách đưa ra những cái tên lãng mạn, đã gán cho nó cái tên “Tây Tạng của những vườn mơ.”

Người Balti “dường như thật sự có thiên khiếu để vui hưởng cuộc sống.” Maraini đã viết vào năm 1958, sau khi viếng thăm Askole và chiêm ngưỡng “những cơ thể già nua của những người đàn ông ngồi trong nắng, hút thuốc bằng cái tẩu độc đáo của họ, những người này không quá già để làm việc trên những khung cửi đơn sơ trong bóng râm của những cây dâu tằm với kĩ năng chắc chăn mà họ có được từ kinh nghiệm của cả đời và hai bé trai, ngồi bên họ tỉ mỉ bắt chấy cho họ với sự dịu dàng và cẩn thận.”

Ông viết tiếp, “Chúng ta thở trong một bầu không khí hài lòng, một sự thanh bình vĩnh cửu. Tất cả điều đó gợi ra một câu hỏi. Có phải là tốt hơn khi sống trong sự thiếu hiểu biết về mọi chuyện - nhựa đường và đường nhựa, xe cộ, điện thoại truyền hình - để sống trong hạnh phúc mà không biết đến nó?”

Ba mươi lăm năm sau, người Balti vẫn sống với sự thiếu thốn những tiện nghi hiện đại như vậy, nhưng chỉ sau một vài ngày ở làng, Mortenson bắt đầu thấy rằng làng Korphe khác xa với thiên đường trước khi sa ngã của con người theo tưởng tượng của người phương Tây. Trong mỗi gia đình, có ít nhất một thành viên bị bướu cổ hoặc đục thủy tinh thể. Những đứa trẻ thì có mái tóc màu gừng, mà anh lấy làm ngạc nhiên, do một dạng suy dinh dưỡng gọi là kwashiorkor gây nên. Và từ những cuộc trò chuyện với Twaha, khi con trai của nurmadhar trở về sau các buổi cầu nguyện tối ở thánh đường Hồi giáo của làng, anh được biết vị bác sĩ gần nhất ở Skardu, cách xa một tuần đi bộ và cứ ba đứa trẻ ở Korphe, có một đứa chết trước khi đến ngày thôi nôi.

Twaha kể cho Mortenson nghe rằng chính vợ anh, Rhokia, đã chết khi sinh đứa con gái duy nhất, Jahan, bảy năm về trước. Cái chăn màu hạt dẻ có gắn gương mà Mortenson cảm thấy hân hạnh được đắp là của hồi môn quan trọng nhất của Rhokia.

Mortenson không thể tưởng tượng liệu có bao giờ trả được món nợ mà anh cảm thấy cho những vị chủ nhân ở Korphe. Nhưng anh xác định mình phải cố gắng. Anh bắt đầu phân phát tất cả những gì mình có. Những món nhỏ bé hữu ích như chai nước Nalgene và đèn pin rất quý đối với người Balti phải đi những quãng đường dài để cho gia súc ăn cỏ vào mùa hè và anh đưa hết cho những thành viên trong đại gia đình của Haji Ali. Với Sakina, anh tặng bà chiếc bếp du lịch có thể nấu bằng xăng, là thứ có thể kiếm được ở mọi ngôi làng của người Balti. Anh khoác chiếc áo khoác lông cừu màu rượu chát hiệu L.L.Bean lên vai Twaha, ép phải nhận, dù chiếc áo rộng hơn Twaha đến vài số. Anh tặng Haji Ali chiếc áo giữ nhiệt Helly Hansen đã giữ ấm cho anh trên ngọn K2.

Nhưng những thứ anh mang theo trong túi thuốc của đoàn thám hiểm cùng với quá trình được huấn luyện làm y tá cứu thương của anh tỏ ra có giá trị nhất. Mỗi ngày, khi khỏe dần lên, anh đã dành nhiều giờ trèo lên những con đường dốc giữa những căn nhà ở Korphe, làm điều nhỏ nhặt mà mình có thể làm để đáp lại những nhu cầu dồn dập. Với những ống thuốc mỡ kháng sinh, anh đã điều trị những vết thương hở, vết mổ và dẫn lưu những vết thương nhiễm trùng. Bất cứ nơi nào anh đến, có những đôi mắt van nài anh từ sâu trong nhà, nơi những người Balti lớn tuổi đã chịu đựng trong yên lặng nhiều năm. Anh xếp lại xương gãy và làm điều nhỏ nhặt mà mình có thể làm với thuốc giảm đau và kháng sinh. Lời đồn về công việc của anh đã lan ra và người ốm từ bên ngoài Korphe bắt đầu gửi người thân đến mời “bác sĩ Greg”, như anh sẽ được gọi từ đây về sau ở miền bắc Pakistan, bất chấp không biết bao nhiêu lần anh đã nói với họ rằng mình chỉ là một y tá.

Trong thời gian ở Korphe, Mortenson thường cảm thấy sự hiện diện của Christa, em gái mình, đặc biệt là khi anh ở cùng bọn trẻ Korphe. “Mọi thứ trong cuộc sống của chúng đều là một cuộc đấu tranh.” Mortenson nói. “Chúng nhắc tôi nhớ đến cách Christa đã chiến đấu cho những điều đơn giản nhất và cũng nhắc tôi cách mà em đã có chỉ để giữ gìn những gì cuộc sống đã ném vào em.” Anh đã quyết định phải làm một điều gì đó cho bọn trẻ. Có thể là khi đến Islamabad, anh sẽ dùng số tiền cuối cùng của mình mua sách giáo khoa gửi đến trường của chúng, hay những thứ cần thiết khác.

Nằm bên lò sưởi trước khi đi ngủ, Mortenson nói với Haji Ali là anh muốn đi thăm trường học của làng Korphe. Mortenson thấy vẻ buồn bã hiện lên trên nét mặt góc cạnh của người đàn ông lớn tuổi, nhưng anh cứ khăng khăng. Sau cùng người già làng đồng ý cho Mortenson đi theo lần đầu tiên vào buổi sang hôm sau.

Sau bữa sáng quen thuộc gồm chapatti và cha, Haji Ali dẫn Mortenson lên con đường dốc đến một rìa đất mở rộng gần hai trăm năm mươi mét bên trên dòng sông Braldu. Cảnh nhìn thật đẹp, với những tảng băng khổng lồ của vùng Baltoro thượng như dao cạo cắt vào bầu trời xanh cao bên trên những vách đá xám của làng Korphe. Nhưng Mortenson không ngắm nhìn phong cảnh. Anh kinh ngạc nhìn tám mươi hai đứa trẻ, bảy mươi tám em trai và bốn em gái đã can đảm gia nhập với những em trai đang quỳ trên mặt đất băng giá ngoài trời. Haji Ali tránh né cái nhìn của Mortenson, nói rằng làng không có trường, và chính quyền Pakistan không gửi đến giáo viên. “Một người thầy có chi phí tương đương một đôla mỗi ngày,” ông giải thích, “nhiều hơn số tiền mà làng có thể đài thọ.” Do vậy, họ chia sẻ chung thầy giáo với làng Munjung kế bên và thầy giáo dạy ở Korphe ba ngày mỗi tuần. Những ngày còn lại, bọn trẻ tự thực hành những bài học mà thầy để lại.

Mortenson chăm chú nhìn, tim anh như muốn nhảy ra ngoài khi các học sinh đứng nghiêm chăm chú và bắt đầu “ngày học” của chúng bằng bài quốc ca Pakistan. “Thượng đế ban ơn cho vùng đất thánh. Hạnh phúc dồi dào cho xứ sở là biểu tượng của lòng quyết tâm cao độ, là đất Pakistan.” Bọn chúng hát với sự du dương rời rạc, hơi thở của chúng sôi sục trong không khí vốn đã xúc động của mùa đông. Mortenson nhận ra cô con gái bảy tuổi của Twaha, Jahan, đứng thẳng và cao dưới tấm khăn choàng khi hát “Dân tộc, quê hương và đất nước sẽ ngời sáng trong vinh quang mãi mãi. Lá cờ trăng lưỡi liềm và sao dẫn đường đến tiến bộ và hoàn thiện.”

Trong thời gian dưỡng sức ở Korphe, Mortenson thường nghe dân làng than phiền về chính quyền Pakistan do người Punjabi thống trị, mà họ xem như một quyền lực nước ngoài ở vùng đồng bằng. Điệp khúc thường nghe là sự kết hợp giữa tham nhũng và bỏ lơ đã bòn rút hết số tiền ít ỏi dành cho người dân Baltistan trên con đường dài từ thủ đô Pakistan đến những thung lũng miền núi xa xôi này. Họ cho rằng thật nực cười khi chính quyền Islamabad sẵn sàng chiến đấu thật kiên cường để giành lấy mảnh đất từng là xứ Kashmir này từ Ấn Độ, trong khi không làm gì nhiều cho dân chúng ở đó.

Và rõ ràng là phần lớn số tiền đến được độ cao này đã được dành riêng cho quân đội, để cung cấp tài chính cho sự đối đầu tốn kém với những lực lượng Ấn Độ dọc theo sông băng Siachen. Nhưng một đôla mỗi ngày cho một thầy giáo, Mortenson nực cười, tại sao một chính phủ ngay cả một chính phủ nghèo như Pakistan lại không thể cung cấp số tiền đó? Vì sao lá cờ hình sao và trăng lưỡi liềm lại không thể dẫn dắt những đứa trẻ ở một khoảng cách không xa này hướng đến “tiến bộ và hoàn thiện”?

Sau khi nốt nhạc cuối cùng của bài quốc ca tan biến, những đứa trẻ ngồi xuống thành một vòng tròn ngay ngắn và bắt đầu chép lại bảng nhân của chúng. Phần lớn bọn chúng vạch xuống đất bằng những thanh que mà chúng đã mang theo cho mục đích đó. Những đứa may mắn hơn, như Jahan, có tấm bảng đá mà chúng viết lên bằng thanh que nhúng vào hỗn hợp bùn và nước. “Bạn có thể tưởng tượng một lớp bốn ở Mỹ chỉ riêng bọn trẻ, không có thầy ngồi yên lặng ở đó và học bài của chúng hay không?” Mortenson hỏi. “Tôi cảm thấy tim mình như rách toạc, có một ham muốn mãnh liệt trong việc học của chúng, bất chấp mọi điều mạnh mẽ chống lại chúng như thế nào, điều này làm tôi nhớ đến Christa. Tôi biết mình cần phải làm một điều gì đó.”

Nhưng phải làm gì? Anh chỉ có đủ tiền nếu ăn uống đạm bạc và trọ trong những nhà nghỉ rẻ tiền nhất, đi bằng xe jeep và xe buýt trở về Islamabad, rồi đáp máy bay về nhà.

Ở California, anh có thể tìm được công việc y tá không thường xuyên, và phần lớn tài sản của anh chứa vừa trong thân chiếc “La Bamba” - chiếc xe Buick màu đỏ tía, uống xăng mà anh gần gũi như là nhà mình. Tuy vậy vẫn phải làm điều gì đó.

Đứng bên Haji Ali, trên rìa đá trông xuống thung lũng, với cảnh nhìn như pha lê của những ngọn núi mà anh đã đến từ nửa vòng trái đất để thử sức chính mình việc leo lên ngọn K2 để đặt một chuỗi hạt trên đỉnh núi, đột nhiên có vẻ như không thích hợp. Có một hành động mang nhiều ý nghĩa hơn mà anh có thể làm để tưởng nhớ em gái mình. Anh đặt tay mình lên vai Haji Ali, như người đàn ông lớn tuổi này đã làm với anh hàng chục lần khi họ chia sẻ cùng nhau tách trà buổi sáng. “Tôi sẽ xây cho ông một ngôi trường,” anh nói, chưa nhận thức được là với những lời này, con đường đời của anh vừa rẽ sang một lối mòn khác, một con đường còn ngoằn ngoèo và gian khổ hơn những khúc quanh lạc lối mà anh đã đi theo khi rút lui khỏi K2. “Tôi sẽ xây một ngôi trường.” Mortenson nói. “Tôi hứa.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx