sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ba tách trà - Chương 06 phần 2

Mortenson dẫn mình đi dọc theo một hành lang dài và hẹp, qua một đám những cây đòn tay gỗ tựa hờ vào vách. Anh được mời ngồi trên chồng thảm đã bạc màu, kế bên Ali, người chủ tiệm; chiếc áo shalwar không một vết bẩn của ông ta giống như một phép lạ giữa bụi bặm và sự huyên náo của cửa hàng. Mortenson cảm thấy ngượng ngùng hơn bao giờ hết về chiếc shalwar rách và vấy dầu mỡ của mình mà Abdul ít nhất cũng đã khâu hờ lại cho đến khi chiếc áo mới của anh được may xong. Ali xin lỗi vì trà vẫn chưa pha xong và sai một thằng bé chạy đi mua ba chai nước cam hiệu Thums Up.

Với hai tờ một trăm đôla mới cứng, Abdul Rauf, một kiến trúc sư có văn phòng nhỏ ở tiền sảnh khách sạn Khyaban, đã vẽ các bản vẽ ngôi trường năm phòng theo hình chữ L mà Mortenson hình dung. Ở lề giấy, ông ta ghi chi tiết những vật liệu xây dựng mà cấu trúc sáu trăm mét vuông này cần đến. Gỗ chắc chắn là khoản chi lớn nhất cho ngôi trường. Mortenson trải các bản vẽ ra và đọc ghi chú nhỏ li ti của kiến trúc sư: “Chín mươi hai cây hai nhân bốn dài hai mét rưỡi, năm mươi bốn tấm ván ép bốn nhân tám làm ván lót.” Về khoản này, kiến trúc sư đã dự trù là hai trăm năm mươi đôla. Mortenson đưa bản vẽ cho Abdul.

Khi nhấp thứ nước cam âm ấm bằng ống hút, Mortenson quan sát Abdul đọc lớn những món vật tư và nháy mắt khi những ngón tay thành thạo của Ali gõ trên cái máy tính đặt thăng bằng trên đầu gối.

Sau cùng, Ali chỉnh chiếc nón cầu nguyện màu trắng mới toanh trên đầu và vuốt bộ râu dài trước khi nêu ra con số. Abdul bật dậy khỏi ghế và vỗ vào trán mình như vừa bị bắn. Ông bắt đầu lớn tiếng than vãn, giọng trầm bổng đầy lời lăng mạ. Mortenson, với khả năng ngôn ngữ đặc biệt, ngày càng biết được thêm nhiều tiếng Urdu. Nhưng những câu chửi rủa và than vãn mà Abdul sử dụng có chứa những lời lăng mạ phức tạp mà Mortenson chưa bao giờ nghe. Sau cùng khi Abdul cong người xuống và cúi về phía Ali với hai bàn tay hếch lên như vũ khí, Mortenson nghe rõ Abdul hỏi Ali rằng liệu ông ta có phải là một người Hồi giáo hay là một kẻ ngoại đạo. Quý ông đang đem lại vinh dự cho ông ta bằng cách muốn mua gỗ của ông ta là một vị thánh, đến để thực hiện một hành động zakat, có nghĩa là từ thiện. Một người Hồi giáo chân chính sẽ nhảy bổ vào cơ hội giúp đỡ những đứa trẻ thay vì cố đánh cắp tiền của chúng.

Suốt lúc Abdul diễn, nét mặt của Ali vẫn thản nhiên. Ông ta nhấp nước Thums Up một cách thoải mái và điềm tĩnh mặc cho thời gian mà Abdul công kích kéo dài như thế nào.

Trà được đưa đến trước khi ông ta thấy khó chịu và đáp trả lại những lời buộc tội của Abdul. Cả ba cho thêm đường vào trà xanh ướp hương, trong những tách sứ đẹp khác thường, và trong giây lát, âm thanh duy nhất trong phòng là tiếng lách cách của những cái thìa mà họ dùng để khuấy trà.

Ali nhấp một ngụm trà quyết định, gật đầu ra vẻ tán thưởng và rồi gọi vọng vào trong hành lang để ra chỉ thị. Abdul, vẫn cau có, đặt tách trà xuống kế bên hai chân bắt chéo của mình mà không nếm. Đứa con trai tuổi thanh niên có bộ râu mép lún phún của Ali mang ra hai khúc gỗ hai nhân bốn. Nó đặt xuống thảm, hai bên chén trà của Mortenson như hai cái chặn giấy.

Súc súc trà trong miệng như rượu Bordeaux lâu năm, Ali nuốt trà rồi bắt đầu một bài diễn văn chuyên nghiệp. Ông chỉ vào khúc gỗ ở bên phải Mortenson. Bề mặt khối gỗ có các mắt gỗ màu đen và vạch lan của dầu mỡ. Những mảnh dăm như lông nhím nhô ra ở hai đầu. Ông ta nâng khúc gỗ lên, xoay nó theo chiều dài như một kính viễn vọng và nhìn Mortenson qua những lỗ mọt “Sản xuất theo cách thức địa phương.” ông ta nói bằng tiếng Anh.

Ali chỉ khúc gỗ còn lại. “Sản xuất theo cách thức của Anh.” ông nói. Khúc gỗ không có mấu gỗ và được xẻ theo đường chéo bằng một đường xẻ gọn gàng. Ali nắm khúc gỗ đưa ra trước mũi Mortenson bằng một bàn tay và xòe bàn tay kia phía bên dưới, gợi ý thung lũng Kaghan, rừng thông nguyên sơ mà khúc gỗ này xuất phát từ đó.

Con trai Ali quay lại với hai tấm ván ép, đặt lên trên những viên gạch xỉ than. Nó tháo đôi sandal ra và trèo lên trên hai tấm ván ép. Nó không nặng quá bốn mươi lăm kí nhưng tấm ván thứ nhất oằn xuống, cong giãn ra với tiếng cót két đáng ngại. Tấm thứ hai chỉ cong xuống vài centimet. Theo yêu cầu của Ali, thằng bé bắt đầu nhảy lên xuống. Tấm ván vẫn chắc chắn.

“Ba lớp.” Ali nói với Mortenson, nhếch môi trông đáng ghét, không thèm liếc nhìn tấm ván thứ nhất. “Bốn lớp.” ông ta nói một cách tự hào về tấm ván mà cậu con trai vẫn đang nhảy trên đó.

Ông chuyển sang tiếng Urdu. Không cần phải theo thứ ngôn ngữ chính xác của mình. Rõ ràng ông đang giải thích rằng người ta có thể mua gỗ với giá rẻ mạt. Nhưng loại gỗ nào? Có thứ sản phẩm tồi mà những nhà buôn kém đạo đức khác có thể bán. Thứ xây dựng trường học với sản phẩm đó, nó chỉ thọ được một năm. Rồi một cậu bé đáng yêu mới bảy tuổi một ngày kia đang đọc thuộc lòng kinh Koran thì những tấm ván sàn sẽ tét ra với đường nứt đáng sợ và các động mạch của cậu bé sẽ bị tổn thương trầm trọng bởi thứ vật liệu nguy hiểm và không đáng tin cậy đó. Ông có muốn tuyên án một cậu bé bảy tuổi bị chảy máu từ từ đến chết vì ông quá keo kiệt để mua gỗ ván có chất lượng?

Mortenson uống cạn tách trà thứ hai và sốt ruột trên đống thảm bụi bặm trong khi những màn kịch tiếp diễn. Ba lần, Abdul đi về phía cửa như muốn bỏ và ba lần Ali đề nghị xuống một mức giá. Mortenson châm thêm nước vào ấm trà cạn. Sang đến giờ thứ hai, Mortenson thấy mình đã hết kiên nhẫn. Anh đứng và ra hiệu cho Abdul bước ra cùng anh. Có đến chục cuộc thương lượng tương tự mà họ phải trải qua, nếu anh muốn chất hàng lên xe tải và đi Baltistan vào ngày kia và anh cảm thấy mình không thể chần chừ một phút nào nữa.

“Baith, baith! Ngồi xuống, ngồi xuống!” Ali nói, nắm lấy tay áo Mortenson. “Anh thắng. Ông ta đã phá giá của tôi.”

Mortenson nhìn Abdul. “Vâng, ông ta nói đúng. Greg Sahib. Anh chỉ phải trả tám mươi bảy nghìn rupi.” Mortenson nghiền ngẫm con số trong đầu - hai nghìn, ba trăm đôla. “Tôi đã nói với anh,” Abdul nói. “Ông ta là một người Hồi giáo tốt. Bây giờ chúng ta sẽ làm hợp đồng.”

Mortenson cố nén sự sốt ruột của mình khi Ali gọi thêm một ấm trà nữa.

Vào cuối buổi chiều của trọn một ngày trả giá thứ hai, bụng Mortenson căng phồng nước trà, lệch bệch đi về Khyaban, cùng Abdul ngồi phía sau chiếc xe thồ được kéo bởi một con ngựa nhỏ, con ngựa có vẻ kiệt sức hơn cả họ. Trong túi áo shalwar của anh chứa đầy giấy biên nhận mua búa, cưa, đinh, tôn thiếc lợp mái và gỗ loại tốt có thể chịu đựng được bọn trẻ ở trường học. Tất cả nguyên vật liệu phải được giao vào rạng sáng hôm sau đến chiếc xe tải mà họ đã thuê cho chuyến đi ba ngày trên xa lộ Karakoram.

Abdul đề nghị đi taxi về khách sạn. Nhưng Mortenson, bị sốc bởi gói tiền rupi vơi đi nhanh chóng mỗi khi anh trả thêm một món tiền đặt cọc, đã khăng khăng phải tiết kiệm. Quãng đường hai dặm mất hơn một giờ, qua những con đường hôi hám bởi ống xả khói không được bao bọc của những chiếc taxi Morris màu đen.

Ở khách sạn, Mortenson gột rửa bụi bặm của một ngày trả giá bằng cách xối nước ấm hết xô này đến xô khác lên đầu, không thèm cởi áo shalwar, rồi vội vàng đến chỗ người thợ may với hi vọng nhận được áo quần trước khi tiệm đóng cửa để cầu nguyện tối thứ sáu.

Manzoor Khan đang ủi chiếc áo shalwar đã hoàn tất của Mortenson bằng cái bàn ủi than, và ngâm nga theo một giọng nữ đang rên rỉ một bài hát tiếng Urdu. Giai điệu loảng xoảng vang vọng qua khu phức hợp từ chiếc radio của người thợ giày ở cuối hành lang, kèm theo âm thanh buồn bã của những cánh cửa thép lá chớp được kéo xuống vào cuối ngày.

Mortenson mặc vào chiếc áo shalwar sạch sẽ, màu bột yến mạch, mới cứng và vẫn còn hơi ấm từ bàn ủi. Rồi được che chắn một cách khiêm tốn bởi tà áo dài đến đầu gối, anh xỏ chiếc quần mới rộng thùng thình. Anh buộc chặt sợi dây lưng và quay sang Manzoor để kiểm tra.

“Bohot Kharab!” thật kinh khủng, Manzoor tuyên bố. Ông nhào về phía Mortenson, chộp sợi dây lưng được buộc bên ngoài quần của gã vô đạo, kéo nó vào bên trong cạp quần. “Cấm không được mặc như vậy.” Manzoor nói. Mortenson cảm thấy như có những sợi dây gài bẫy bao quanh mình trong văn hóa Pakistan - các quy tắc khắt khe về cách cư xử mà anh buộc phải vướng vào - và anh quyết định cố để tránh những vi phạm đột xuất như vậy thêm nữa.

Manzoor lau kính bằng vạt áo, để lộ chiếc quần được buộc vừa phải, và kiểm tra bộ áo quần của Mortenson một cách cẩn thận. “Bây giờ, anh giống người Pakistan năm mươi phần trăm.” ông nói. “Anh sẽ thử cầu nguyện nữa chứ?”

Manzoor đóng cửa hàng vì trời đã tối và dẫn Mortenson ra ngoài. Bụi nhiệt đới nhanh chóng làm dịu ánh sáng ban ngày, và cùng với nó là một phần hơi nóng. Mortenson bước đi, tay trong tay với ông thợ may, hướng về ngôi tháp lợp ngói của Giáo đường GTS. Ở cả hai bên đường Kashmir, những người đàn ông cũng đi như vậy theo từng nhóm hai hoặc ba người qua các cửa tiệm đã được đóng cửa hoặc đang đóng cửa. Vì việc lái xe không được tán thành trong giờ cầu nguyện tối nên xe cộ qua lại khá ít.

Hai tòa nhà trước ngọn tháp đáng sợ của nhà thờ Hồi giáo GTS, mà Mortenson cho là nơi đến của họ, Manzoor dẫn anh vào trạm xăng CalTex rộng và đầy bụi, nơi có hơn một trăm người đàn ông đang cúi xuống để wudu, nghi thức tẩy rửa cần thiết trước khi bắt đầu cầu nguyện. Manzoor hứng đầy một lota, nghĩa là vại nước, từ vòi nước và dặn dò Mortenson về trình tự chặt chẽ của việc tẩy rửa. Bắt chước ông thợ may, Mortenson ngồi xổm, xắn ống quần và tay áo lên, bắt đầu từ những phần không sạch sẽ nhất, hắt nước lên bàn chân trái, rồi bàn chân phải. Anh chuyển sang bàn tay trái và rửa bàn tay phải khi Manzoor, đang cúi người để lấy đầy một lota nữa trước khi rửa mặt, đánh rắm thành tiếng. Thở dài, ông thợ may quỳ gối và bắt đầu tẩy rửa lại bàn chân trái của mình. Khi Mortenson làm giống như vậy, ông chỉnh lại. “Không, chỉ tôi thôi, tôi không sạch.” ông giải thích.

Khi hai bàn tay đã tinh khiết đúng mức trở lại, ông thợ may nhét một tua vải vào lỗ mũi bên trái, rồi bên phải, hỉ ra, và Mortenson lại bắt chước y hệt những động tác của ông. Quanh họ, tiếng nói và khạc nhổ lộn xộn đi kèm với nửa chục tiếng kêu gọi cầu nguyện từ xa. Bắt chước Manzoor, Mortenson rửa tai, rồi cẩn thận vẩy nước vào những nơi mà người Hồi giáo xem như là thiêng liêng nhất của con người, miệng, nơi mà lời cầu nguyện đi lên trực tiếp đến tai Thánh Allah.

Từ nhiều năm, Mortenson đã biết, theo sách vở, từ “Hồi giáo” có nghĩa đen là “phục tùng”. Và cũng như nhiều người Mỹ tôn thờ ngôi đền chủ nghĩa cá nhân thô thiển, anh thấy ý tưởng phục tùng làm hạ thấp nhân phẩm. Nhưng lần đầu tiên, quỳ gối giữa hàng trăm người lạ, xem họ rửa đi không chỉ những thứ ô uế mà rõ ràng là những nỗi đau và lo lắng trong cuộc sống hằng ngày, anh thoáng thấy niềm vui tìm được trong sự phục tùng cho tình đồng đạo được nghi thức hóa của việc cầu nguyện.

Có ai đó tắt máy phát điện của trạm xăng, và những người tham dự đậy những trụ bơm xăng lòe loẹt bằng những tấm trải khiêm tốn nhất. Manzoor lấy cái mũ cầu nguyện màu trắng trong túi và ép phẳng ra để nó có thể nằm yên trên cái đầu lớn của Mortenson. Nhập vào dòng người, Mortenson và Manzoor quỳ trên các tấm thảm mà Manzoor mang theo. Mortenson biết rằng ở xa ngoài bức tường mà họ quay mặt vào, nơi có một bảng hiệu khổng lồ màu cam và đỏ tía quảng cáo những phẩm chất của xăng CalTex, là Thánh địa Mecca. Anh không thể không cảm thấy rằng mình đang được yêu cầu cúi đầu trước nghệ thuật kinh doanh và kĩ năng lọc dầu của những nhà buôn dầu Texas và Ả Rập Saudi, nhưng anh cố dẹp tính ưa nhạo báng của mình sang một bên.

Cùng với Manzoor, anh quỳ và khoanh tay kính cẩn hướng về Thánh Allah. Những người đàn ông quanh anh không nhìn vào bảng quảng cáo trên tường, anh biết họ đang nhìn vào bên trong con người mình. Họ không quan tâm đến anh. Khi áp trán xuống nền đất còn ấm, Greg Mortenson nhận ra đó là khoảnh khắc đầu tiên trong những ngày anh ở Pakistan, không ai nhìn anh như người ngoài. Không ai nhìn anh cả. Allah Akbhar, anh hát khẽ, Chúa vĩ đại, anh góp giọng mìng vào dàn đồng ca ở mặt đất tối đen. Đức tin vây quanh anh mạnh mẽ. Đủ mạnh để chuyển một trạm xăng thành chốn thiêng liêng. Ai mà biết được phía trước sẽ có sự chuyển biến kì diệu nào khác nữa?


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx