sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ba tách trà - Chương 07 phần 1

CHƯƠNG 7

Con đường về nhà gian khổ

Vùng đất khắc nghiệt và lộng lẫy này

Với những núi đá phủ tuyết, những dòng suối lạnh như pha lê,

Những cánh rừng bách, bách xù và tần bì thăm thẳm

Như chính cơ thể của ta trước khi nàng ở đây.

Ta không thể tách rời khỏi nơi này hay khỏi nàng.

Trái tim của chúng ta có chung một nhịp đập.

- trích từ The Warrior Song of King Gezar

Tiếng gõ cửa của Abdul đến từ rất sớm trước bình minh. Mortenson đang nằm không ngủ, trên chiếc giường lò xo, nhiều giờ liền. Giấc ngủ không thể nào sánh được với nỗi lo sợ rằng mọi việc trong ngày hôm nay có thể sẽ trở nên tồi tệ. Anh đứng dậy và mở cửa, cố gắng hiểu khi nhìn thấy người đàn ông một mắt đưa đôi giày bóng lưỡng cho anh kiểm tra.

Đó là đôi giày tennis của anh. Trong khi Mortenson ngủ, Abdul hẳn đã bỏ ra nhiều giờ để khâu lại, lau chùi và đánh bóng đôi giày Nike rách và bạc màu, cố biến chúng thành một thứ gì đáng tôn trọng hơn. Một thứ mà người đàn ông sắp thực hiện chuyến hành trình dài và khó khăn có thể thắt dây với sự kiêu hãnh. Abdul cũng tự biến đổi chính mình. Bộ râu bình thường màu bạc của ông được nhuộm màu cam sậm từ loại lá móng non.

Mortenson cầm lấy ly trà, rồi rửa mặt với một xô nước lạnh và phần còn lại của bánh xà phòng hiệu Tibet Snow mà anh được phát cho một tuần. Nhúm tài sản của anh chỉ chứa đầy nửa chiếc túi du lịch cũ. Anh để cho Abdul quàng túi lên vai mình, biết được sự giận dữ về việc phạm luật mà mình sẽ gặp nếu cố tự đeo túi, và trìu mến tạm biệt căn phòng áp mái của mình.

Ý thức được đôi giày sáng bóng của mình và thấy rằng việc chăm chút hình thức đã làm cho Abdul hài lòng như thế nào, Mortenson đồng ý thuê một chiếc taxi cho chuyến đi đến khu chợ. Chiếc Morris đen từ thời thuộc địa bị bỏ trôi nổi ở Pindi do sự thoái trào của Đế quốc Anh, chạy nhanh một cách lặng lẽ giữa những con phố còn đang ngủ.

Ngay cả trong ánh đèn mờ của khu vực chợ đang đóng kín, họ dễ dàng tìm ra chiếc xe tải của mình. Cũng giống như phần lớn những chiếc Bedford trong vùng, không còn lại gì nhiều của chiếc xe từ những năm 1940 đã phục vụ như một xe vận tải quân sự khi Pakistan còn là một phần đất Ấn Độ thuộc Anh. Hầu hết những bộ phận chuyển động đã được thay thế hàng chục lần bằng những phụ tùng được gia công nội địa. Nước sơn màu ôliu nguyên thủy, quá buồn tẻ cho ông vua của xa lộ Karakoram này, đã được chôn vùi bên dưới những tấm gương và những hình thoi kim loại trang trí. Và từng centimet vuông diện tích bề mặt không trang trí còn lại được nhấn chìm bên dưới lớp “sơn disco” tại một trong nhiều xưởng sửa chữa Bedford ở Rawalpindi. Hầu hết những thiết kế có màu sắc rực rỡ như vàng, vàng chanh và đỏ tươi đều là vòng xoắn và đường lượn trang trí phù hợp với sự cấm kị của Hồi giáo đối với hội họa miêu tả. Nhưng một chân dung bằng cỡ người thật của ngôi sao cricket Imran Khan ở cốp sau, đang đưa cây gậy lên cao như quyền trượng, là một hình thức sùng bái thần tượng kích thích lòng tự hào dân tộc mạnh mẽ mà một vài người Pakistan, ngay cả những người sùng đạo nhất có thể gặp phải sự chống đối.

Mortenson trả tiền cho tài xế taxi, rồi bước quanh chiếc xe to như con voi đang ngủ, tìm lái xe và phụ xe, lo lắng để bắt đầu một ngày làm việc. Một âm thanh ầm ầm làm anh quỳ gối xuống dưới sàn xe, nơi có ba người đang nằm đong đưa trên võng, hai trong số đó đang ngáy uể oải.

Tiếng kêu gọi cầu nguyện đã đánh thức họ trước Mortenson, rền rĩ vọng ra từ ngọn tháp ở phía xa quảng trường với một âm lượng không thèm để ý đến giờ giấc. Trong khi họ lầm bầm, tự kéo mình ra khỏi võng, khạc nhổ lung tung và đốt điếu thuốc lá đầu tiên trong nhiều điếu khác, Mortenson quỳ xuống với Abdul và chuẩn bị cầu nguyện. Như hầu hết những người Hồi giáo khác, Abdul có một la bàn trong người luôn luôn định hướng về phía Mecca. Mặc dù họ quay mặt về một khung cảnh không gợi cảm hứng là cổng rào vẫn còn khóa của bãi gỗ, Mortenson cố nhìn ra xa ngoài cảnh vật xung quanh. Không có nước, Abdul xắn ống quần và tay áo lên, rồi vẫn thực hiện nghi thức tẩy rửa, chùi sạch một cách tượng trưng những ô uế có thể được tẩy rửa. Mortenson làm theo, rồi khoanh tay và cúi người để cầu nguyện buổi sáng. Abdul liếc nhìn anh một cách soi mói rồi gật đầu tỏ vẻ chấp nhận. “Vậy, tôi có giống người Pakistan chưa?” Mortenson nói.

Abdul phủi bụi khỏi trán chàng trai người Mỹ, vừa áp vào nền đất lạnh. “Không phải một người đàn ông Pakistan.” ông nói. “Nhưng nếu anh nói là một người Bosnia, thì tôi tin.”

Ali, trong bộ shalwar không vấy bẩn khác, đến mở khóa cổng cửa hàng của mình. Mortenson kính cẩn chào ông ta, rồi mở một quyển sổ tay học sinh nhỏ anh đã mua ở tiệm tạp hóa và bắt đầu ghi một vài phép tính. Khi chiếc Bedford đã chất đầy hàng, hơn hai phần ba trong số tiền mười hai nghìn đôla đã được chi. Anh chỉ còn ba nghìn đô để trả tiền nhân công, để thuê xe jeep chở vật liệu cho trường học trên những con đường mòn hẹp đến Korphe và để anh sinh sống cho đến khi ngôi trường hoàn tất.

Năm người trong đại gia đình của Ali chất gỗ lên trước trong khi tài xế và phụ xe giám sát. Mortenson đếm những tấm ván khi chúng được lèn chặt vào phía trước sàn xe tải và xác nhận đó chắc chắn là ván ép bốn lớp, anh theo dõi, hài lòng khi những cây gỗ rừng hai nhân bốn mới xẻ được chất lên trên.

Lúc mặt trời chiếu sáng khu chợ, nhiệt độ đã lên đến hơn 37 độ C. Với tiếng leng keng hòa điệu, những người chủ tiệm cuốn hoặc gấp những cánh cổng kim loại ở cửa hàng của mình. Những phần nhỏ của ngôi trường luồn lách qua đám đông trên đầu những người khuân vác hướng đến xe tải, hoặc được chở trên những chiếc xe cút kít do người đẩy, những chiếc xe lừa và một chiếc Bedford khác giao một trăm bao ximăng.

Trong sàn xe, công việc khá sôi nổi, nhưng Abdul lảng vảng quanh đội xe, gọi tên từng món hàng đang được xếp gọn gàng cho Mortenson để anh kiểm tra lại trên danh mục. Mortenson theo dõi, càng lúc càng thấy hài lòng khi mỗi một món trong số bốn mươi hai món hàng khác nhau mà anh và Abdul đã trả giá gắt gao được xếp gọn gàng, những cái rìu nằm cạnh những cái bay, chèn vào nhau bởi một đội hình những cái xẻng.

Buổi chiều, một đám đông tụ tập quanh chiếc Bedford khi có tin đồn một kẻ ngoại đạo mặc bộ đồ ngủ màu nâu đang chất vật liệu của một ngôi trường cho trẻ em Hồi giáo lên xe tải. Những phu khuân vác phải xô đẩy qua một vòng người năm lớp để giao hàng. Bàn chân cỡ số mười bốn của Mortenson thu hút những cái nhướng mày và những câu nói đùa tục tĩu không ngớt từ người đứng nhìn. Các khán giả la hét đoán quốc tịch của Mortenson khi anh đang làm việc. Bosnia và Chechnya được cho là nguồn gốc có nhiều khả năng nhất của người đàn ông trông xơ xác này. Khi Mortenson, với tiếng Urdu tiến bộ nhanh chóng của mình, làm gián đoạn sự suy đoán bằng cách nói mình là người Mỹ; đám đông nhìn chiếc áo shalwar đẫm mồ hôi và bụi bặm, vào làn da bẩn và nhờn của anh, và nhiều người nói là họ không tin.

Hai trong những món hàng quý nhất - thước thủy và dây dọi - đã lạc mất. Mortenson đoan chắc là đã nhìn thấy chúng được giao, nhưng không thể tìm ra chúng trong chiếc xe tải đang được chất đầy một cách nhanh chóng. Abdul dẫn đầu việc tìm kiếm một cách nhiệt tình, kéo những bao ximăng sang một bên cho đến khi tìm được chúng. Ông dùng vải cuộn chúng lại và cẩn thận dặn tài xế cất giữ những dụng cụ này an toàn trong cabin trên suốt quãng đường đến Skardu.

Đến tối, Mortenson đã kiểm tra xong bốn mươi hai món hàng trong danh sách của mình. Đống vật liệu đã cao đến sáu mét, và tài xế cùng phụ xe đang nỗ lực làm cho khối hàng được xếp đặt chắc chắn trước khi trời tối, trùm vải bạt lên trên và buộc chặt bằng những sợi dây thừng chằng chịt.

Khi Mortenson leo xuống từ biệt Abdul, đám đông vây chặt lại, đưa tặng thuốc lá và những tờ rupi nhàu nát để ủng hộ cho ngôi trường. Người tài xế sốt ruột muốn khởi hành và khởi động máy xe, thổi ra những đám khói diesel màu đen từ hai ống khói xe. Bất chấp sự ồn ào và huyên náo, Abdul đứng yên tuyệt đối ngay giữa đám đông, thực hiện một dua lời cầu nguyện cho một chuyến đi bình yên. Ông nhắm mắt lại và đưa hai bàn tay lên mặt, tự đắm mình vào tinh thần của Allah. Ông vuốt bộ râu nhuộm và ngâm nga lời cầu xin thành khẩn cho Mortenson được khỏe mạnh. Lời cầu xin chìm trong tiếng còi chát chúa của chiếc Bedford.

Abdul mở mắt, nắm lấy bàn tay to và bẩn của Mortenson bằng cả hai tay. Ông nhìn khắp người bạn mình, nhận ra đôi giày mà ông đánh bóng đêm trước đã đen vì bụi bẩn, cũng giống như chiếc áo shalwar mới may. “Tôi không nghĩ ông là người Bosnia nữa, ông Greg, lúc này ông giống hệt một người đàn ông Pakistan.” Ông vừa nói vừa vỗ vào lưng Mortenson.

Mortenson trèo lên nóc xe tải, gật đầu với Abdul đang đứng một mình và kiệt sức ở ngoài rìa đám đông. Tài xế sang số xe, “Allah Akbhar! ” đám đông đồng loạt la lên, Allah Akbhar! Mortenson đưa tay lên cao làm dấu hiệu chiến thắng và vẫy chào từ biệt cho đến khi chòm râu được nhuộm bằng cây lá móng của ông bạn biến mất trong đám đông sôi sục.

Ầm ĩ phóng ra khỏi Rawalpindi hướng về phía tây, Mortenson ngồi trên mui chiếc Bedford. Mohammed, người tài xế, thúc giục Mortenson ngồi vào cabin ám khói nhưng anh nhất định thưởng thức giây phút này theo một phong cách đặc sắc. Những nghệ sĩ ở xưởng Bedford tại Pindi đã hàn thêm phần mở rộng ở sàn xe khá ngộ nghĩnh, phần mở rộng đó được treo trên cabin như một cái nón đội lệch. Trên nóc của vành nón lượn lờ trên cabin khua lạch cạch, Mortenson tạo cho mình một cái ổ tiện nghi bằng vải bạt với những bành cỏ khô; cái ổ lắc lư trên đường xa lộ khi xe tăng tốc. Đồng hành với anh là những cái sọt chứa những con gà trắng như tuyết mà Mohammed mang theo để bán ở miền núi, và một điệu nhạc Punjabi mạnh mẽ vang lên qua cửa sổ để mở của chiếc Bedford.

Rời khỏi những khu chợ dày đặc của Rawalpindi, vùng đất nâu, khô cằn mở ra, tiếp nối một màu xanh bằng phẳng và những dãy núi thấp của Himalaya vẫy gọi với hơi nóng cuối ngày. Những chiếc xe nhỏ hơn nhường đường cho chiếc xe tải đồ sộ, nép vào lề đường sau mỗi tiếng kèn hơi của chiếc Bedford, rồi reo hò khi thấy chân dung của Imran Khan cùng chiếc gậy cricket vượt qua một cách hùng dũng.

Tâm trạng của Mortenson bình yên như phong cảnh cánh đồng thuốc lá thanh bình mà họ đi qua, màu xanh lung linh như mặt biển nhiệt đới có gió gây gợn sóng. Sau một tuần nóng bức trả giá và dè xẻn từng rupi, anh cảm thấy sau cùng mình có thể thư giãn. “Trên nóc xe tải mát và lộng gió.” Mortenson nhớ lại. “Và tôi chưa hề thấy mát mẻ từ khi đến Rawalpindi. Tôi cảm thấy mình như một ông vua, ngự cao trong ngai vàng của mình. Và tôi cảm thấy mình đã thành công. Tôi đang ngồi trên đỉnh trường học của mình. Tôi đã mua mọi thứ mà chúng tôi cần và giữ đúng theo ngân sách. Giờ đây, ngay cả Jean Hoerni cũng không thể tìm ra một sai sót trong bất cứ chuyện gì mà tôi làm. Và tôi nghĩ rằng trong vài tuần, ngôi trường sẽ được xây dựng xong, và tôi có thể trở về nhà, hình dung về điều mình đã làm trong suốt quãng đời còn lại. Tôi không rõ mình đã bao giờ hài lòng đến vậy hay chưa.”

Mohammed đạp mạnh thắng rồi đưa xe ra khỏi đường, Mortenson đã phải bám vào những sọt gà để tránh bị quăng xuống mui xe. Anh nghiêng người sang bên và hỏi bằng tiếng Urdu vì sao họ dừng lại. Mohammed chỉ vào cái tháp trắng khiêm tốn ở bên rìa một cánh đồng thuốc lá, và những người đàn ông tuôn về phía đó. Trong sự im lặng sau khi bài nhạc Punjabi được tắt đi vội vã, Mortenson nghe tiếng kêu gọi cầu nguyện rõ ràng được gió mang đi. Anh không biết rằng người tài xế có vẻ như quá lo lắng suốt chuyến đi, lại đủ sùng đạo để dừng xe cho phiên cầu nguyện buổi chiều. Nhưng anh nhận ra rằng, ở phần này của thế giới, có nhiều điều mà anh chỉ mới hiểu sơ sài. Ít nhất, anh tự nhủ mình sẽ có nhiều cơ hội để tìm kiếm một chỗ đứng ở cửa nhà một người xa lạ, để thực hành việc cầu nguyện.

Sau khi trời tối, được tăng sức bằng trà xanh đậm và ba đĩa dhal chana, một thứ càri đậu lăng vàng ở quán ven đường, Mortenson trở lại nằm vào ổ của mình trên mui xe tải và quan sát những ngôi sao đơn lẻ đâm thủng màn trời lúc chạng vạng.

Ba mươi cây số về phía tây của Rawalpindi, ở Taxila, họ rẽ về phía bắc ra khỏi trục đường chính của Pakistan hướng về những ngọn núi. Taxila từng là tâm điểm của các cuộc va chạm giữa Phật giáo và Hồi giáo hàng trăm năm trước, trước khi tranh đấu để giành quyền thống trị. Nhưng đối với ngôi trường đang đong đưa trên xe của Mortenson, sự va chạm của những mảng kiến tạo lục địa đã xảy ra ở vùng này hàng triệu năm về trước quan trọng hơn.

Ở tại nơi đồng bằng gặp núi, một phần của con đường tơ lụa ngày xưa trở nên dốc và không thể đoán định. Isabella Bird, một nữ thám hiểm gan dạ chỉ có thể sản sinh dưới thời đại Victoria ở Anh, đã ghi lại sự khó khăn trong việc đi từ những đồng bằng của tiểu lục địa Ấn Độ vào Baltistan, hay “Tiểu Tây Tạng” như bà gọi, trong chuyến đi năm 1876. “Khách lữ hành muốn đến vùng cao nguyên không thể đi bằng xe hai ngựa hay xe một ngựa đường đồi.” - bà viết. – “Phần lớn đoạn đường đi, khách phải giới hạn vào nhịp bước chân và nếu khách cưỡi ngựa thì cũng phải xuống ngựa ở tất cả những đoạn đường lởm chởm cũng như những con dốc, vốn rất nhiều. ‘Những con đường’, bà viết trong dấu móc để chỉ sự mỉa mai, được xây dựng với rất nhiều công sức và tiền của, vì thiên nhiên bắt những người làm đường phải theo sự chỉ dắt của mình, và dẫn họ qua những thung lũng hẹp, những hẻm núi, đèo và vực thẳm đã được tạo ra cho họ. Vào cùng thời điểm cách đó một vài dặm, con đường này chỉ là một rìa đá trên thác nước hung hãn. Khi hai đoàn lữ hành gặp nhau, súc vật của một đoàn phải nhường đường và trườn lên phía núi, nơi mà chỗ dừng chân thường là nguy hiểm. Khi đi qua đoàn lữ hành... con ngựa của người phục vụ của tôi bị một con lừa đang thồ hàng đẩy khỏi vách núi và đã chết chìm.”

Xa lộ Karakoram (KKH), con đường mà chiếc Bedford của họ đang đi lên với tiếng gầm gừ như bò mộng từ hai ống khói của nó, là sự cải thiện một cách tốn kém trên những con đường mòn mà nhóm người của Bird đã đi qua. Bắt đầu từ năm 1958, khi nước Pakistan mới độc lập đang lo ngại củng cố một tuyến đường vận tải nối với Trung Quốc, đồng minh chống Ấn Độ của mình, và không ngừng dựng xây kể từ đó, KKH là một trong những dự án kĩ thuật táo bạo nhất mà con người từng nỗ lực. Chủ yếu là xẻ dọc hẻm núi lởm chởm của sông Indus, KKH có cái giá là một sinh mạng nhân công làm đường cho mỗi bốn kilômét. “Xa lộ” này khó vượt qua đến mức các kĩ sư Pakistan đã phải tháo rời những chiếc xe ủi, chất các bộ phận lên lưng lừa và ráp trở lại trước khi có thể bắt đầu công việc nặng. Quân đội Pakistan đã thử đưa xe ủi vào bằng máy bay trực thăng hạng nặng MI-17 của Nga, nhưng chuyến bay đầu tiên, cố gắng bay trong gió lớn và qua khe núi hẹp, đã vướng vào vách đá và rơi xuống sông Indus, giết chết chín người trên máy bay.

Năm 1968, người Trung Quốc, mong muốn tạo ra con đường dễ dàng để đến với thị trường mới cho hàng hóa của họ, để hạn chế ảnh hưởng của Xô Viết trong vùng Trung Á và để củng cố liên minh chiến lược chống Ấn Độ, đã cung ứng việc giám sát và ngân sách để hoàn tất con đường dài một nghìn ba trăm kilômét từ Kashgar, ở tây nam Trung Quốc, đến Islamabab. Và sau hơn một thập niên triển khai một đội quân những người làm đường, con đường mới được đặt tên là “Xa lộ Hữu Nghị” đã tuyên bố hoàn thành vào năm 1978, như ngón tay cái đâm thọc vào con mắt của Ấn Độ.

Khi họ tiến lên, không khí mang theo cái lạnh đầu tiên của mùa đông và Mortenson quấn chiếc chăn len quanh vai và đầu mình. Lần đầu tiên, anh tự hỏi không biết mình có thể hoàn tất ngôi trường trước khi thời tiết trở lạnh hay không, nhưng anh xua đi ý nghĩ đó, tựa đầu vào bành cỏ khô và được ru ngủ bởi sự đung đưa chầm chậm của xe tải, anh ngủ.

Con gà trống trong cái sọt đặt cao một mét rưỡi bên trên đầu Mortenson đã đánh thức anh dậy không hề thương xót ngay khi có tia sáng đầu tiên. Người anh cứng đơ, lạnh, và rất cần tắm rửa nghỉ ngơi. Anh chồm sang một bên xe tải yêu cầu dừng xe và nhìn thấy chỏm đầu cắt tóc ngắn của người phụ xe cộc cằn nhô ra ngoài cửa sổ, và xa hơn, ngay bên dưới bốn trăm năm mươi mét là đáy của một hẻm núi đá, nơi mà dòng sông màu cà phê đang sôi bọt trên những tảng đá. Anh nhìn lên, nhận thấy họ đang bị bao quanh bởi những vách đá hoa cương cao hơn ba nghìn mét ở cả hai bên dòng sông. Chiếc Bedford đang leo lên một đồi dốc và tụt lại gần đỉnh dốc trong khi Mohammed lóng ngóng với cần số, mạnh tay cho đến khi gài được số một. Mortenson, chồm ra ngoài phía trên cửa hành khách của cabin có thể thấy những bánh xe sau lăn đi cách mép hẻm núi ba tấc bắn những hòn đá vào trong vực thẳm khi Mohammed điều khiển động cơ. Bất cứ khi nào bánh xe lệch ra quá gần mép, người phụ xe huýt gió mạnh và chiếc xe tải lắc lư sang trái.

Mortenson lăn trở lại trên nóc cabin, không muốn làm ảnh hưởng đến sự tập trung của Mohammed. Khi anh leo núi K2, anh quá chú tâm đến mục tiêu nên không chú ý lắm đến chuyến xe buýt đưa mình lên vùng Indus. Và trên đường trở về, anh lại bận tâm với kế hoạch quyên góp tiền cho ngôi trường. Nhưng nhìn thấy xứ sở hoang dã này một lần nữa, và nhìn chiếc Bedford đang chiến đấu trên “xa lộ” này với vận tốc mười lăm dặm một giờ, anh có một nhận thức mới là những ngọn núi và hẻm núi này đã cắt Baltistan ra khỏi thế giới một cách trọn vẹn như thế nào.

Khi đi đến khu vực hẻm núi mở rộng đủ để có một làng nhỏ bám vào rìa của nó, họ dừng lại ăn sáng bằng chapatti và dudh patti, trà đen pha với sữa và đường. Sau đó, Mohammed cố nài Mortenson, mạnh mẽ hơn tối hôm qua, rằng anh phải vào trong cabin; và anh đã miễn cưỡng đồng ý.

Anh ngồi giữa Mohammed và hai người phụ xe. Mohammed, nhỏ con trong chiếc Bedford to lớn, chỉ có thể vừa chạm đến bàn đạp. Người phụ xe cộc cằn hút thuốc hasit hết tẩu này đến tẩu khác, phà vào mặt của người phụ xe kia, một cậu trai nhỏ con đang còn phấn đấu để mọc râu mép.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx