sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ba tách trà - Chương 07 phần 2

Cũng như bên ngoài, bên trong chiếc Bedford được trang trí lung tung với những ngọn đèn đỏ lấp lánh, tượng gỗ Kashmiri, ảnh 3D của các ngôi sao Bollywood được ái mộ, hàng chục quả chuông bạc óng ánh nhỏ xíu và một bó hoa nhựa chạm vào mặt Mortenson bất cứ khi nào Mohammed thắng xe quá mạnh. “Tôi có cảm giác như mình đang ở trong một nhà xe lưu động.”

Mortenson nói. “Không phải vì chúng tôi lăn bánh được nhiều, mà giống như đang theo dõi một con sâu đo đang bò hơn.”

Ở những phần dốc nhất của xa lộ, hai người phụ xe nhảy ra khỏi xe và chèn những cục đá lớn vào hai bánh sau. Sau khi chiếc Bedford nhích lên được chừng mười centimet, họ nhặt cục đá và lại quăng vào dưới bánh xe, lặp lại tiến trình leo lên tụt xuống bất tận cho đến khi đến được con đường bằng phẳng. Đôi khi, một chiếc xe jeep tư nhân vượt qua mặt họ trên đồi cao, hay một chiếc xe buýt ầm ầm đến gần rồi vượt qua, những hành khách nữ trên xe che kín người vì bụi đường và những đôi mắt soi mói của hành khách nam. Nhưng phần lớn thời gian, họ lăn bánh một mình.

Mặt trời đã sớm biến mất đằng sau những vách núi dựng đứng và vào chiều tối chỉ có một màu đen kịt ở phía đáy của khe núi. Quanh một khúc quanh không nhìn thấy, Mohammed đứng lên trên bàn đạp thắng và suýt đâm vào đuôi một chiếc xe buýt ở khoảng cách hẹp. Trên đường, phía trước chiếc xe buýt, hàng trăm phương tiện giao thông - xe jeep, xe buýt, Bedford - đang đậu nối đuôi trước lối vào một cây cầu bêtông. Mortenson ra khỏi xe cùng với Mohammed để xem xét.

Khi họ đến gần cầu, rõ ràng là họ không bị kẹt lại bởi hiện tượng đá lở hay tuyết lở huyền thoại của KKH. Hai mươi người đàn ông có râu, dáng vẻ dữ dằn với khăn đội đầu màu đen đang đứng gác trên cầu. Ống phóng tên lửa và tiểu liên Kalasnikov được nhắm một cách uể oải theo hướng một đại đội lính Pakistan bảnh bao với vũ khí được trang bị cẩn thận. “Không tốt rồi,” Mohammed lặng lẽ nói, tận dụng hết vốn từ vựng tiếng Anh của mình.

Một trong những người vấn khăn đen hạ ống phóng tên lửa của mình xuống và ngoắc Mortenson về phía mình. Bẩn thỉu sau hai ngày đi đường, với chiếc khăn len quấn trên đầu, Mortenson cảm thấy chắc chắn mình trông không giống một người nước ngoài.

“Anh từ đâu đến?” Người đàn ông hỏi bằng tiếng Anh. “Từ Mỹ?” Hắn đưa cao ngọn đèn prôpan lên và xem xét khuôn mặt của Mortenson. Trong ánh đèn, Mortenson thấy mắt của người đàn ông có màu xanh kiêu hãnh, và viền quanh bằng surma, chất liệu màu đen được phần lớn những người sùng đạo sử dụng, một số ắt hẳn là người cuồng tín, tốt nghiệp từ những madrassas chính thống. Những người đàn ông này đã tràn qua biên giới phía tây trong năm nay, 1994, những chiến binh chân đất của lực lượng mới vừa kiểm soát Afghanistan, Taliban.

“Vâng, từ Mỹ.” Mortenson nói một cách thận trọng.

“Nước Mỹ số một.” người đang thẩm vấn anh nói, hạ ống phóng tên lửa xuống và châm một điếu thuốc lá địa phương hiệu Tander, sau đó đưa cho Mortenson. Mortenson không thực sự hút thuốc, nhưng anh quyết định giờ là lúc nên bập thuốc một cách tán thưởng. Với lời xin lỗi, không nhìn vào mắt người đàn ông, Mohammed nắm khuỷu tay Mortenson nhẹ nhàng dắt ra xa, và trở lại chiếc Bedford.

Trong lúc pha trà bằng ngọn lửa nhỏ ở bửng sau của chiếc xe tải, dưới đôi mắt trông chừng của Imran Khan, và chuẩn bị để sắp xếp qua đêm, Mohammed hòa vào tiếng rầm rì đang luân chuyển giữa hàng trăm khách lữ hành khác bị kẹt lại. Những người đàn ông này đã phong tỏa cây cầu cả ngày, và một đội quân đã được phái đến từ một căn cứ quân sự ở Pattan cách đó ba mươi kilômét để xem cầu đã được khai thông hay chưa.

Giữa thứ tiếng Urdu nhát gừng của mình và nhóm các đề tài mâu thuẫn nhau, Mortenson không thể biết chắc mình đã sắp xếp các chi tiết đúng hay không. Nhưng anh biết đấy là ngôi làng Dasu, ở khu vực Kohistan, vùng hoang vu nhất của tỉnh biên giới phía bắc Pakistan. Nơi này nổi tiếng về thổ phỉ, và sự kiểm soát của Islamabab chỉ là trên danh nghĩa. Trong những năm tiếp sau 11/9 cuộc chiến tranh của Mỹ để lật đổ Taliban, các thung lũng xa xôi và hiểm trở này thu hút các băng nhóm Taliban và nhà tài trợ Al Queda của chúng, những người biết rõ sẽ dễ dàng ra sao để tiêu diệt bất cứ đội quân nào bước vào khu vực hoang dã này.

Những người vũ trang đang gác cây cầu sống ở thung lũng gần đó và tuyên bố rằng một nhà thầu của chính phủ ở vùng đồng bằng Islamabad xa xôi đã đến với hàng triệu rupi dành cho việc mở rộng những con đường mòn đi săn của họ thành những con đường khai thác gỗ, giúp họ có thể bán được gỗ. Nhưng họ nói rằng nhà thầu đã ăn cắp tiền và bỏ đi mà không cải thiện gì những con đường của họ. Họ đang phong tỏa xa lộ Karakoram cho đến khi nhà thầu quay lại, để có thể treo cổ hắn ngay cây cầu này.

Sau khi uống trà và ăn gói bánh quy mà Mortenson đưa ra, họ quyết định đi ngủ. Bất chấp cảnh báo của Mohammed rằng ngủ trong cabin thì an toàn hơn, Mortenson vẫn trèo lên cái ổ trên nóc xe tải. Từ chỗ của mình trên cao kế bên bầy gà đang ngủ, anh có thể thấy những người Kohistan kiêu hãnh, nói tiếng Pasho, trên cây cầu được chiếu sáng bởi những ngọn đèn. Những người Pakistan vùng đồng bằng đến thương lượng với họ nói tiếng Urdu, và trông giống một chủng tộc khác, sửa soạn như con gái, với những chiếc nón bêrê màu xanh dương và những dây đạn quấn chặt quanh thắt lưng nhỏ bé. Đây không phải là lần đầu Mortenson tự hỏi liệu Pakistan có phải là một ý tưởng hơn là một quốc gia hay không.

Anh nằm gối đầu lên bành cỏ khô một lúc, biết rằng mình không thể ngủ được chút nào trong đêm nay, và thức dậy, khi trời đã sáng rõ, vì tiếng súng. Mortenson ngồi dậy và thấy những đôi mắt màu hồng không thể nhắm lại của những con gà trắng đang nhìn anh vô hồn, rồi những người Kohistan đứng trên cầu, bắn súng Kalasnikov của họ lên trời.

Mortenson cảm nhận chiếc Bedford đang gầm gừ thức giấc và thấy một cụm khói đen phun ra khỏi hai ống khói. Anh nghiêng người cúi xuống cửa sổ chỗ tài xế. “Mọi chuyện đều ổn!” Mohammed nói, và cười với anh, rồ máy xe. “Bắn vì vui mừng, Inshallah!” Anh ta đẩy cần gài số.

Mortenson thấy túa ra từ những ngôi nhà và lối đi trong làng là những nhóm phụ nữ mang mạng che mặt chạy vội trở về xe của mình, từ những chỗ họ đã chọn để tự tách mình ra qua một đêm dài chờ đợi.

Đi qua cầu Dasu, trong một hàng dài những chiếc xe bụi bặm đang bò đi, Mortenson thấy anh chàng Kohistan đã mời mình điếu thuốc lá và đồng đội của anh ta đưa nắm tay lên và bắn súng máy một cách dữ dội. Chưa bao giờ, ngay cả trong một sân tập bắn của quân đội, Mortenson chứng kiến hỏa lực mạnh mẽ như vậy. Anh không thấy bất cứ nhà thầu vùng đồng bằng nào đong đưa trên những dầm cầu, và anh cho rằng những người cầm súng hẳn đã có được lời hứa bồi thường thiệt hại từ những người lính.

Khi xe đi lên, những vách đá của hẻm núi vươn cao cho đến khi che kín khoảng trời hẹp, trắng xóa hơi nóng. Họ đi men theo sườn phía tây của ngọn núi Nanga Parbat cao 8.125 mét, ngọn núi cao thứ chín trên thế giới, dính chặt vào rìa phía tây của dãy Himalaya. Nhưng, “Ngọn núi Trần trụi” đối với Mortenson bị lu mờ đi bởi những vực sâu của hẻm núi Indus. Với cái nhìn của một người leo núi, anh thấy nó hiện ra lờ mờ, hấp dẫn không thể cưỡng lại ở phía đông. Để kiểm chứng, anh quan sát bề mặt sông Indus. Những dòng suối mang nước băng tan chảy từ sông băng của ngọn Nanga Parbat sôi sục đổ xuống các khe núi và trên những tảng đá phủ địa y vào trong dòng Indus. Chúng điểm xuyết cho bề mặt màu trắng đục như lụa của dòng sông với những vũng nước màu xanh miền núi.

Ngay phía trước Gilgit, thành phố đông dân nhất ở miền bắc Pakistan, họ rời xa lộ Karakoram trước khi nó bắt đầu đoạn ngoặc dài hướng về Trung Quốc trên con đường tráng nhựa cao nhất thế giới, đèo Khunjerab, với các đỉnh cao 4.730 mét, và thay vào đấy đi theo sông Indus ở phía đông hướng về Skardu. Bất chấp cái lạnh tăng dần trong không khí, Mortenson cảm thấy ấm áp bởi những ngọn lửa quen thuộc. Đường hành lang hẹp ven sông được khoét vào giữa những đỉnh cao hơn sáu nghìn mét quá nhiều để đặt tên, là đường vào Baltistan của anh. Dù cảnh quan đá như trên mặt trăng ở miền tây Karakoram này là một trong những vùng nguy hiểm nhất trên thế giới, nhưng Mortenson cảm thấy như đã về đến nhà. Cảnh tối tăm bụi bặm dọc theo những vực sâu của hẻm núi và ánh nắng trên cao cọ rửa chóp những ngọn tháp đá hoa cương này có vẻ giống môi trường sống tự nhiên của anh hơn là những căn nhà gỗ trát vữa màu lam nhạt ở Berkeley. Toàn bộ thời gian của anh ở Mỹ sau khi trở về từ đây, sự lúng túng ngày càng tăng với Marina, cuộc đấu tranh của anh để quyên góp tiền cho ngôi trường, những ca làm việc mất ngủ ở bệnh viện, có cảm giác không thật như một giấc mơ đang tan biến. Những vách đá cheo leo nhô ra này đã hiểu được anh.

Hai thập niên trước, một nữ y tá người Ireland tên là Dervla Murphy cũng đã cảm nhận được cùng một sức lôi kéo về phía những ngọn núi này. Du hành với tinh thần dũng cảm của Isabella Bird và bỏ qua lời khuyên khôn ngoan của những nhà thám hiểm dày dạn kinh nghiệm rằng Baltistan là không thể vượt qua trong tuyết, Murphy băng ngang Karakoram giữa mùa đông, trên lưng ngựa, với đứa con gái năm tuổi của bà.

Trong quyển sách về chuyến đi của mình, Where Indus is young, Murphy bình thường vốn hùng biện, cảm thấy không đủ khả năng trong nỗ lực mô tả hành trình của mình qua hẻm núi mà bà đã phải cố gắng hết sức để thốt ra một mô tả. “Không một tính từ nào thường được áp dụng cho phong cảnh núi non là thỏa đáng ở đây - thật vậy, chỉ riêng từ “phong cảnh” cũng không phù hợp một cách buồn cười. “Tráng lệ” hay “hùng vĩ” đều không hữu dụng để mô tả cảm tưởng về hẻm núi ghê gớm với những đoạn hẹp quanh co, vừa u tối vừa hoang vắng, vừa sâu thẳm từ dặm này đến dặm khác, nơi không bao giờ có một ngọn cỏ hay cây bụi nhỏ để nhắc ta rằng thế giới thực vật có tồn tại. Chỉ có dòng Indus xanh như ngọc - đôi khi nhào lộn thành một quầng sáng của bọt nước trắng xóa - làm nổi bật cái màu xám nâu của những vách đá cheo leo, vách đá thẳng đứng và những sườn dốc.”

Khi Murphy di chuyển chậm chạp dọc bờ nam cửa sông Industrên lưng ngựa, bà suy tư về nỗi kinh hoàng của việc đi ngang qua con đường dành cho dê núi này bằng xe hơi. Tài xế ở đây phải chấp nhận định mệnh, bà viết, nếu không anh ta “sẽ không bao giờ có đủ can đảm để lái một chiếc xe jeep quá tải, kém cân bằng và máy móc không hoàn hảo, dọc theo con đường mòn mà trong nhiều giờ cho đến khi kết thúc, một phán đoán sai nhỏ nhặt cũng đưa chiếc xe va vào vách đá cao hàng chục mét rồi rơi xuống dòng sông Indus. Vì dòng sông đã tìm ra con đường duy nhất có thể có qua cụm núi dữ dằn khủng khiếp này, do đó không thể làm gì hơn là đi theo dòng sông. Không đi qua hẻm núi Indus ta không thể hình dung được kịch tính của nó. Cách duy nhất có thể được để đi qua vùng này là đi bộ.”

Trên nóc của chiếc Bedford quá tải, mất cân bằng nhưng máy móc còn tốt, Mortenson đong đưa cùng với đống vật liệu xây dựng trường học cao sáu mét, không khỏi há hốc mồm bên mép vực mỗi khi chiếc xe được chêm lại trên một đống đá lở rời rạc. Cả trăm mét bên dưới, xác một chiếc xe buýt nát vụn gỉ sét đang yên nghỉ, cùng với sự đều đặn của những cột mốc đánh dấu dặm đường, những shahid trắng, nghĩa là “đài tưởng niệm” vinh danh cái chết của những công nhân làm đường của Tổ chức Lao động Biên giới, những người đã bỏ mạng trong cuộc chiến của họ với những vách đá. Nhờ hàng nghìn binh sĩ Pakistan, kể từ thời Murphy, con đường đến Skardu đã được cải thiện đáng kể, cho phép những chiếc xe tải có thể đi qua nhằm hỗ trợ cho nỗ lực chiến tranh chống lại Ấn Độ. Nhưng đá rơi và tuyết lở, nhựa phủ mặt đường bị phong hóa vỡ vụn bất ngờ rơi xuống vực sâu, và không đủ chỗ cho luồng giao thông theo chiều ngược lại, đồng nghĩa với việc mỗi năm có hàng chục chiếc xe rơi thẳng ra khỏi đường.

Một thập niên sau, thời kì sau 11/9, những người Mỹ thường hỏi Mortenson về sự nguy hiểm từ bọn khủng bố mà anh đã đối mặt trong vùng. “Nếu tôi chết ở Pakistan, tôi sẽ chết vì tai nạn giao thông, chứ không vì một trái bom hay một viên đạn.” anh luôn luôn nói với họ như vậy. “Nguy hiểm thực sự xảy ra khi bạn ở trên đường.”

Anh cảm thấy một khởi đầu mới trong chất lượng của ánh sáng trước khi nhận ra mình đang ở đâu. Khi xe nghiến ken két đổ xuống một con dốc dài vào lúc chiều tà, không khí rực sáng. Những vách đá của vực sâu gây nỗi sợ bị giam hãm mở rộng ra rồi gập lại ở khoảng xa, dâng lên thành một vòng những chóp trắng khổng lồ bao quanh thung lũng Skardu. Vào lúc Mohammed tăng tốc trên vùng đất bằng ở đáy đèo, sông Indus nới lỏng các cơ bắp và thư giãn thành một đoạn uốn khúc bùn lầy rộng như một cái hồ. Dọc theo đáy thung lũng, những đụn cát nâu đen rám nắng trong ánh mặt trời buổi chiều, và nếu không nhìn lên những đỉnh tuyết trắng bừng cháy đau đớn trên cát, Mortenson có thể nghĩ rằng đó là bán đảo Ả Rập.

Vùng ngoại ô Skardu, tràn ngập những vườn mơ và óc chó, báo hiệu hành trình gian khổ dọc sông Indus đã kết thúc, Mortenson chở ngôi trường của mình vào Skardu, vẫy tay chào những người đàn ông đội chiếc nón len trắng topi đặc biệt của người Balti đang thu hoạch trái cây, và họ cười toe toét, vẫy tay chào lại. Trẻ em chạy bên hông chiếc Bedford, hét vang tán thành Imran Khan và người nước ngoài ngồi trên hình của anh ta. Đây là chuyến trở về khải hoàn mà anh đã từng tưởng tượng ra kể từ khi ngồi viết bức thư đầu tiên trong số 580 bức thư được gửi đi. Ngay bây giờ, ngay khúc quanh tiếp theo, Mortenson cảm thấy chắc chắn rằng kết thúc hạnh phúc của anh chỉ vừa mới bắt đầu.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx