sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ba tách trà - Chương 08 phần 1

CHƯƠNG 8

Bầm dập bởi Bradu

Tin vào Thánh Allah, nhưng hãy buộc chặt lạc đà của mình.

- bản viết tay ở lối vào căn cứ không quân Phi đoàn Năm, Skardu

Nhánh dương đầu tiên đập vào mặt Mortenson, trước khi anh có thời gian để cúi đầu xuống tránh. Nhánh thứ hai giật chiếc chăn khỏi đầu anh và treo nó trong lằn xe của chiếc Bedford. Anh nằm bẹp xuống trần xe tải và quan sát Skardu hiện ra phía dưới một vòm những thân cây quấn vải, bị bóc vỏ bởi những con dê đói.

Một chiếc trực thăng quân sự Lama màu xanh lá cây đang bay chậm và thấp trên chiếc Bedford, trên đường bay từ sông băng Batltoro trở về căn cứ Phi đoàn Năm của Skardu. Mortenson nhìn thấy một khuôn mặt người quấn trong bao vải và được buộc vào một xe đẩy ở càng đáp. Etienne đã được mang đi cũng bởi chiếc máy bay này trong lần cứu hộ anh, Mortenson nghĩ, nhưng ít nhất thì anh ấy cũng sống sót.

Từ căn cứ hậu cần ở độ cao gần hai trăm năm mươi mét trên Karpocho hay núi đá của Skardu, với pháo đài đổ nát đứng canh chừng trên thị trấn, chiếc Bedford đi chậm lại nhường đường cho một bầy cừu băng qua chợ Skardu. Con đường nhộn nhịp, đầy những sạp hàng chật hẹp bán những quả cầu phù thủy, những chiếc áo len tay dài rẻ tiền của Trung Quốc, và những món hàng ngoại quý giá như Ovaltine và Tang, xếp gọn gàng như những kim tự tháp, có vẻ như quá đô hội sau sự trống vắng chói tai của hẻm núi Indus.

Thung lũng này, nơi mà cát không trôi giạt, khá phì nhiêu. Nó đem lại sự khuây khỏa sau những khắc nghiệt của những hẻm núi, và là nơi dừng chân của những đoàn lữ hành trên con đường thương mại từ Kargil, bây giờ là Kashmir thuộc Ấn Độ, đến Trung Á. Nhưng từ khi chia tách, và đóng cửa biên giới, Skardu lâm vào cảnh không sinh lợi ở bờ rìa hoang vu của Pakistan. Cứ thế cho đến khi nó được tái sinh như một nơi cung cấp trang thiết bị cho các đoàn leo núi hướng về những ngọn núi khổng lồ vùng Karakoram.

Mohammed đưa xe vào lề đường, nhưng không đủ xa để cho nửa chục chiếc xe jeep đi qua. Anh ta nhoài người ra khỏi cửa xe và la lên, hỏi Mortenson hướng đi qua những tiếng kèn ầm ĩ căm phẫn của những chiếc xe jeep. Mortenson leo xuống từ chiếc ngai đong đưa của mình và chen người vào trong cabin.

Đi đâu? Korphe còn cách tám giờ đi xe jeep và Karakoram, và không có cách nào để gọi điện báo cho họ biết anh đã đến để hoàn thành lời hứa của mình. Changazi, người chỉ dẫn leo núi và điều hành tour đã tổ chức cho nỗ lực lên K2 của họ, chắc hẳn là người có thể sắp xếp để mang được vật tư của trường học lên đến thung lũng Braldu. Họ dừng xe ngay trước khu nhà quét vôi trắng của Changazi, và Mortenson gõ vào cánh cửa gỗ to lớn màu xanh lá cây.

Đích thân Mohammed Ali Changazi mở cửa. Ông ta mặc bộ shalwa hồ cứng không một vết bẩn báo hiệu rằng ông ta sẽ không hạ mình để làm những việc dơ bẩn trong thế giới này. So với người Balti, Changazi có dáng cao. Và với bộ râu cắt tỉa tỉ mỉ của mình, cái mũi thanh tú và đôi mắt nâu sáng có viền quanh màu xanh, ông ta có một khuôn mặt quyến rũ. Trong tiếng Balti, “Changazi” có nghĩa là thuộc dòng họ Thành Cát Tư Hãn, và có thể được dùng như một tiếng lóng để chuyển tải ý nghĩa về tính tàn nhẫn đáng sợ. “Changazi là một nhà điều hành xét về mọi mặt.” Mortenson nói. “Dĩ nhiên, cho đến lúc đó tôi chưa biết.”

“Bác sĩ Greg.” Changazi nói, ôm Mortenson hết sức mình bằng một cái ôm kéo dài. “Anh đang làm gì ở đây? Mùa leo núi đã kết thúc rồi cơ mà.”

“Tôi mang đến trường học!” Mortenson trả lời một cách kín đáo, hi vọng được chúc mừng. Sau K2, anh đã bàn các kế hoạch của mình với Changazi; ông đã giúp anh ước tính ngân sách cho các vật liệu xây dựng. Nhưng Changazi có vẻ như không nhớ gì về những điều mình đã nói. “Tôi đã mua mọi thứ để xây dựng một ngôi trường và chở nó đến đây từ Pindi.”

Changazi vẫn có vẻ lúng túng. “Lúc này đã quá trễ để xây dựng bất cứ thứ gì. Sao anh không mua vật liệu ở Skardu?” Mortenson không biết là mình có thể mua được vật liệu ở đây. Khi anh đang tìm điều gì để nói thì bị gián đoạn bởi một tiếng còi hơi của chiếcBedford. Mohammed muốn dỡ hàng xuống và trở về Pindi ngay. Hai người phụ xe tháo dây buộc hàng và Changazi đã nhìn một cách ngưỡng mộ những chồng vật liệu đáng giá chất trên xe.

“Anh có thể cất tất cả ở chỗ tôi.” Changazi nói. “Rồi chúng ta uống trà và bàn về việc cần làm với ngôi trường của anh.” ông ta nhìn Mortenson từ đầu đến chân, nhăn mặt khi thấy bộ áo shalwar dính dầu mỡ, khuôn mặt sạm đen vì bụi bẩn và đầu tóc rối bù của Mortenson. “Nhưng sao anh không tắm rửa trước đi.” ông ta nói.

Người phụ xe cộc cằn đưa cho Mortenson dây dọi và thước thủy vẫn còn quấn gọn trong lớp vải của Abdul. Khi những bao ximăng và những tấm ván ép bốn lớp được đưa xuống với sự hào hứng càng lúc càng tăng của Changazi, Mortenson mở cục xà phòng Tibet Snow mới mà chủ nhà đưa cho mình. Anh tắm gội cho sạch cáu bẩn của bốn ngày đường bằng một chậu nước mà người giúp việc Yakub của Changazi đã đun nóng trên chiếc bếp gas Epigas mà Mortenson biết chắc là được lấy trộm từ một đoàn thám hiểm.

Đột nhiên, Mortenson lo ngại, muốn kiểm kê hết thảy hàng hóa, nhưng Changazi nài ép anh để việc đó sau hẵng làm. Cùng với tiếng gọi của muezzin, Changazi dẫn Mortenson đến văn phòng của mình, nơi những người giúp việc đã trải ra chiếc túi ngủ Marmot phẳng phiu, ít khi dùng đến, trên một charpoy mà họ đã đặt sẵn giữa bàn làm việc và tấm bản đồ thế giới trên bức tường cũ kĩ. “Bây giờ hãy nghỉ ngơi.” Changazi nói, với cái giọng không muốn tranh cãi nữa. “Tôi sẽ gặp anh sau giờ cầu nguyện buổi sáng.”

Mortenson thức dậy bởi âm thanh của những giọng nói cất cao trong căn phòng kế bên. Anh đứng dậy và nhìn thứ ánh sáng núi gay gắt đâm xuyên qua cửa sổ mà anh đã che lại một lần nữa và ngủ thẳng cho đến sáng. Trong căn phòng kế bên, ngồi chéo chân trên sàn, kế bên tách trà chưa được động tới, một người Balti nhỏ con, cau có, đầy cơ bắp mà Mortenson nhận ra là Akhmalu, người đầu bếp đã đi cùng đoàn thám hiểm K2 của anh. Akhmalu đứng và ra dấu nhổ vào chân Changazi, kiểu sỉ nhục cao nhất của người Balti, rồi cùng lúc đó, thấy Mortenson đứng ở cửa.

“Bác sĩ Greg.” anh ta nói, khuôn mặt thay đổi nhanh chóng như vách núi đá sáng bởi ánh mặt trời. Anh ta chạy đến bên Mortenson, cười rạng rỡ và ôm anh bằng một cái ôm như gấu kiểu người Balti. Trong khi uống trà, cùng sáu lát bánh mỳ nướng do Changazi hãnh diện dọn ra với lọ mứt dâu Áo mà hắn có được một cách bí mật, Mortenson hiểu được đôi chút về cuộc đôi co đã xảy ra. Tin tức về những vật liệu xây dựng của anh đã lan truyền khắp Skardu. Rồi người đàn ông đã nấu món dal và chapatti cho Mortenson trong nhiều tháng, Akhmalu, đã đưa ra yêu sách của mình.

“Bác sĩ Girek, ông từng hứa với tôi là sẽ đến buổi salaam(13)ở làng tôi.” Akhmalu nói. Và đó là sự thật.

13. Nghi thức chào đón một cách kính trọng diễn ra ở các nước Hồi giáo

“Tôi có một chiếc xe jeep đợi sẵn để đến làng Khane.” hắn nói. “Vì thế chúng ta sẽ đi ngay.”

“Có thể là ngày mai hoặc ngày kia.” Mortenson nói. Anh nhìn lướt qua khu nhà của Changazi. Toàn bộ vật liệu xây dựng trị giá hơn bảy nghìn đôla được hạ xuống từ chiếc Bedford vào tối hôm qua, và bây giờ anh không thấy gì nhiều hơn một cái búa, không có trong phòng này, hay phòng bên, hay trong sân mà anh có thể nhìn rõ qua cửa sổ.

“Nhưng cả làng tôi đang mong chờ ông, thưa ông.” Akhmalu nói. “Chúng tôi đã chuẩn bị một bữa cơm đặc biệt.” Cái tội phung phí bữa tiệc mà một làng người Balti chật vật lắm mới có thể tổ chức là quá lớn đối với Mortenson. Changazi đi cùng anh đến chiếc xe jeep thuê của Akhmalu và trèo vào ghế sau trước khi có ai xem xét đến việc mời ông ta.

Con đường chạy khỏi phía đông Skardu. “Khane cách bao xa?” Mortenson hỏi, khi chiếc Toyota Land Cruiser đỏ màu gỉ sắt bắt đầu nảy lên phía trên những hòn đá không nhỏ hơn bánh xe, đến một chỗ ngoặt vào một mép rìa bên trên sông Indus.

“Rất xa.” Changazi gắt gỏng nói.

“Rất gần.” Akhmalu phản công. “Chỉ mất từ ba đến bảy giờ.”

Mortenson ngồi lùi lại trong chiếc ghế danh dự, kế bên tài xế, mỉm cười. Anh phải biết nhiều hơn là chỉ hỏi thời gian chuyến hành trình đến Baltistan. Phía sau anh, trên những ghế hàng hóa, anh cảm thấy sự căng thẳng giữa hai người đàn ông cũng rõ ràng như hệ thống giảm xóc không khoan nhượng của chiếc Toyota. Nhưng phía trước, qua kính chắn gió đầy những đường nứt như màng nhện, anh thấy cảnh quan cao bốn nghìn tám trăm mét của những dãy núi thấp vùng Karakoram vụt qua trên bầu trời xanh trong vắt với những đỉnh núi lởm chởm như chiếc răng gãy sạm nâu, và anh cảm thấy vô cùng hài lòng.

Chiếc xe nảy hàng giờ dọc theo một nhánh sông Indus cho đến khi rẽ sang phía nam, về hướng Ấn Độ, rồi leo lên thung lũng Hushe, dọc theo bờ sông Shyok, với dòng nước băng tan xanh chảy lạnh giá đổ ầm ầm như sấm trên những tảng đá mới, tính theo tuổi địa chất, từ những vách đá đang bị bào mòn ở cả hai bên của thung lũng cao gầy. Khi con đường ngày càng tồi tệ, tấm ảnh 3D ép nhựa mô tả khối vuông lớn nhuốm màu đen, Kaabba ở Mecca, treo trên kính chiếu hậu của chiếc Toyota, đập nhiều lần vào kính chắn gió với sự nhiệt thành của một người cầu nguyện.

Al-Hajarul Aswad, khối đá đen lớn chôn bên trong những bức tường của Kaaba, được cho là một tiểu hành tinh. Nhiều người Hồi giáo tin rằng nó rơi xuống trái đất vào thời Adam, là quà tặng của thánh Allah, và màu đen nhánh của nó chỉ ra khả năng hấp thu tội lỗi của những người tin tưởng và có đủ may mắn để chạm vào bề mặt từng là màu trắng của nó. Nhìn lên những bậc dốc rải rác những tảng đá treo trên đường, Mortenson hi vọng những thiên thạch kia sẽ chọn một thời điểm khác để đến trái đất.

Những bức tường màu xanh nâu lởm chởm viền quanh những mảnh ruộng bậc thang chắp vá trồng khoai tây và những cánh đồng lúa mì khi họ lên dốc, giống như những bức tường có lỗ châu mai của các tòa lâu dài được xây dựng với tầm cỡ vượt ngoài sự hiểu biết của con người. Vào lúc xế chiều, trời có sương mù ở nơi thung lũng Hushe thu hẹp lại thành một đường đèo nhưng Mortenson đã nghiên cứu bản đồ địa hình Karakoram nhiều tháng khi anh chờ cho hết bão ở trại căn cứ K2, biết rằng Masherbrum, một trong những đỉnh núi đáng sợ nhất thế giới, cao 7.821 mét nằm bất động ở phía trước.

Không như những đỉnh cao khác ở miền trung Karakoram, Masherbrum có thể được nhìn thấy rõ từ phía nam, vốn là viên ngọc trên vương miện của Ấn-Anh, Kashmir. Đó là lí do mà vào năm 1856, T.G Montgomerie, một trung úy công binh Hoàng gia Anh, đã đặt tên cho bức tường xám vĩ đại dựng cao trên tuyết là “K1” hay Karakoram l, là đỉnh núi đầu tiên trong vùng hẻo lánh mà ông có thể khảo sát chính xác. Ngọn núi láng giềng cao hơn và ở cách hai mươi kilômét về phía đông bắc mặc nhiên trở thành K2, do ngày tháng phát hiện ra nó trễ hơn. Mortenson ngắm nhìn đỉnh núi trắng, nơi những người Mỹ là George Bell, Willi Unsoeld và Nick Clinch đã thực hiện chuyến leo núi lần đầu cùng với người bạn đồng hành Pakistan của họ là đại úy Jawed Aktar vào năm 1960, mong muốn lên đến đỉnh chóp của Masherbrum để nhìn xuyên những đám mây, nhưng ngọn núi đã buông kín tấm áo choàng của nó: Ánh sáng tuyết từ những sông băng lớn treo trên núi đã soi sáng sương mù từ bên trong.

Chiếc xe jeep dừng lại kế bên cầu treo, đung đưa phía trên Shyok, và Mortenson bước ra. Anh chưa bao giờ cảm thấy thoải mái khi đi trên những cây cầu được làm từ lông bò Tây Tạng này, vì chúng được thiết kế để chịu đựng sức nặng của người Balti - chỉ bằng một nửa cân nặng của anh. Và khi Akhmalu và Changazi bước vào ngay phía sau anh, cây cầu treo rung lên dữ dội, anh đã phải cố gắng giữ vững đôi chân mình. Mortenson nắm chặt hai thanh vịn và lê bàn chân cỡ số mười bốn của mình theo kiểu đi thăng bằng trên dây dọc theo sợi dây được bện chặt, ngăn anh với các ghềnh đá cao mười lăm mét bên dưới. Cây cầu trơn tuột vì bụi nước, và anh quá tập trung vào bước chân của mình nên không nhận thấy đám đông đang chờ đón để chào mừng anh ở bờ bên kia, cho đến khi anh đi đến gần họ.

Một người Balti nhỏ con, có râu, mặc chiếc quần leo núi Gore-Tex màu đen và chiếc áo thun màu cam ghi “Những nhà leo núi hãy leo cao hơn” giúp Mortenson bước lên mặt đất vững chắc của làng Khane. Đó là Janjungpa, người khuân vác dẫn đường cho đoàn thám hiểm người Hà Lan tham lam lên ngọn K2 trong thời gian Mortenson ở trên núi, và là người có khả năng kì lạ là luôn đến trại căn cứ vào đúng lúc bạn mình là Akhmalu đang dọn bữa ăn. Nhưng Mortenson thích nhóm của Janjungpa cùng sự can đảm của ông ta, và đã khai thác từ ông ta những câu chuyện về hàng chục đoàn thám hiểm mà ông ta đã dẫn đường lên Baltoro. Đủ Tây hóa để đưa tay ra bắt tay với người nước ngoài mà không cần cầu khẩn thánh Allah, Janjungpa dẫn Mortenson qua những lối đi hẹp giữa những ngôi nhà bằng bùn và đá của làng Khane, nắm khuỷu tay anh khi họ vượt qua những mương tưới chảy tràn bờ đầy rác.

Janjungpa dẫn người nước ngoài to lớn đi đầu một đoàn diễu hành hai chục người đàn ông và hai con dê nâu đi theo với đôi mắt vàng van xin. Đám đàn ông rẽ vào ngôi nhà quét vôi trắng và trèo lên cái thang đẽo bằng gỗ hướng về nơi tỏa mùi gà nấu.

Mortenson tự mình ngồi trên những chiếc gối sau khi vị chủ nhà đã dập bụi một cách miễn cưỡng. Những người đàn ông làng Khane chen chúc trong căn phòng nhỏ và tự sắp xếp thành một vòng tròn trên chiếc thảm hoa bạc màu. Từ chỗ ngồi, Mortenson có một tầm nhìn đẹp qua phần mái của những căn nhà lân cận, hướng về hẻm núi đá dốc cung cấp nước uống cho làng Khane và nước tưới cho những cánh đồng của làng.

Những người con trai của Janjungpa trải tấm khăn trải bàn bằng nhựa dẻo màu hồng trên sàn, ở ngay giữa vòng tròn và sắp đặt những đĩa gà rán, rau trộn củ cải trắng, một đĩa gan và óc cừu hầm ở phía chân Mortenson. Chủ nhà chờ cho đến khi Mortenson cắn một miếng gà để bắt đầu: “Tôi muốn được cảm ơn ông Girek Mortenson đã cho chúng tôi vinh dự và đã đến để xây dựng một ngôi trường ở làng Khane.” Janjungpa nói.

“Một ngôi trường cho Khane?” Mortenson thốt lên, suýt bị hóc miếng thịt gà.

“Vâng, một ngôi trường, như ông đã hứa.” Janjungpa nói, nhìn chăm chú một cách có chủ đích quanh vòng tròn những người đàn ông khi đang nói, như chuyển một lời tổng kết cho bồi thầm đoàn. “Một ngôi trường dạy leo núi.”

Mortenson suy nghĩ nhanh trong đầu khi nhìn từ khuôn mặt này sang khuôn mặt khác, tìm kiếm những dấu hiệu cho thấy đó là một trò đùa tinh vi. Nhưng những khuôn mặt thô kệch của những người đàn ông làng Khane trông thản nhiên như những vách đá bên ngoài cửa sổ, hiện ra một cách dửng dưng trong ánh nắng lúc hoàng hôn. Anh duyệt lại trong kí ức những tháng ở K2 của mình. Anh và Janjungpa đã bàn về sự cần thiết của việc cung ứng những kĩ năng leo núi chuyên nghiệp cho những người khuân vác Balti, vốn thường không biết đến những kĩ thuật cứu hộ cơ bản nhất trên núi, và Janjungpa đã nhắc đi nhắc lại về tỉ lệ bị thương tích cao và tiền công thấp của những phu khuân vác Balti. Mortenson có thể nhớ lại rõ ràng ông ta đã kể về Khane và mời anh đến thăm làng. Nhưng anh chắc chắn là mình chưa bao giờ thảo luận hay hứa hẹn về một ngôi trường.

“Ngài Girek, đừng nghe Janjungpa. Hắn bị khùng.”

Akhmalu nói, và Mortenson cảm thấy nhẹ nhõm. “Hắn ta nói trường dạy leo núi.” Akhmalu nói tiếp, lắc mạnh đầu. “Khane cần một ngôi trường bình thường, cho trẻ em ở Khane, không phải để làm giàu cho Janjungpa. Đó là điều ông cần làm.” Sự nhẹ nhõm tan biến nhanh chóng như lúc nó đến.

Ở bên trái, Mortenson thấy Changazi nghiêng người trên một chiếc gối nhồi căng phồng, khéo léo rút cái chân gà ra khỏi thịt bằng những móng tay và thoáng mỉm cười. Mortenson cố liếc hi vọng Changazi sẽ nói gì đó và kết thúc câu chuyện điên rồ này, nhưng một cuộc tranh cãi nóng bỏng đã nổ ra bằng tiếng Balti, khi hai phe nhanh chóng được hình thành sau Akhmalu và Janjungpa. Những người phụ nữ trèo lên các mái nhà kề bên, giữ chặt khăn quàng của họ trong cơn gió mạnh thổi xuống từ Masherbrum, và cố nghe lỏm cuộc tranh cãi đang tăng dần âm lượng.

“Tôi chưa bao giờ hứa.” Mortenson cố nói, trước hết bằng tiếng Anh, và khi dường như không có ai nghe, anh lặp lại bằng tiếng Balti. Nhưng nó y như thể người to lớn nhất trong phòng đã trở nên vô hình. Do đó anh theo dõi cuộc tranh cãi, trong khả năng của mình. Nhiều lần anh nghe Akhmalu gọi Janjungpa là tham lam, nhưng Janjungpa phản đòn lời buộc tội hướng về mình bằng cách lặp lại lời mà hắn khẳng định là Mortenson đã hứa với hắn.

Sau hơn một giờ, Akhmalu đột nhiên đứng lên và kéo Mortenson đứng dậy bằng cánh tay. Cứ như hắn có thể điều khiển kết cục bằng cách dẫn Mortenson về ngay nhà mình. Akhmalu dẫn đầu đoàn diễu hành vẫn đang la hét xuống chiếc thang bằng gỗ súc, qua một mương tưới bùn lầy và bước lên thang vào nhà hắn. Khi nhóm người đã an tọa trên những chiếc gối trong phòng khách nhỏ, đứa con trai tuổi thanh niên của Akhmalu, từng là phụ bếp trong đoàn thám hiểm của Mortenson, sắp đặt các đĩa thức ăn khác ở cạnh chân Mortenson. Một vòng hoa dại trang trí cho đĩa rau trộn củ cải trắng, và những quả cật bóng bẩy nổi rõ trên bề mặt của món nội tạng cừu hầm, còn những món khác thì giống hệt với bữa tiệc nhà Janjungpa.

Con trai của Akhmalu múc một quả cật, được chọn kĩ nhất, đặt trên một bát cơm và đưa cho Mortenson mỉm cười bẽn lẽn trước khi dọn cho những người khác. Mortenson đẩy quả cật sang một bên bát cơm và chỉ ăn cơm chan nước thịt béo ngậy, nhưng dường như không có ai để ý cả. Anh lại trở nên vô hình. Những người đàn ông Khane ăn cũng nhiệt tình như khi tranh cãi cứ như là cuộc tranh cãi và bữa cơm vừa rồi đã bị xé vụn hoàn toàn như khúc xương gà và xương cừu họ cắn xé bằng răng mình.

Mãi đến giờ thứ tư của cuộc tranh cãi, mắt cay xè vì khói thuốc lá ngột ngạt trong phòng, Mortenson trèo lên mái nhà Akhmalu và nghiêng người tựa vào một bó lúa mạch mới gặt dùng để chắn gió. Mặt trăng, đang lên, âm ỉ sau dãy nóc nhà phía đông. Gió làm sạch đỉnh Masherbrum, và Mortenson nhìn một lúc lâu vào những đỉnh núi như các sống dao, được mài sắc cạnh một cách kì quái bởi ánh trăng. Ngay bên kia, bằng cảm nhận của mình, Mortenson biết ngọn kim tự tháp K2 hiện ra sừng sững. Anh nghĩ, việc đến Baltistan như một nhà leo núi mới đơn giản làm sao. Con đường thật rõ ràng. Tập trung về đỉnh núi, như anh đang làm lúc này, và tổ chức những người đàn ông cùng hàng tiếp tế cho đến khi bạn lên được đó. Hoặc nỗ lực mà không thành công.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx