sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ba tách trà - Chương 10 phần 2

Schaller đã leo lên cùng một hẻm núi hai thập niên trước thu thập dữ liệu về dê núi, cừu Marco Polo và những địa điểm cắm trại cho hướng đạo sinh mà ông đã hi vọng chính phủ Pakistan có thể bảo tồn như là vườn quốc gia Karakoram. Nhưng trong những ngày dài còng lưng vào việc đánh dấu phạm vi của mình, Schaller tự thấy rằng mình chỉ biết ngưỡng mộ sự kì diệu mà loài dê núi đã thích nghi với những môi trường khắc nghiệt nhất.

Dê rừng núi Anpơ là loài dê có cơ bắp phát triển, dễ dàng được nhận ra bởi cặp sừng dài dạng mã tấu mà người Balti đánh giá cao cũng như món thịt dê mà họ thưởng thức. Schaller phát hiện rằng loài dê này ăn cỏ ở nơi cao hơn bất cứ động vật nào khác ở Karakoram. Bàn chân chắc khỏe cho phép chúng nhảy qua những khe đá hẹp ở độ cao đến năm nghìn mét, cao hơn so với những loài ăn thịt chúng, là chó sói và báo tuyết. Ở giới hạn cuối cùng mà thực vật có thể tồn tại, chúng gặm những chồi cây và cỏ vùng núi cao, và phải kiếm ăn từ mười đến mười hai giờ mỗi ngày để duy trì trọng lượng.

Twaha dừng lại ở doi đất đóng băng đánh dấu mép tiến của sông băng Biafo và lấy ra một vật hình tròn trong túi chiếc áo khoác lông cừu màu rượu chát mà Mortenson đã tặng trong chuyến viếng thăm lần đầu đến Korphe. Đó là một tomar, có nghĩa là “biểu tượng của lòng can đảm”. Người Balti đeo tomar quanh cổ mỗi đứa trẻ sơ sinh để bảo vệ chúng khỏi quỷ dữ mà họ cho là đã gây ra tỉ lệ tử vong ở trẻ em cao một cách đau đớn trong cộng đồng của họ. Và họ không nghĩ đến việc di chuyển trên một thứ gì nguy hiểm hơn là trên dòng sông băng chuyển động mà không có biện pháp đề phòng tương tự. Twaha buộc tấm bùa bằng len màu hạt dẻ và đỏ son thêu dệt phức tạp vào dây kéo áo khoác của Mortenson. Mỗi người đàn ông đều gắn tomar của mình vào đúng chỗ rồi bước lên trên sông băng.

Đi cùng một nhóm thợ săn để kiếm ăn, thay vì như những người Tây phương nhắm đến các đỉnh núi với những động cơ phức tạp, Mortenson nhìn sự hoang dã của băng giá với một cái nhìn mới. Không có gì đáng ngạc nhiên khi những đỉnh núi lớn của Himalaya vẫn còn chưa được chinh phục mãi cho đến giữa thế kỉ hai mươi. Từ hàng nghìn năm, người dân sống gần nhất với những ngọn núi không bao giờ nghĩ đến việc cố thử làm một chuyện như vậy. Việc kiếm đủ thức ăn và hơi ấm để sống còn trên nóc nhà của thế giới đã lấy hết năng lực của họ.

Theo ý nghĩa đó, những người đàn ông Balti không khác với con dê rừng núi Anpơ mà họ theo đuổi.

Họ leo về phía tây, tìm ra một lối đi qua những tảng băng chuyển động và những vũng nước sâu nhuốm màu xanh nhiệt đới. Tiếng nước vang vọng từ những độ sâu của các khe vực và những tảng đá rơi xé tan sự tĩnh lặng khi mà sự ấm lên và lạnh đi không thay đổi của thời tiết làm các tảng đá rã ra. Gần phía bắc chỗ họ, một nơi bên trong bức tường mây trắng, là Ogre, vách đá thẳng đứng cao 7.285 mét chỉ được chinh phục vào năm 1977, bởi nhà leo núi người Anh Chris Bonington và Doug Scott. Nhưng Ogre đã phục thù họ trong chuyến xuống núi, và Scott buộc phải bò trở về trại căn cứ với hai chân gãy.

Sông băng Biafo bắt nguồn ở độ cao 5.060 mét ở hồ Snow trước khi hợp lưu với sông băng Hispar, đổ xuống thung lũng Hunza. Dọc theo bảy mươi sáu dặm từ đầu này đến đầu khác, nó tạo thành hệ sông băng kề nhau dài nhất bên ngoài hai cực của trái đất. Con đường xa lộ tự nhiên này cũng là con đường mà những nhóm thổ phỉ người Hunza trong lịch sử đã đi để đến cướp bóc thung lũng Braldu. Nhưng nhóm thợ săn cũng đi theo con đường ngang trên cao đó, chỉ khác là Twaha thỉnh thoảng lại kích động chỉ ra những dấu vết của báo tuyết và hai con chim kền kền ảm đạm lượn vòng một cách tò mò trong một luồng khí nóng cao bên trên những người thợ săn.

Bước đi nhiều giờ trên băng lởm chởm trong đôi giày chạy bộ, bàn chân của Mortenson sớm bị lạnh cóng. Nhưng Hussein, cha của Tahira đã lấy cỏ khô từ balô của mình ra và chèn lót đôi giày Nike của Mortenson bằng những cọng cỏ khô gập lại. Khi đã được chèn như vậy, cái lạnh có thể chịu được. Mortenson cũng tự hỏi rằng không có lều hay túi ngủ, họ sẽ trải qua những đêm giá rét như thế nào. Nhưng người Balti đã đi săn ở Baltoro từ rất lâu trước khi người phương Tây bắt đầu đến đây với những trang thiết bị mới nhất.

Mỗi đêm, họ ngủ trong một dãy những hang động dọc theo băng tích bên, được người Balti biết rất rõ như một dãy những lỗ lấy nước quen thuộc đối với một đoàn lữ hành người Bedouin. Mỗi hang có trữ cây bụi khô, những miếng ngải cứu và bách xù để nhóm lửa. Dưới những chồng đá nặng, những người đàn ông lấy ra gạo và đậu lăng mà họ đã để lại đó trong những chuyến đi trước. Và với những lát kurba hình sọ người, thứ bánh mì mà họ nướng trên những hòn đá nung trong lửa, họ đã có đầy đủ nhiên liệu cần thiết để tiếp tục chuyến đi săn.

Sau bốn ngày, họ phát hiện con dê núi đầu tiên. Đó là một bộ xương nằm trên tảng đá phẳng, bị rỉa sạch như tuyết bởi báo và kền kền. Cao trên rìa đá bên trên những khúc xương, Twaha phát hiện ra một đàn dê núi mười sáu con đang gặm cỏ và kêu lớn skiin! Skiin!, là tên của chúng trong tiếng Balti. Những chiếc sừng lớn như chạm trổ của chúng in bóng trên bầu trời dễ thay đổi nhưng chúng ở quá xa để có thể săn bắn. Twaha đoán rằng một rdo-rut, một vụ tuyết lở, đã đưa con dê chết xuống, vì nó ở quá xa phía bên dưới khoảnh đất gặm cỏ. Anh giật cái đầu bạc phếch cùng cặp sừng ra khỏi bộ xương và nhét vào balô của Mortenson, một món quà.

Sông băng Biafo khoan một rãnh qua những đỉnh núi sâu hơn rãnh khe núi Grand Canyon. Họ leo đến nơi Biafo gặp sườn núi dài Latok phía bắc, là sườn núi đã khước từ hơn một chục nỗ lực của các đoàn thám hiểm. Hai lần, họ lẻn đến phía dưới gió của đàn dê núi, nhưng lũ dê đã cảm nhận được họ bằng sự tinh ranh mà Mortenson không thể không thán phục, trước khi họ đến đủ gần để có thể cố bắn.

Ngay trước lúc hoàng hôn ngày thứ bảy, Twaha nhìn thấy một con dê đực lớn trên vỉa đất cao bên trên họ gần hai mươi mét. Anh ta dốc một lon thuốc súng vào nòng khẩu súng hỏa mai, cho thêm một viên đạn thép và hạ nó xuống. Mortenson và những người khác bò phía sau, ép mình vào đáy một vách đá, mà họ hi vọng che giấu được họ. Twaha gập hai chân xuống ngang nòng súng được tì chắc trên một tảng đá, và yên lặng kéo cò súng ra sau nhưng không đủ yên lặng. Con dê núi lao về phía họ. Họ ở đủ gần để nhìn thấy chòm râu dài dựng lên hốt hoảng. Mortenson thấy miệng Twaha chuyển động đọc một lời cầu nguyện khi anh bóp cò.

Tiếng nổ thật chói tai, và đem đến một cơn mưa đá cuội nẩy bật xuống từ trên cao. Một vệt thuốc súng dính trên khuôn mặt Twaha, đen như mặt người thợ mỏ. Mortenson tin chắc Twaha đã bắn hụt vì con dê vẫn đứng đó. Rồi hai chân trước của nó oằn xuống, và Mortenson thấy hơi khói bốc vào không khí lạnh từ vết thương ở cổ con vật. Con dê núi cố hết sức để đứng lên hai lần, lặng lẽ và nghiêng sang bên. Tất cả những người đàn ông Korphe đồng thanh la lên, “Allah-u-Akbhar! ”

Việc xẻ thịt bắt đầu trong bóng tối. Rồi họ mang xác con dê vào một cái hang và đốt lửa lên. Hussein khéo léo sử dụng con dao cong dài bằng cẳng tay mình. Khuôn mặt thông minh rầu rĩ của anh ta nhăn lại vì tập trung khi anh rọc lá gan và chia cho những người đàn ông. Mortenson thấy vui vì hơi nóng của thức ăn, nếu không phải vì thứ gì khác. Là người duy nhất trong số những cư dân Korphe, Hussein đã rời Braldu và được học đến lớp mười hai ở đồng bằng Lahore xa xôi. Cúi người trên xác dê trong cái hang này, cánh tay dính đầy máu, đối với Mortenson, Hussein có vẻ như hoàn toàn khác với những ngày đi học ở những đồng bằng oi ả của Punjab. Mortenson nhận ra rằng anh ta sẽ là người thầy tuyệt vời cho trường Korphe. Anh ta có thể là cầu nối giữa hai thế giới.

Lúc toán đi săn về đến Korphe, gió mùa đã ngớt, thời tiết chuyển sang khô và trong trẻo. Họ tiến vào làng như những người hùng được chào đón. Twaha dẫn đầu, nâng cái đầu con dê núi còn tươi lên cao. Mortenson, vẫn mang món quà của mình, theo sau với cặp sừng của nạn nhân trong vụ lở tuyết nhô lên cao trên đầu anh như cặp sừng của chính anh.

Đám đàn ông đưa những nắm mỡ dê xắt khối vuông cho những đứa trẻ chen chúc quanh họ; chúng mút những miếng ngon như mút kẹo. Mấy trăm cân thịt họ mang về trong những chiếc giỏ được chia đều cho gia đình những người thợ săn. Và sau khi thịt đã được nấu, óc được hầm với khoai tây và hành củ, Haji Ali thêm cặp sừng mà anh con trai mang về vào một hàng chiến lợi phẩm được đóng đinh trên lối vào nhà mình, bằng chứng tự hào về những ngày ông còn đủ mạnh mẽ để tự đi săn.

Mortenson đã đưa cho một kĩ sư quân đội Pakistan trong vùng thủ phủ Gilgit xem bản phác họa những cây cầu ở hạ Braldu. Ông ấy xem xét các bản vẽ của Mortenson, gợi ý một số chỉnh sửa để gia tăng kết cấu và vẽ bản vẽ chi tiết cho cây cầu của Korphe, chỉ ra chính xác việc đặt cáp. Kế hoạch của ông ấy đòi hỏi những tháp đá cao hai mươi mét, dựng bên trên là những vòm cuốn đổ bêtông đủ rộng để cho xe bò đi qua, và một nhịp cầu treo chín mươi mét cao trên mực nước gần hai mươi mét.

Mortenson thuê một toán thợ hồ có kinh nghiệm từ Skardu để giám sát việc xây dựng tháp. Mỗi lượt bốn người đàn ông Korphe nâng những khối đá xẻ và cố đặt chúng cho vuông vức trên lớp ximăng mà những người thợ hồ đã trét bằng bay. Bọn trẻ rủ nhau ra xem giải trí và hò hét động viên khi những khuôn mặt của người cha, người chú của chúng đỏ lên trong nỗ lực giữ cho những khối đá được vững chắc. Từng khối một, hai tháp ba tầng, thuôn hẹp lại về phía đỉnh đã được dựng lên mỗi bên bờ sông.

Thời tiết mùa thu trong trẻo khiến cho những ngày dài làm việc dễ chịu, và Mortenson say sưa với những kết quả hiển hiện mỗi đêm khi anh tính toán họ đã sắp đặt được bao nhiêu khối đá trong ngày. Trong hầu hết các ngày của tháng bảy, khi những người đàn ông xây dựng cầu thì phụ nữ chăm sóc hoa màu. Khi hai ngọn tháp vững chắc dựng lên trên dòng sông, phụ nữ và trẻ em ngắm nhìn chúng từ mái nhà của họ.

Trước nỗi sợ bị giam mình khi mùa đông đến gần, người dân Korphe cố sống ngoài trời càng nhiều càng tốt. Phần lớn các gia đình mang thức ăn dành cho hai bữa trong ngày lên trên mái nhà. Sau khi ăn hết một bát dal và cơm với chén trà tamburok đặc, sau một ngày làm việc hài lòng, Mortenson thích phơi mình trong ánh nắng cuối cùng với gia đình Haji Ali, và chuyện trò qua nóc nhà với hàng chục gia đình khác cũng đang làm giống họ.

Norberg-Hodge đã ngưỡng mộ trích dẫn lời vị vua của một quốc gia vùng Himalaya khác, Bhutan, người nói rằng thước đo thành công thật sự của một quốc gia không phải là tổng sản phẩm nội địa mà là “tổng hạnh phúc nội địa.” Trên những mái nhà khô ráo ấm áp, giữa các loại trái cây của vụ thu hoạch thành công, ăn uống, hút thuốc, tán gẫu với cùng một ý nghĩa nhàn nhã như những người Pakistan ở các mái hiên của một quán cà phê bên đường, Mortenson cảm thấy một cách chắc chắn rằng bất chấp tất cả những thiếu thốn, người Balti vẫn nắm giữ chìa khóa của một loại hạnh phúc đơn giản đang dần biến mất ở thế giới trên đà phát triển nhanh chóng như những khu rừng già.

Buổi tối, những người độc thân như Twaha và Mortenson lợi dụng thời tiết mát dịu để ngủ dưới trời sao. Vào thời gian đó, tiếng Balti của Mortenson ngày càng lưu loát, và anh cùng Twaha ngồi trò chuyện với nhau cho đến khi gần hết cả làng Korphe đã đi ngủ. Đề tài lớn của họ là phụ nữ. Mortenson sắp bước vào tuổi bốn mươi, Twaha gần ba mươi lăm.

Twaha nói cho Mortenson biết anh nhớ vợ mình, Rhokia, như thế nào. Đã chín năm kể từ khi anh mất cô sau khi cô sinh cho anh đứa con duy nhất, Jahan. “Cô ấy rất đẹp.” anh nói, trong lúc họ nằm ngắm dải ngân hà dày đặc che phủ bên trên như một chiếc khăn choàng. “Cô ấy có khuôn mặt nhỏ nhắn, y hệt như Jahan, và cô ấy luôn luôn cười và hát như một con sáo.”

“Anh có định lấy vợ nữa không?” Mortenson hỏi.

“Ôi, đối với tôi, điều đó rất dễ dàng.” Twaha giải thích. “Một ngày kia tôi sẽ là nurmadhar và tôi có nhiều đất đai. Cho đến nay, tôi chưa yêu người phụ nữ nào khác.” Anh hạ thấp giọng bẽn lẽn nói, “Nhưng đôi khi tôi… vui chơi.”

“Anh có thể làm thế mà không cưới à?” Mortenson hỏi. Đó là điều mà anh thắc mắc từ khi đến Korphe, nhưng chưa bao giờ thấy đủ tự tin để hỏi.

“Ừ, dĩ nhiên.” Twaha trả lời. “Với các bà góa. Chúng tôi có nhiều bà góa ở Korphe.”

Mortenson nghĩ về những khu nhà bên dưới, nơi hàng chục thành viên trong gia đình đang nằm ngủ kề bên nhau trên những chiếc gối “Anh có thể làm như vậy ở đâu anh hiểu chứ?”

“Dĩ nhiên là ở handhok.” Twaha nói. “Mỗi căn nhà ở Korphe có một handhok, cái chòi bằng tranh nhỏ trên mái nơi họ chứa thóc. Anh có muốn tôi tìm cho anh một bà góa không? Tôi nghĩ có vài ba người đã trót yêu bác sĩ Greg rồi.”

“Cảm ơn anh.” Mortenson nói. “Tôi không nghĩ đó là một ý hay.”

“Anh có người tình ở làng quê của anh?” Twaha hỏi. Vậy nên Mortenson nói vắn tắt những thất bại trong việc hẹn hò của anh trong mười năm qua, kết thúc với Marina. Anh không thể không nhận thấy rằng khi nói ra, vết thương lòng trở nên ít đau xót hơn.

“À, cô ấy bỏ anh vì anh không có nhà.” Twaha nói. “Điều này thường xảy ra ở Baltistan. Nhưng nay anh có thể nói với cô ấy rằng anh có một ngôi nhà và gần như một cái cầu ở Korphe.”

“Cô ấy không phải là người tôi cần.” Mortenson nói và nhận ra rằng mình đã nói một cách nghiêm túc.

“Thế anh nên nhanh chóng tìm người phụ nữ của mình đi.” Twaha nói. “Trước khi anh trở nên quá già và quá béo.”

Ngày họ căng sợi cáp đầu tiên giữa hai tháp, những người khuân vác vừa mới trở về từ Baltoro cho hay có một nhóm người Mỹ đang đến gần. Mortenson ngồi trên một tảng đá bên bờ bắc sông Braldu với các bản vẽ của kĩ sư. Anh giám sát hai nhóm kéo căng sợi cáp chính bằng những đội bò Tây Tạng, và buộc cáp vào tháp chắc nhất trong khả năng của họ khi không có dụng cụ điện cầm tay. Rồi người nhanh nhẹn nhất trong số họ căng dây lui tới, vòng những dây cáp đỡ quanh những điểm neo mà kĩ sư đã phác họa ra và siết vít chắc chắn vào vị trí bằng những cái kẹp.

Dưới bờ bắc Braldu, một người Mỹ có diện mạo ghê gớm, chống gậy và đội chiếc nón bóng chày màu trắng đang đến gần. Kế bên ông là hướng dẫn viên người địa phương đẹp trai, đầy cơ bắp, lượn lờ tỏ vẻ bảo vệ.

“Ý nghĩ đầu tiên của tôi là, có một anh chàng to lớn đang ngồi trên hòn đá đó.” George McCown nói, “Và tôi không thể hình dung ra cách bắt chuyện với anh ta. Anh ta có mái tóc dài, mặc y phục địa phương. Nhưng rõ ràng không phải là người Pakistan.”

Mortenson tuột xuống khỏi tảng đá và đưa tay ra. “Ông có phải là George McCown không?” anh hỏi. McCown bắt tay Mortenson và gật đầu một cách hoài nghi. “Vậy thì chúc mừng sinh nhật ông.” Mortenson nói, cười toe và đưa cho người đàn ông một bao thư dán kín.

George McCown làm việc trong ban điều hành Quỹ Tài trợ Himalaya Mỹ, cùng với Lou Reichardt và Sir Edmund Hillary. Ông muốn dùng sinh nhật lần thứ sáu mươi của mình leo lên ngọn núi K2 với hai người con, Dan và Amy, để viếng thăm trại căn cứ của một đoàn thám hiểm mà ông tài trợ. Thiệp sinh nhật từ ban giám đốc AHF đã đến Askole, rồi được chuyển cho Mortenson bởi những cơ quan chính quyền địa phương bối rối cho rằng một người Mỹ sẽ biết cách để tìm ra một người Mỹ khác.

McCown từng là Chủ tịch, Giám đốc Điều hành của Boise Cascade Home & Land Corporation, và đã đưa việc kinh doanh của tập đoàn từ 100 triệu đôla lên 6 tỉ đôla trong sáu năm, trước khi nó tách ra và chia nhỏ. Ông đã học tốt bài học của mình. Trong những năm 1980, ông thành lập công ty đầu tư tài chính của riêng mình ở Menlo Park, California, và bắt đầu mua từng phần nhỏ của các công ty khác đã phát triển quá lớn và không sinh lợi. McCown vẫn đang phục hồi sau phẫu thuật đầu gối, và sau nhiều tuần đi bộ trên sông băng, tự hỏi đầu gối mình có đưa mình trở lại với thế giới văn minh hay không, ông hết sức vui khi thấy Mortenson.

“Sau một tháng xa nhà, tôi đột nhiên nói chuyện với một người nào đó rất giỏi giang ở một nơi có thể rất không thân thiện.” Mc Cown nói. “Tôi không thể hạnh phúc hơn khi gặp Mortenson.”

Mortenson kể cho McCown nghe ngân quỹ xây dựng cây cầu và trường học đã được quyên góp như thế nào chỉ sau khi có lời giới thiệu của Tom Vaughan viết cho bản tin của AH. Cả hai người đàn ông đều vui vì cuộc gặp tình cờ của họ. “Greg là một chàng trai mà bạn thích và tin tưởng ngay.” McCown nói. “Anh ta không thủ đoạn. Anh ta là một người khổng lồ dễ mến. Quan sát tất cả những người làm việc với anh ta để xây dựng cây cầu đó, thật rõ ràng là họ yêu quý anh ta. Anh ta làm việc như một người trong số họ, và tôi tự hỏi vì sao một người Mỹ lại có thể làm được như vậy.”

Mortenson tự giới thiệu mình với người đi cùng McCown bằng tiếng Balti và khi anh ta trả lời bằng tiếng Urdu, Mortenson biết rằng anh ta không phải là người Balti mà là người của bộ lạc Wakhi đến từ thung lũng Charpurson xa xôi, ở biên giớiAfghanistan, và tên anh ta là Faisal Baig.

Mortenson hỏi người đồng hương liệu ông có thể xem xét làm giúp anh một việc được không. “Tôi thấy như mình chỉ có một tay ở Korphe, tự mình làm mọi việc.” Mortenson nói. “Và tôi muốn người dân có cảm tưởng rằng không phải chỉ một mình tôi, mà có nhiều người Mỹ trở về nhà, quan tâm đến việc giúp đỡ họ.”

“Anh ta nhét nhanh cho tôi một cuộn tiền rupi.” McCown nói. “Và đề nghị tôi hành động như một ông chủ bự đến từ Mỹ. Vì vậy tôi cũng đóng kịch. Tôi bước quanh như một ông chủ, trả tiền công cho mọi người, nói với họ rằng họ đang làm một công trình vĩ đại và cần thực sự hết mình cho công trình đó, hoàn tất nhanh nhất trong khả năng của họ.”

McCown bước đi, gia đình ông theo sau. Nhưng ngày căng cáp giữa hai tháp đó sẽ kết nối nhiều hơn là chỉ có bờ bắc và bờ nam sông Braldu. Khi cuộc sống của người nước ngoài ở Pakistan ngày càng trở nên nguy hiểm hơn, Braig tình nguyện làm người cận vệ cho Mortenson. Và với địa vị của mình ở Menlo Park, McCown sẽ trở thành một trong những người ủng hộ Mortenson mạnh mẽ nhất.

Vào cuối tháng tám, mười tuần sau ngày động thổ, Mortenson đứng giữa nhịp cầu chín mươi mét, ngắm nhìn những vòm bêtông gọn gàng ở cả hai đầu, móng cầu ba tầng chắc chắn và mạng lưới dây cáp neo giữ tất cả lại với nhau. Haji Ali đưa cho anh tấm ván cuối cùng và đề nghị anh đặt vào vị trí. Nhưng Mortenson nài ép ông trưởng làng Korphe hoàn tất cây cầu của Korphe. Haji Ali đưa tấm ván lên cao trên đầu và cảm ơn Thánh Allah nhân từ đã gửi một người ngoại quốc đến làng mình, rồi quỳ gối và bít lại khe hở cuối cùng phía trên dòng Braldu sủi bọt. Từ chỗ đứng cao trên bờ sông phía nam của họ, phụ nữ và trẻ em Korphe reo lên lời tán thành của họ.

Cạn kiệt tiền một lần nữa và lo ngại không dám thâm hụt vào số tiền còn lại cho ngôi trường, Mortenson đã chuẩn bị về lạiBerkeley, trải qua mùa đông và mùa xuân để kiếm đủ tiền và quay trở lại. Đêm cuối cùng ở Korphe, anh ngồi trên mái cùng Twaha, Hussein và Haji Ali, và khẳng định lại kế hoạch cho việc động thổ ngôi trường vào mùa hè. Hussein đã hiến tặng một miếng ruộng bằng phẳng của Hawa, vợ anh, để làm trường. Miếng đất có một tầm nhìn về K2 Korphe không bị ngăn cách, tầm nhìn mà Mortenson nghĩ là sẽ động viên các học sinh hướng lên cao. Anh chấp nhận với điều kiện Hussein sẽ trở thành thầy giáo đầu tiên trong ngôi trường của Korphe.

Họ công nhận thỏa thuận thông qua thứ trà được làm ngọt quá mức cho dịp đó và qua những cái bắt tay, qua cuộc trò chuyện về ngôi trường một cách phấn khởi cho đến tối mịt.

Gần hai trăm năm mươi mét bên dưới, ánh sáng đèn lấp lánh giữa sông Braldu, khi người dân Korphe tò mò đi qua đi lại qua rào cản đã chia cắt họ hoàn toàn khỏi thế giới rộng lớn hơn, thế giới mà Mortenson miễn cưỡng chuẩn bị để quay trở về.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx