sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Pháp sư - Bí mật của Nicholas Flamel bất tử - Chương 28 - 29

CHƯƠNG 28

Machiavelli đang ngồi ở băng ghế sau chiếc xe hơi của hắn bên cạnh là Tiến sĩ John Dee. Đối diện là ba Disir. Dagon ngồi ở ghế tài xế, đôi mắt không ai nhìn thấy ẩn sau cặp kính râm ôm sát quanh mắt. Chiếc xe nghe thoang thoảng mùi cá chua chua của hắn

Một chiếc điện thoại cầm tay rung lên, phá vỡ sự im lặng nặng nề. Machiavelli búng ngón tay mở nắp điện thoại ra mà không nhìn vào màn hình. Gần như hắn đóng điện thoại ngay tức thì.

“Tất cả đã rõ. Người của tôi đã kéo lại và có một hàng rào an ninh trong khu vực chung quanh tất cả các khu phố liên kết. Sẽ không một ai tình cờ lang thang vào vùng cấm.”

“Bất kỳ chuyện gì xảy ra, không ai được vào nhà,”

Disir mắt tím nói.

“Một khi chúng tôi thả Nidhogg, chúng tôi sẽ có rất ít quyền kiểm soát cho tới khi chúng ăn no.”

John Dee chồm người về phía trước, và trong chốc lát, trông như thể hắn sắp sửa khều vào đầu gối cô gái trẻ. Ánh nhìn trên gương mặt cô ả đã ngăn hắn lại.

“Không được để thoát Flamel và mấy đứa nhỏ.”

“Câu đó như một lời đe dọa, Tiến sĩ,”

chiến binh ngồi bên trái nói.

“Hoặc là một mệnh lệnh.”

“Chúng tôi không thích những lời đe dọa,”

cô chị đang ngồi bên phải nói thêm.

“Và chúng tôi không làm theo lệnh.”

Dee chớp mắt chầm chậm.

“Đây không phải là lời đe dọa mà cũng không phải mệnh lệnh. Đơn giản chỉ là một…ời thỉnh cầu,”

rốt cuộc hắn nói.

Chúng tôi ở đây chỉ vì Scathach,”

chiến binh mắt tím nói.

“Những người còn lại không phải là mối quan tâm của chúng tôi.”

Dagon bước ra khỏi chiếc xe và mở cửa. Không hề liếc nhìn ra sau, các Valkyrie bước ra và đi vào vùng sáng lờ mờ đầu tiên của vùng sáng trước rạng đông, họ dàn ra và di chuyển chậm xuống con phố hẹp. Trông họ như ba cô gái trẻ trở về nhà sau một bữa tiệc thâu đêm.

Dee chuyển vị trí, ngồi đối diện Machiavelli.

“Nếu họ thành công, tôi bảo đảm các chủ nhân của chúng ta sẽ biết rằng Disir là ý tưởng của ông,”

hắn vui vẻ nói.

“Tôi chắc chắn ông sẽ làm vậy.”

Machiavelli không nhìn Pháp sư người Anh và tiếp tục dõi theo hành trình của ba cô gái trẻ khi các cô đi bộ xuống con phố.

“Và nếu họ thất bại, ông có thể nói với các chủ nhân rằng Disir là ý tưởng của tôi, và ông có thể tự mình phủi sạch mọi khiển trách,”

hắn nói thêm.

“Đỗ lỗi: tôi tin tôi đã bắt đầu cái khái niệm đó khoảng hai mươi năm trước khi ông chào đời.”

“Tôi tưởng ông nói họ đang mang theo Nidhogg?”

Dee hỏi, tảng lờ những gì hắn nói.

Niccolo Machiavelli gõ nhẹ và cửa sổ bằng những cái móng tay đã được cắt giũa.

“Đúng vậy.”

Khi Disir di chuyển xuống ngõ hẻm hẹp lát sỏi cuội và có tường cao hai bên, chúng biến hình.

Việc biến hình được chúng thực hiện khi chúng đi ngang qua một mảng tối. Chúng vừa vào vai những cô gái trẻ, mặc áo khoác da mềm, quần jeans và giày bốt… và chỉ trong chớp mắt đã thành các Valkyrie: các trinh nữ chiến binh. Áo choàng dài làm bằng những vòng xích trắng như băng tuyết buông ngang đầu gối, bao phủ bàn chân là đôi giày bốt bằng kim loại cổ cao đến gối với mũi giày được đóng đinh nhọn, găng tay da dát kim loại nặng nề. Nón sắt tròn bảo vệ đầu và mặt nạ che mắt mũi nhưng để hở miệng. Ngang hông quấn một thắt lưng da màu trắng treo bao kiếm và dao. Các Valkyrie mỗi ả một thanh kiếm rộng bản trông một tay, còn có một thứ vũ khí thứ hai dắt sau lưng: một cái giáo, chiếc rìu hai đầu và búa chiến.

Chúng dừng lại trước cánh cổng màu xanh lục mục nát chìm sâu vào bức tường. Một trong số Valkyrie quay lại nhìn chiếc xe hơi và chỉ vào chiếc găng tay cánh cổng.

Machiavelli bấm nút cuốn cánh cửa xuống. Hắn chĩa ngón tay trái lên trời và gật đầu. Mặc cho vẻ bề ngoài hư nát, nó đúng là cánh cổng sau ngôi nhà của Saint-Germain.

Từng Disir đều với tay vào cái túi da treo ở thắt lưng. Lấy ra một nắm những vật giống như những miếng đá phẳng bẹt, chúng ném tung vào cánh cửa.

“Chúng đang Đúc Dấu Ma Thuật,”

Machiavelli giải thích. Chúng đang gọi Nidhogg… sinh vật ông đã phóng thích, một loài mà chính các Elder đã giam giữ cẩn thận.”

“Tôi không biết nó bị nhốt trong Cây Thế giới,”

Dee lẩm bẩm.

“Thật ngạc nhiên. Tôi tưởng ông biết mọi chuyện.”

Machiavelli xoay chuyển trong chỗ mình để nhìn thẳng vào Dee. Trong ánh lờ mờ tranh tối tranh sáng, hắn có thể nhìn thấy Pháp sư trông thật xanh xao và những giọt mồ hôi lấm tấm rịn ra lấp lánh trên trán. Nhiều thế kỷ kiềm chế cảm xúc đủ bảo đảm để Machiavelli không mỉm cười.

“Tại sao ông phá hủy Yggdrasill?”

“Đó là vì nguồn năng lượng của Hekate,”

Dee nói ngay, đôi mắt dán chặt vào các Valkyrie, chăm chú nhìn chúng. Chúng đã bước lùi khỏi những miếng đá mà chúng vừa ném xuống đất và đang khẽ khàng bàn tính với nhau, tay chỉ về những viên ngói xếp lớp.

“Nó có số tuổi bằng với tuổi của hành tinh này. Vậy mà ông phá hủy nó không một giây suy nghĩ. Tại sao ông lại làm vậy?”

Machiavelli lấy làm lạ bật hỏi.

“Tôi nghĩ đó là những gì cần thiết.”

Những lời của Dee lạnh băng.

“Tôi sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết để mang các Elder trở lại thế giới.”

“Nhưng ông không cân nhắc hậu quả,”

Niccolo Machiavelli nói nhẹ nhàng.

“Mỗi hành động đều có một hậu quả. Yggdrasill mà ông đã phá hủy trong vương quốc của Hekate kéo dài đến tận Vương quốc Bóng tối khác. Những nhánh cao nhất vươn đến Vương quốc Bóng tối của Asgard, và rễ cắm sâu vào Nifheim, Thế giới Đen tối.”

Hắn thấy Dee cứng người lại.

“Khi phá hủy Cây Thế giới, không những ông đã phóng thích Nidhogg, mà còn phá hủy ít nhất ba Vương quốc Bóng tối—có lẽ còn hơn thế nữa.”

“Tôi không biết…”

“Ông đã gây thù chuốc oán với nhiều người,”

Machiavelli phớt lờ hắn, cứ nói như tuôn ra,

“những kẻ thù nguy hiểm. Tôi nghe nói rằng Elder Hel đã trốn thoát khỏi cuộc sụp đổ vương quốc của bà. Tôi nghĩ bà đang săn lùng ông.”

“Tôi không sợ bà ta đâu,”

Dee đốp chát, nhưng tiếng nói của hắn thoáng run rẩy.

“Ồ, phải không đó,”

Machiavelli thì thào.

“Bà ta làm tôi chết khiếp.”

“Chủ nhân của tôi sẽ bảo vệ tôi,”

Dee nói đầy tin tưởng.

“Ông ta phải là một Elder mạnh thật sự mới bảo vệ được ông khỏi Hel; không ai ch lại bà ta mà còn sống sót.”

“Chủ nhân của tôi có mọi sức mạnh.”

Dee ngắt lời.

“Tôi mong được biết nhân dạng của vị Elder bí ẩn này.”

“Khi mọi chuyện này qua đi, có lẽ tôi sẽ giới thiệu ông,”

Dee nói. Hắn nói hất đầu xuống con hẻm.

“Và có thể rất sớm thôi.”

Những miếng đá ma thuật rít lên và kêu xèo xèo dưới đất.

Chúng là những miếng đá dẹp đen thui không bình thường, mỗi cạnh là một dãy đường kẻ đầy góc cạnh, hình vuông và vạch xiên. Bây giờ những đường kẻ đó bừng bừng đỏ, bốc ra những làn khói đỏ cuốn xoắn tan vào bầu không khí yên tĩnh trước rạng đông.

Một Disir lấy mũi kiếm xê dịch ba miếng đá ma thuật vào với nhau. Disir thứ hai hất một miếng đá nằm trệch đường bằng đầu mũi thép của giày bốt, rồi kéo rê một miếng khác vào đúng chỗ. Disir thứ ba lấy một miếng đá ma thuật nằm lẻ loi ở cạnh trụ cửa và lấy thanh kiếm đó dích nó vào vị trí cuối của dãy ký tự.

“Nidhogg,”

Disir thì thầm, gọi cơn ác mộng mà họ đã niệm chú tên của nó trong các phiến đá cổ xưa.

“Nidhogg,”

Machiavelli nói rất khẽ. Hắn nhìn chéo qua vai Dee đến chỗ Dagon đang ngồi chằm chằm nhìn thẳng đằng trước, có vẻ không quan tâm đến những gì đang diễn ra phía bên trái nó.

“Tôi biết những gì huyền thoại đã nói về nó, nhưng Dagon, chính xác nó là cái gì vậy?”

“Dân tộc tôi gọi nó là Kẻ Nuốt Tử thi,”

tay tài xế nói, tiếng nói dính nhớp nháp và sôi sung sục.

“Nó đã ở sẵn đây rồi trước cả khi giống loài tôi giành quyền trên biển, mà chúng tôi lại nằm trong số những loài đầu tiên đặt chân lên hành tinh này.”

Dee nhanh nhẹ xoay người trên ghế để nhìn thẳng vào tay tài xế.

“Anh là ai?”

Dagon phớt lờ câu hỏi.

“Nidhogg quá nguy hiểm đến nỗi hội đồng Giống loài Elder phải tạo ra một Vương quốc Đen tối, để chứa nó, và rồi họ dùng những cái rễ không gì có thể phá vỡ được của Yggdrasill quấn quanh sinh vật này, hầu khóa chặt chúng vĩnh viễn.”

Machiavelli giữ mắt dán chặt vào làn khói đen đỏ cuộn bốc lên khỏi những miếng đá ma thuật. Hắn tưởng là hắn nhìn thấy đường viền của một hình hài đang bắt đầu được hình thành.

“Tại sao các Elder lại không giết chết nó đi?”

“Nidhogg là một thứ vũ khí,”

Dagon nói.Các Elder cần một thứ vũ khí để làm gì?”

Machiavelli kinh ngạc nói lớn.

“Sức mạnh của họ hầu như không có giới hạn rồi. Họ đâu có kẻ thù.”

Dù ngồi với hai bàn tay buông lỏng trên tay lái thép, nhưng vai Dagon xoay sở và cái đầu của nó xoay gần như thành vòng tròn để đối diện với Dee và Machiavelli.

“Các Elder không phải là loài đầu tiên trên trái đất,”

nó nói đơn giản.

“Đã có những loài khác.”

Nó nói ra những lời này một cách chầm chậm và cẩn trọng.

“Các Elder đã sử dụng Nidhogg và một vài sinh vật nguyên thủy khác làm vũ khí trong cuộc Chiến tranh Vĩ đại để tiêu diệt hoàn toàn bọn kia.”

Machiavelli sửng sờ nhìn Dee, trông hắn cũng bang hoàng không kém trước sự tiết lộ này.

Miệng Dagon hé mở thành một cái gì đó có thể là một nụ cười, để lộ cái họng đầy răng của nó.

“Chắc các ông biết rằng lần cuối cùng Disir sử dụng Nidhogg, bọn chúng mất kiểm soát sinh vật này. Nó đã ăn sạch bọn chúng. Trong thời gian ba ngày dùng để bắt nó lại và xích nó vào rễ cây Yggdrasill, nó đã tiêu diệt toàn bộ dân tộc Anasazi sống đâu đó trong vùng đất mà ngày nay là New Mexico. Người ta nói răng Nidhogg đã chén sạch hàng vạn con người mà còn đói muốn ăn thêm.”

“Liệu những Disir này có kiểm soát được nó không?”

Dee gặng hỏi.

Dagon nhún vai.

“Mười ba chiến binh Disir tinh nhuệ đã không thể kiểm soát nó ở New Mexico.”

“Có lẽ chúng ta nên—”

Dee bắt đầu.

Machiavelli bỗng cứng đờ.

“Quá trễ,”

hắn thì thào.

“Nó kia rồi.”

CHƯƠNG 29

“Chị đi ngủ đây.”

Sophie Newman dừng nơi ngưỡng cửa bếp, một ly nước trong tay, cô ngoái nhìn Josh vẫn đang ngồi ăn ở bàn ăn.

“Francis sắp dạy chị một số câu thần chú lửa cụ thể vào sáng mai. Ông ấy hứa sẽ chỉ cho chị mánh lới làm pháo hoa.”

“Quá đã, chúng ta sẽ không phải mua pháo hoa cho ngày Bốn tháng Bảy nữa.”

Sophie mỉm cười mệt mỏi.

“Đừng thức khuya quá, gần sáng rồi đó.”

Josh ngốn một miếng bánh mì nướng nữa vào miệng.

“Em vẫn còn ở múi giờ Thái Bình Dương,”

cậu nói, tiếng cậu nghẹn lại.

“Nhưng một vài phút nữa em sẽ đứng lên. Ngày mai Scatty muốn tiếp tục tập dợt kiếm với em. Em thật sự mong đến lúc đó.”

“Láo, láo toét.”

Cậu cằn nhằn.

“Đúng rồi, chị đã có ma thuật bảo vệ chị. Tất cả những gì em có là một thanh kiếm bắng đá.”

Nỗi cay đắng nghe rõ trong giọng nói của cậu, và Sophie buộc mình không được bình luận gì. Cô bắt đầu chán những lời than vãn liên miên của cậu em trai. Cô chưa bao giờ đòi được Đánh thức; cô cũng không muốn biết ma thuật của Bà Phù thủy hay của Saint-Germain. Nhưng điều đó đã xảy ra và cô phải đương đầu với nó, và Josh sẽ phải sớm vượt qua được.

“Chúc ngủ ngon,”

cô nói. Cô đóng cánh cửa sau lưng mình, để Josh lại một mình trong gian bếp.

Xong lát bánh mì cuối cùng, cậu gom đĩa và ly của mình, mang chúng đến bồn rửa chén. Cậu vặn nước nóng dọi khắp cái đĩa, rồi để nó nhiễu nước cho ráo trong giá đựng đĩa có thanh chắn bằng dây kim loại đặt cạnh cái bồn sâu làm bằng gốm. Rót đầy lại ly nước từ bình lọc, cậu đi ngang qua cửa bếp, đẩy nó mở ra và bước vào mảnh vườn nhỏ xíu. Dù trời đã gần sáng, cậu không thấy mệt chút nào, nhưng một lần nữa, cậu tự nhắc nhở mình, cậu đã ngủ gần hết cả ngày. Qua bức tường cao, cậu không nhìn thấy đường chân trời của Paris ngoại trừ tia sáng màu cam ấm áp sáng lên từ  những ngọn đèn đường. Cậu nhìn lên, nhưng không thấy được vì sao nào trên khoảng trời. Ngồi xuống bậc thềm, cậu hít thở thật sâu. Không khí mát mẻ và ấm ướt, hơi giống của San Francisco, dù thiếu mùi muốim đà đặc trưng quen thuộc mà cậu rất yêu mến; thay vì mùi ô uế bởi những mùi xa lạ, nó vẫn còn một ít mùi nghe cũng dễ chịu. Cậu cảm thấy cay xè ngay sau mũi và muốn hắt hơi, cậu hít vào khó khăn, nước mắt chảy ra. Có mùi hôi thối rất khó chịu giống như mùi mấy cái thùng rác đầy ứ và mùi trái cây thối, rồi cậu thấy buồn nôn, cái mùi hôi thối đã nồng nặc hơn, mà sao lại nghe quen quen. Ngậm miệng lại, cậu hít thở sâu bằng mũi, cố nhận ra nó: nó là cái gì nhỉ? Nó là cái gì đó cậu đã ngửi thấy mới gần đây thôi…

Rắn.

Josh nhảy bật dậy. Không có rắn ở Paris này chứ, phải không? Sâu trong lồng ngực, Josh cảm thấy tim mình đập nhanh hơn. Cậu khiếp sợ rắn,  nỗi sợ hãi lạnh buốt trong xương mà cậu có thể hồi tưởng lại từ cái thời cậu lên mười. Cậu đang cắm trại với ba cậu ở Di tích Quốc gia Wupatki bang Arizona thì cậu bị trượt khỏi con đường mòn và rơi vào một con dốc, chuồi thẳng vào cái ổ rắn chuông. Khi bụi mù lắng xuống, cậu nhận thấy mình đang nằm kế bên một con rắn dài khoảng một mét tám. Sinh vật đó ngốc cái đầu nhọn như cái nêm và chằm chằm nhìn cậu băng hai con mắt đen như than chắc trong vòng chưa đầy một giây—nhưng lại có vẻ như cả một đời—trước khi Josh cố bò lết ra xa, quá kinh hãi và nín cả thở vì sợ điếng hồn. Cậu không bao giờ lý giải được câu hỏi tại sao con rắn không tấn công cậu, dù ba cậu bảo rằng rắn chuông thật sự rất nhút nhát và chắc chắn là nó vừa ăn no. Hàng mấy tuần sau đó cậu cứ gặp ác mộng về con dốc đó hoài, và cứ sau mỗi cơn mơ cậu lại tỉnh lại với mùi rắn xạ rắn bám đầy trong mũi.

Bây giờ cậu lại đang ngửi thấy nó

Và ngày càng nồng nặc hơn.

Josh bắt đầu lùi bước lên mấy bậc thang. Đột nhiên có tiếng cào bới sục sạo, hệt như tiếng một con sóc chạy lên thân cây. Rồi, ở ngay đằng trước cậu, phía bên kia của khoảnh sân cỏ, những cái vuốt, mỗi cái dài bằng cả bàn tay cậu, hiện ra khỏi bức tường cao khoảng hai mét bảy. Chúng cử động loanh quanh một cách chậm chạm, gần như rất tinh tế, lục tìm một cái lỗ, và rồi đột ngột quắp chặt cứng đến nỗi những cái móng cắm sâu vào lớp gạch cũ. Josh tê cứng người, cơn bàng hoàng sửng sốt ập tới làm cậu không sao thở nổi.

Những cánh tay đi theo phủ một lớp da toàn những cục u bướu dày đặc.. và rồi cái đầu của một con quỷ hiện ra trên bờ tường. Nó dài và bằng phẳng như tấm ván, với hai lỗ mũi tròn vo ở mút đầu cái mũi cụt ngủi nằm ngay trên cái miệng và những con mắt đen thui đặc quẹo lún sâu xuống đằng sau mấy chỗ lõm hình tròn ở hai bên hộp sọ của nó. Không thể nhúc nhích, không thể thở, trái tim cậu đập thùi thụi như búa nện mạnh đến nỗi tự nhiên lắc rung cả thân người, Josh nhìn chằm bẳm vào cái đầu khổng lồ vặn vẹo bên này bên kia một cách lười biếng, một cái lưỡi dài ngoằng, lưa tưa màu trắng nhợt nhạt đong đưa khua khoắng trong không trung. Nó đứng yên, rồi từ từ, rất chậm rãi, quay cái đầu và nhìn xuống Josh. Mút đầu lưỡi của nó liếm không khí và rồi nó há miệng rộng ngoác—rộng không thể tưởng, đủ sức nuốt chững nguyên con người cậu—và những lưỡi dao quắm nhọn hoắt, bừa bãi lộn xộn.

Josh muốn quay người lại và hét lớn lên, nhưng cậu không thể. Có gì đó thôi miên cậu nhìn về phía c khiếp đảm đang trèo qua tường. Trong đời mình cậu từng đã bị mê hoặc bởi loài khủng long: cậu sưu tầm hóa thạch, trứng, xương và răng—thậm chí cả phân khủng long hóa đá. Và bây giờ cậu đang nhìn thấy một con khủng long sống. Thậm chí một phần não của cậu đã nhận diện được sinh vật này—hay ít ra là, nó tương tự với cái gì đó. Đó là con rồng Kodomo. Chúng không phát triển đến mức dài hơn ba mét trong vùng hoang vu, nhưng cậu có thể thấy sinh vật này ít nhất to lớn gấp ba lần như vậy.

Đá nứt nẻ. Một viên gạch cũ nổ ra thành bụi, và đến viên thứ hai, thứ ba.

Rồi một âm thanh như xẻ gỗ, răng rắc, lạo xạo và—hầu như bằng một cử động cũng chậm chạp—Josh nhìn chăm chú vào bước tường, với sinh vật đó treo trên đầu tường, đang lắc lư rồi đổ sầm xuống đất. Cánh cửa kim loại oằn xuống gãy làm hai, những cái bản lề văng ra và biến mất trong vòi phun nước, xé toạc một thanh gỗ lớn ra khỏi cái bể chứa. Con quỷ va mạnh xuống đất, thản nhiên trước đống gạch đá trút xuống như mưa quanh nó. Tiếng ồn xóc bẩy Josh tỉnh ra và cậu loạng choạng đi giật lùi lên bậc thang vừa đúng lúc con quỷ lết ì ạch trên những cái chân của nó và lê bước tiến đến, hướng thẳng vào ngôi nhà. Cậu con trai đóng sầm cách cửa và cài cho đến thanh cuối cùng. Đang quay đi thì qua cửa sổ nhà bếp cậu bắt gặp một hình thù trắng trắng, cậu vớ đại cái hình như là thanh kiếm, rồi bước ngang qua cái lỗ trống hoác trước đây từng là bức tường.

Josh giật lấy thanh kiếm đá khỏi sàn và đâm bổ vào sảnh.

“Dậy!”

cậu la lớn, tiếng cậu qua kinh khiếp đến nỗi ngay cả cậu cũng không nhậ“Sophie! Flamel! Mọi người!”

Cách cửa sau lưng cậu lắc rung lên trong cái khung cửa. Cậu liếc thật nhanh ra sau lưng vừa đúng lúc nhìn thấy cái lưỡi trắng của con quỷ đang tách khung gỗ ra khỏi tấm kính.

“Cứu!”

Kính vỡ tan và cái lưỡi lao vọt về nhà bếp, quét những cái đĩa xuống đất, quơ tán loạn bình lọ và nồi niêu xoong chảo, đánh lên cái ghế. Kim loại kêu rin rít khi cái lưỡi chai lên nó; gỗ hóa đen và bốc cháy; nhựa chảy ra. Một giọt nước bọt có chất phá hủy nhỏ xuống sàn nhà và sủi bong bóng trên sàn gạch, rồi ăn sâu vào đá.

Theo bản năng. Josh quất thanh Clarent vào cái lưỡi. Thanh kiếm vừa đủ chạm đến cái lưỡi thôi, nhưng đột nhiên nó lại biến mất, thụt mạnh lại vào trong miệng con sinh vật đó. Một thoáng yên lặng, rồi con quỷ đâm nguyên cái đầu của nó vào cánh cửa.

Cánh cửa sụp đổ tan nát thành vỏ bào; những bức tường dựa trên cạnh bên kia nứt nẻ ra khi đá bị đánh vỡ. Sinh vật kéo cái đầu lùi lại và dộng nó vào khe nứt lần nữa, giùi một cái lỗ rộng vào gian bếp. Toàn bộ căn nhà kêu cót két một cách đáng sợ.

Một bàn tay dặt lên vai Josh, suýt chút nữa làm ngưng luôn trái tim cậu.

“Này, nhìn xem cậu đã làm cái gì kìa: cậu vừa đi làm nó điên lên đó.”

Scathach sải chân bước vào gian nhà bếp tan hoang và đứng ngay cái lỗ trống hoác có những cú đấm của sinh vật đó tạo ra.

“Nidhogg,”  cô nói, và Josh không chắc là cô đang nói với cậu không,  “có nghĩa Disir không xa đây lắm.”

Cô nói gần như hài lòng về nguồn tin này.

Scathach nhảy lùi lại đúng lúc cái đầu Nidhogg lại dộng vào cái lỗ. Cái mũi to tướng của nó nở rộng và cái lưỡi trắng của nó vỗ bẹt bẹt vào chỗ mà mới một tích tắc trước đó, Bóng tối đã đứng. Một khối nước dãi đặc quẹo đốt cháy phiến đá lát sàn, biến nó thành bùn lỏng. Hai thanh song kiếm của Scathach lao ra, lấp lóe ánh xám và bạc, và hai vết cắt dài xuất hiện nơi phần thịt màu trắng trên cái lưỡi chẻ lưa tưa của sinh vật đó.

Không rời mắt khỏi sinh vật, Scathach nói với Josh, hầu như rất bình tĩnh,

“Bảo mọi người ra khỏi nhà, tôi sẽ chăm sóc cái thứ này…”

Và rồi một cánh tay to lớn đầy móng vuốt đập xuyên qua cửa sổ, quấn quanh thân người Nữ Chiến binh và kẹp chặt như cái mỏ kẹp rồi dộng cô vào bức tường với một lực đủ làm vỡ lớp vữa trát. Hai cánh tay Nữ Chiến binh bị kẹt lại trên người, hai thanh kiếm trở nên vô dụng. Cái đầu dềnh dàng của Nidhogg hiện ra trong đống đổ nát bên hông nhà, miệng há lớn và cái lưỡi của nó lào thẳng về phía Scathach. Một khi cái lưỡi bọc a-xít lép nhép của nó quấn quanh người Nữ Chiến binh đang trong tình trạng không gì bảo vệ, nó sẽ kéo cô vào cái họng sâu hoắm của nó.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx