sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Yêu nữ - Chương 24 - 25

CHƯƠNG HAI MƯƠI BỐN

Tsagaglalal di chuyển dễ dàng ngang qua đường phố hôi hám dày đặc sương mù.

Mặc dù trời chỉ mới ngả tối, tương đối còn sớm, nhưng San Francisco đã gần như hoàn toàn vắng vẻ. Tình trạng mất điện đã đóng cửa cả thành phố yên tĩnh này. Những hồi còi an ninh đầu tiên đùng đục vang rền khắp thành phố đang dần nhạt đi khi pin cạn. Tiếng còi khẩn cấp nghe rất xa và rất nhỏ, các giác quan được nâng cao của Tsagaglalal bắt được mùi cao su cháy và khí gas trong không khí. Đã có tai nạn. Một tai nạn trầm trọng. Có lẽ phải hơn một. Các Elder Đen tối đang đến rất gần thành phố.

Mọi con đường dẫn đến đường Jackson đều lên dốc, sau đó đường phố xuôi xuống và nhô lên trở lại. Bà rẽ phải ra khỏi đường Scott đi lên Broadway, tất cả cây cối ở đó đều nhỏ nước.

Đèn đường nơi mỗi góc phố đều tắt ngấm, đèn xe trên Gough nhấp nháy một màu đỏ nghèn nghẹn. Vài chiếc xe vẫn cố đi trên đường, bật sáng đèn, và đó là nguồn sáng duy nhất. Trên Van Ness, taxi và xe buýt bò rề rề trong làn ánh sáng mờ mờ phát ra từ những bóng đèn tròn và những chiếc xe tuần của Sở Cảnh sát San Francisco chậm rãi lăn xuống phố, ánh đèn gay gắt chói loa lóa. Cảnh sát dùng loa phát thanh khuyên mọi người rời khỏi đường phố, ở lại trong nhà cho tới khi sương mù tan.

Bộ giáp của Tsagaglalal hòa hợp được với môi trường xung quanh, thay đổi màu, làm cho bà ta hầu như vô hình trong màn đêm. Bà có thể ngửi thấy mùi hôi của thịt trong không khí và nhận ra luồng điện của Quetzalcoatl và của Bastet. Một mình Rắn Lông đã đủ nguy hiểm rồi, mà sự trở lại của nữ thần Elder quả là mối lo thật sự: như thế có nghĩa là các biến cố đang đi dần đến điểm khởi đầu. Và Bastet, cũng như Dee, không hề biết ý nghĩa của sự tinh tế. Mụ ta cũng chẳng có gì ngoài việc khinh rẻ loài người.

Rẽ trái lên đường Hyde, Tsagaglalal phóng về phía công viên Russian Hill. Chưa đầy một tuần trước, Bastet, Morrigan và Dee đã dính líu vào cuộc tấn công cây Yggdrasill mới trong Vương quốc Bóng Tối Mill Valley của Hekate. Trong trận chiến ngắn ngủi và cay đắng ấy, cái cây cổ xưa, mọc lên từ những hạt giống cứu được trong biến cố Nhận chìm của Danu Talis, đã bị John Dee phá hủy khi sử dụng thanh Excalibur. Nữ thần Ba Mặt đã ngã gục theo cây, và kiến thức bao la của bà ta cũng chết theo. Dee và Morrigan tiếp tục truy đuổi cặp song sinh, nhưng Bastet đã biến mất. Tsagaglalal biết mụ ta có một ngôi nhà ở Bel Air.

“Khi nào mọi chuyện này kết thúc,” Tsagaglalal thì thầm với bầu không khí ẩm ướt, “và nếu ta còn sống ta sẽ coi như mình có nhiệm vụ săn lùng mụ đến cùng.”

Bà đang băng qua sân quần vợt thì ba hình dáng đầu cạo trọc ăn mặc bê bối xuất hiện trong vùng tối ngay phía trước, những đôi bốt chiến đấu đế cao su im lặng trên vỉa hè khi bọn chúng đến gần. Chúng ríu ra ríu rít có vẻ phấn khích, âm thanh gần như quá cao không nghe được, từng sợi luồng điện màu xam xám của chúng, bắn vọt ra thành những sọc vằn vện màu thâm tím, rỉ ra từ da thịt. Hai tên thậm chí còn chẳng thèm giấu đi cái đuôi của mình. Chúng là bọn cucubuth đang trên đường đi đánh chén.

“Mình ghét bọn cucubuth,” Tsagaglalal thì thào. “Bẩn thỉu, hôi hám, nặng mùi.”

Bà Canh Giữ rút thanh kopesh, phạt ngang người chúng không gây một tiếng động, bỏ mặc thân thể chúng tan rã thành bụi cát.

Tsagaglalal biết lí do duy nhất khiến nữ thần đầu mèo trở lại thành phố này là bởi vì mụ ta muốn quanh quẩn gần chiến thắng của các Elder.

Nhiều lần, chồng Tsagaglalal, Abraham, đã bảo bà rằng ông xem Bastet là một trong những sinh vật nguy hiểm nhất ông từng gặp. “Tham vọng của mụ ta sẽ phá hủy thế giới này,” ông ấy đã cảnh báo như thế.

Tsagaglalal dừng lại một chút trên đỉnh đồi. “Rẽ phải hay đi thẳng đây ta?” bà thốt ra thành tiếng, cố tìm ra đường ngắn nhất.

Bên phải là đường Lombard, nổi tiếng vì tám khúc quanh gay gắt. Có thể rẽ ở đây, nhưng bà biết nếu tiếp tục đi thẳng, vẫn có thể quẹo phải trên Jefferson, con đường sẽ mang bà tới ngay Bến Tàu Người Câu Cá.

“Cứ đi thẳng.” Bà thong thả băng qua con đường cong cong.

Bastet lúc nào cũng lắm hoài bão, lại tham lam. Cùng chồng, Amenhotep, mụ ta đã thống trị Danu Talis nhiều thế kỉ. Khi Quá trình Biến đổi bắt đầu có tác dụng theo cách của nó trên Amenhotep trước, rồi sau mới đến Bastet, chúa tể Danu Talis đã lui bước, trao quyền lực cho con trai, Aten. Bastet rất điên tiết: mụ đã trải qua nhiều thập kỉ vận động hậu trường để người con trai khác của mụ, đứa con mụ sủng ái, Anubis, được trị vì đế quốc đảo. Mụ ta có thể kiểm soát đứa con này, chứ không thể kiểm soát được Aten.

“Còn thừa chút tiền lẻ nào không, cô?”

Mờ mờ trong làn khí ẩm, hai người đàn ông ló ra khỏi màn đêm, một gầy gò thiếu tự nhiên, vết xăm hình mạng nhện vắt ngang qua tai, một cao lớn hơn, dáng ngực nở eo thắt của vận động viên thể hình. Có thể thấy họ đang ngồi uể oải trên một bức tường nơi góc đường Lombard và Hyde. Khi tới gần, bà để ý thấy gương mặt của người đàn ông to cao bầm tím và bị nhiều vết cào xước.

“Đâu phải là một đêm thích hợp để đi bộ thể dục,” người gầy nói.

“Sương thế này không khỏe đâu,” người cao lớn bật cười.

“Có thể bị trượt. Có thể bị ngã. Có thể làm đau mình đấy.” Người gầy nhấn mạnh từ làm đau.

Bàn tay Tsagaglalal nắm chặt thanh kopesh, nhưng bà có thể ngửi thấy mấy tên này là người thật. Bà cứ bước đi và nhìn thấy trong ánh mắt thô bỉ của người đàn ông to cao có gì đó lóe lên thảng thốt. “Ồ không, đừng một lần nữa chứ,” anh ta thều thào.

Bờ vai phải của bà đụng vào giữa ngực người đàn ông gầy gò. Nghe kêu rắc một tiếng khi anh ta bay vèo tuốt bên kia con dốc nghiêng nghiêng của đường Lombard. Anh ta kêu oai oái, bắt đầu lăn xuống con đường quanh co nhất thế giới. Cẳng chân phải của bà đá vào người đàn ông to cao vừa lúc anh ta bò toài tránh né. Xương hông giật nảy, anh ta ngã giộng xuống đất đủ mạnh để bị gãy thêm cái gì đó nữa.

Tsagaglalal cứ bước đi, không dành cho bọn họ đến một giây suy nghĩ.

Aten không phải là không có thiếu sót. Bà đã gặp ông ta khi ông đến thăm Abraham. Chúa tể Danu Talis cao ngạo vì thế rất nguy hiểm và bốc đồng, nhưng không như nhiều Elder khác, ông ta nhận ra rằng thế giới này đang thay đổi và nếu Danu Talis và quả thật, bản thân các Elder muốn tồn tại, cũng phải thay đổi. Thế giới này thuộc về giống loài mới, đặc biệt là giống người. Aten đã làm việc với Abraham, Prometheus, Huitzilopochtli và Hekate chuẩn bị một tương lai trong đó các Elder và loài người có thể cùng nhau chung sống. Chronos đã cho họ thấy nhiều phiên bản khủng khiếp trong tương lai, nhưng cũng cho họ thấy nhiều điều kì lạ.

Hết sức sinh động Tsagaglalal nhớ lại một khả năng đặc biệt. Trong tuyến thời gian đó, một nền văn minh tiên tiến không thể tin nổi của con người và các Elder đã khám phá ra và sau đó còn vượt xa kiến thức của các Thần Đất. Họ đã biến mất phía bên kia hành tinh và bắt đầu chiếm đóng các thế giới chung quanh họ. Đế chế Danu Talis trải rộng không chỉ một hành tinh này, mà là toàn bộ dải ngân hà. Và tại trung tâm ngân hà khổng lồ đấy, đế chế chính là thành phố hình tròn Danu Talis trên một hành tinh nhỏ bé hai màu xanh lơ và xanh lá nằm nơi bờ rìa dải ngân hà.

“Một thời hoàng kim,” Abraham đã nói, vô thức gõ gõ lên lớp da lúc đó đã bắt đầu xâu dệt thành lớp vàng cứng.

“Buồn chưa, nó sẽ chẳng bao giờ đến để rồi qua đi,” Chronos nói lùng bùng trong miệng. “Đây đơn giản là bóng dáng của những gì có thể đến.”

“Mà tại sao lại không?” Abraham hỏi.

“Bởi vì Bastet và những kẻ như mụ ta, những người sống trong vùng quá khứ đen tối, sẽ không cho phép. Bọn họ tin rằng bằng việc ban khả năng cho loài người, họ sẽ trở nên yếu đi.”

“Các Elder Đen tối,” Abraham lẩm bẩm.

Đây là lần đầu tiên Tsagaglalal nghe được thuật ngữ ấy.

Một chiếc bóng di chuyển ra khỏi công viên bên trái bà và băng qua đường. Cái bóng rập rờn và rũ xuống, từng giọt nước chiếu mờ mờ trên lớp lông thú màu đen dơ bẩn và những cái đuôi rắn dài thượt. Miệng Tsagaglalal xoắn vặn kinh tởm. Bà không có cảm nhận cách này hay cách khác về chuột, nhưng mấy thứ này rõ ràng nằm dưới sự kiểm soát của một Elder Đen tối. Bà lội vào giữa đám đông nhung nhúc kia, bất thình lình chúng tụ lại quanh bà, bò lên bàn chân bà, cố trườn lên tới cẳng chân, nhưng có thể thấy là không bám lên bộ giáp của bà được. Những hàm răng nghiến ken két trên phần giáp che ống chân như những chiếc móng tay cào trên bảng đen.

Luồng điện của Tsagaglalal lóe lên, một màu trắng sáng lóa. Nó đập từng nhịp quanh người bà thành những đường tròn đồng tâm và lũ chuột biến thành những xỉ than đen và đỏ, theo đường trôn ốc xoáy lên trên chìm vào đám sương mù. Thình lình một sức mạnh đến bất chợt cũng phá bỏ được câu thần chú kiểm soát, và lũ sâu mọt sống sót kêu ré lên biến mất vào cống rãnh.

Không ngơi sải bước, Tsagaglalal quay sang phải và tiếp tục xuống phố, hướng về phía làn nước.

Danu Talis hẳn đã có thể tiếp tục thời hoàng kim của nó, nhưng sự tham lam của Bastet đã áp đảo chế ngự mọi lương tri. Và vào một buổi chiều tối khủng khiếp, Anubis và một đạo quân anpu đã thực hiện một cuộc nổi dậy và bỏ tù Aten. Chúa tể Danu Talis bị buộc tội âm mưu phá hoại đế quốc đảo.

Tsagaglalal bất chợt dừng lại giữa Jefferson và ngoái đầu lui. Có mùi hôi mới trong không khí. Một thứ cổ xưa, đáng kinh hoảng trôi dạt trên phía vai trái của bà. Bà quay đầu lại: nó đang ra khỏi cầu Cổng Vàng. Bà ngửi thấy mùi men cháy khét, đất mục và máu, cùng với mùi hôi thối không lầm lẫn đâu được của một con Rồng.

“Spartoi,” bà nói, từ ngữ đó làm miệng bà cũng hôi lây.

Bằng bản năng, bà biết đây là lí do vì sao Bastet trở lại.

“Phải làm gì đây ta?” bà nói lớn tiếng.

Nhà Flamel cần bà giúp cầm giữ lũ quỷ sứ trên hòn đảo, nhưng ngay tức thì mối đe dọa trên cây cầu kia còn nguy hiểm hơn. Nếu con Spartoi vào tới thành phố, sẽ có lộn xộn. Trước đây bà đã từng nhìn thấy tác phẩm của chúng rồi. Mỗi sinh vật sẽ giết đến hàng trăm hàng ngàn và những gì chúng không ăn sẽ tròng trành trở lại thành một sinh vật sống giống như thây ma trỗi dậy, với thêm hai mươi bốn tiếng đồng hồ di chuyển lê lết trước khi thân xác chúng rã ra từng mảnh. Các sinh vật khốn khổ này vô hại, nhưng sự xuất hiện của chúng gây bàng hoàng và hết sức khủng khiếp. Tất cả sẽ bị mất hết tinh thần.

Với trái tim đập nặng trịch, Tsagaglalal quay trở lại phía cầu Cổng Vàng. Có thể bà chẳng giúp đỡ gì nhà Flamel được. Lâu nay họ vẫn tự chịu trách nhiệm kia mà.

CHƯƠNG HAI MƯƠI LĂM

“Còn bao nhiêu nữa?” Dee hổn hà hổn hển.

Người bất tử khởi đầu khá tốt, nhưng chỉ cố được vừa đúng năm mươi bậc thì đã phải dừng lại, phổi căng phồng không khí, trái tim đập như búa nện.

Giọng Marethyu vang bật ra khỏi mấy vách đá. “Tổng cộng hai trăm bốn mươi tám từ đáy tới đỉnh. Ông còn khoảng hai trăm nữa.”

“Hai trăm bốn mươi tám. Một trong những con số không chạm tới được. Làm sao tôi không ngạc nhiên chứ?”

“Chúng ta cần phải đi tiếp, Tiến sĩ.”

“Còn tôi cần phải lấy lại hơi thở đã,” Dee hổn hển.

“Chúng ta không có thời gian đâu.”

“Hãy để tôi nghỉ một chút trừ phi là ông muốn tôi tắt thở ở đây, trên mấy bậc thang này.”

“Không, Tiến sĩ, chúng ta sẽ không để ông chết ngay lúc này đâu.” Marethyu chìa bàn tay ra. “Để tôi giúp ông.”

“Tại sao?” Dee tựa người trên những bậc thang bằng pha lê bóng láng, ngước nhìn lên đôi mắt màu xanh lơ của Marethyu. “Nếu ông biết tôi là ai thì ông biết tôi là người thế nào, tôi đã làm những gì. Tại sao ông còn giúp tôi?”

“Bởi vì hết thảy chúng ta đều phải đóng trọn vai của mình trong việc giải cứu thế giới này.”

“Ngay cả tôi ư?”

“Đặc biệt là ông.”

Marethyu dìu Dee lên hai trăm bậc còn lại. Tay bất tử người Anh khoác cánh tay mình qua vai người đàn ông và tựa đầu lên ngực tạo vật ấy. Hắn không nghe thấy có nhịp tim đập, và khi họ trèo càng lúc càng cao hơn, hắn dần ý thức rằng Marethyu không thở dồn dập khi phải gắng sức. Ông ta không thở gì cả.

Sinh vật có đôi mắt xanh lơ cao ráo ấy phóng nhẹ nhàng lên các bậc thang. Ở những chỗ vách trong veo, cho phép Dee thoáng nhận ra một vùng biển xám lốm đốm trắng. Từng đợt sóng khổng lồ vỗ vào bờ biển đá, đóng khung một thị trấn giữa bọt nước và bụi nước. Ngoài khơi, những tảng băng khổng lồ màu xanh lá ngả xanh lơ đâm sầm vào những vách đá không nhìn thấy được. Khi họ trèo, Dee để ý thấy những bậc thang nhất định nào đó rỉ ra thứ mùi kì quặc hoặc lung linh những sắc màu kì lạ khi họ bước qua chúng. Còn những bậc khác rung lên những nốt nhạc hoặc nhiệt độ tăng lên hạ xuống đột ngột.

“Chúng ta đang đi xuyên qua các Vương quốc Bóng Tối hả?” Dee hỏi.

“Rất sắc sảo.”

“Tôi thích thám hiểm nơi này,” Dee thì thầm.

“Không, Tiến sĩ, ông sẽ không thích đâu,” Marethyu nói chắc nịch. “Ngọn tháp này được xây dựng trên đỉnh của mười hai đường tuyến, trong một nơi chí ít cũng có chừng ấy Vương quốc Bóng Tối giao nhau. Một số những bậc thang này mang chúng ta vào và ra khỏi vài thế giới tệ hại nhất từng được tạo ra. Nấn ná quá lâu trên một bậc thang, ông chẳng bao giờ biết được mình sẽ kết thúc ở đâu. Hoặc mình có thể lôi cuốn thứ gì.”

“À, nhưng hãy nghĩ đến cuộc phiêu lưu.”

“Mấy cuộc phiêu lưu không đáng có.”

Dee ngước lên nhìn vào mắt Marethyu. “Và tôi hiểu ông đã có vài cuộc phiêu lưu loại đó?”

“Đúng.”

“Ông bị mất bàn tay ở đâu vậy? Để tôi đoán nhé: một con quỷ phàm ăn nào đó đã cắn nó đứt lìa và rồi Abraham đã chế ra cái móc câu này cho ông.”

“Không, Tiến sĩ. Ông sai quá rồi đấy.” Marethyu phá ra cười, và trong thời điểm ấy giọng ông ta nói nghe rất trẻ. “Hơn nữa, tôi nghĩ nếu Abraham đã làm cho tôi một vật thay thế, chắc hẳn tôi đã nhờ ông ấy làm cái gì đó có hình dáng giống bàn tay hơn một chút, cái gì đó hữu dụng hơn một chút chứ.” Ông rà chiếc móc câu dọc theo vách pha lê và những tia lửa cầu vồng bắn ra như thác đổ khắp trên vách. Miếng kim loại hình bán nguyệt bắt đầu lóe sáng, ửng lên những kí hiệu bí ẩn. “Thoạt đầu tôi ghét nó lắm,” ông thú thật.

“Còn bây giờ?” Dee hỏi.

“Bây giờ nó đã là một phần của tôi. Và tôi là một phần của nó. Cùng nhau chúng tôi sẽ thay đổi thế giới này.”

Marethyu trèo lên bước qua một hình chữ nhật hẹp nằm trên sàn và nhẹ nhàng đặt Dee đã già xuống trong tư thế ngồi trên phần mái phẳng của ngọn tháp pha lê.

“Từ đây chúng ta có thể nhìn thấy thế giới.” Pháp sư Alưaham rời khỏi một ống kính thiên văn hình trụ mập bự, di chuyển thân mình xiên xiên để một bên hông quay sang Marethyu và Dee. “Đến nhìn đi.”

“Cho tôi một lúc, tôi xin ông đấy. Hãy để tôi bình tĩnh lại đã.” Tay tiến sĩ duỗi cẳng chân và tựa lưng lên hai cánh tay tê cứng. Hắn ngước nhìn lên dáng người cao ráo có mái tóc vàng hoe quấn mình trong chiếc áo choàng làm bằng vàng miếng chiếu sáng lờ mờ. “Trọn những năm dài trong đời, tôi luôn tin rằng ông là một huyền thoại,” hắn thều thào. “Tôi không bao giờ hình dung là ông có thật cả.”

“Tiến sĩ, tôi thật thất vọng.” Đầu Abraham cử động như thể ông gật đầu rất nhẹ và bật ra một tràng cười nhỏ xíu. “Ông biết rằng trong lõi của mọi huyền thoại đều có một hạt giống sự thật mà. Ông đã thông đồng với lũ quỷ sứ cả đời mình đấy thôi. Ông đã kết giao với các sinh vật được tôn sùng như những vị thần, và đã chiến đấu bên cạnh những bóng ma kinh dị. Vậy mà ông lại xem tôi như một huyền thoại!”

“Mọi người ai cũng thích tin vào một hai huyền thoại hết.” Dee đưa tay lên. Marethyu đỡ hắn đứng dậy.

Họ đang đứng trên một bệ phẳng hình tròn ở đỉnh ngọn tháp pha lê. Một ngọn gió rét buốt quất ngang mặt bệ, mang đầy muối và bụi nước biển, điểm những mảnh nước đá nhỏ châm lích chích.

“Thật vinh hạnh khi được gặp ông.” Dee bước tới, chìa bàn tay ra, nhưng Marethyu nhẹ nhàng gạt xuống và nhẹ lắc đầu với hắn.

“Pháp sư sẽ không bắt tay ông đâu, Tiến sĩ.”

Abraham bước lùi khỏi thấu kính thiên văn. “Đến nhìn đi.”

Công cụ ấy được làm bằng vật liệu gì trông như toàn bằng pha lê có màu kem. Bề mặt được khía. Từng dải bạc quấn quanh ống, và khi Dee săm soi nhìn vào kính mắt, hắn phát hiện ra nó sáng và lỏng, như thủy ngân vậy.

“Marethyu trở về từ một trong những chuyến du hành của mình, mang theo thứ này,” Abraham nói. Giọng ông nặng nhọc, mỗi từ là một nỗ lực. “Ông ấy không kể cho tôi nghe mình tìm thấy ở đâu, nhưng tôi ngờ nó thuộc về Quan chấp chính hơn là Thần Đất. Các đồ tạo tác của Thần Đất có khuynh hướng gần như cục mịch trong thiết kế. Cái này có nét thanh tú nhất định.”

“Tôi không thể nhìn thấy gì,” Dee nói. “Có cần phải chỉnh tiêu cự không?”

“Hãy nghĩ đến một người,” Abraham nói. “Một người ông biết rõ. Tôi sẽ nói người mà ông quan tâm, nhưng tôi nhận ra rằng trong trường hợp của ông thì có lẽ khó đấy.”

Dee nhìn vào mặt kính.

... Sophie và Josh đang ngồi nơi một cái bàn tròn thức ăn chất cao nghều. Isis và Osiris ngồi đối diện.

Hắn rút mạnh đầu về, rồi hạ thấp xuống kính mắt lần nữa.

... Virginia Dare, mặc áo choàng trắng lùng thùng, đội nón rơm, đi qua đường phố đông đúc những người nhỏ thó, da sẫm màu. Bọn anpu mắt đỏ, giáp đen theo dõi ả từ trong vùng bóng tối.

“Phi thường thật,” Dee vừa nói, vừa ngẩng lên. “Tương tự như kính bói. Nó chỉ nhìn được những người trong Vương quốc Bóng Tối này thôi hả?”

“Nếu mặt kính được cho ăn bằng máu và cơn đau, nó sẽ cho thấy nhiều thời gian khác, nhiều không gian khác,” Abraham thì thầm. “Tôi không cho nó ăn.”

“Nhưng ông thì có.” Dee xoay người nhìn Marethyu.

“Đôi khi,” ông ta thừa nhận. Một vẻ buồn bã, mất mát hiện lên đằng sau ánh nhìn của ông ta. “Có những người nhất định tôi muốn để mắt đến.”

“Chắc tôi thích một thứ như thế này. Tôi có thể nghĩ đến hàng ngàn công dụng của nó.”

Marethyu lắc đầu. “Hẳn nó sẽ tiêu diệt ông mất, Tiến sĩ.”

“Tôi nghi ngờ điều đó.”

“Thỉnh thoảng, khi nhìn vào mặt kính, ông thấy có gì đó đang nhìn lại ông. Một thứ gì đó đói ngấu.”

Dee rùng mình. “Như ông đã nói, trước đây tôi từng thấy thấy bọn quỷ sứ. Và không nhiều thứ chúng có thể làm cho ông từ phía bên kia của một mặt kính.”

“Chúng không phải lúc nào cũng ở phía bên kia mặt kính đâu,” Abraham nói. “Đôi khi chúng đi xuyên qua.” Pháp sư quay lại, cho người bất tử nhìn thấy cả người mình. Bên trái của khuôn mặt ông từ trán tới cằm và từ mũi tới tai là một chiếc mặt nạ bằng vàng ròng. Chỉ có con mắt còn nguyên, tuy nhiên tròng trắng đã chuyển thành màu vàng nghệ nhàn nhạt với những đường chỉ vàng xoắn vặn khắp phần mống mắt xam xám. Hàm răng trên và dưới phía bên trái gương mặt là vàng ròng, bàn tay trái ông được ủ trong một vật trông như chiếc găng tay vàng.

“Quá trình Biến đổi,” Dee thều thào.

“Tôi rất cảm kích. Ít người ở vào thời của ông biết được điều đó.”

“Tôi đâu phải là người thường.”

“Tôi thấy là ông vẫn cao ngạo như bao giờ, Tiến sĩ ạ.” Abraham quay trở lại với thấu kính thiên văn, áp con mắt còn lại lên vùng kính mắt.

Đột nhiên Dee bắt gặp mình đang tự hỏi không biết Abraham đang nhìn ai.

“Sớm hay muộn gì Quá trình Biến đổi cũng làm suy đồi hết thảy chúng ta. Một số như bà bạn Bastet của ông bị nó làm cho thành quỷ sứ.”

“Mỗi Quá trình Biến đổi đều là độc nhất à?”

“Đúng, riêng biệt đối với từng tính cách. Quá trình Biến đổi có thể giống nhau, nhưng không có hai kết quả giống hệt nhau.”

Dee khập khiễng đi qua đứng bên cạnh Abraham, săm soi nhìn vào cánh tay ông ta. “Tôi có thể không?” hắn hỏi.

Đầu Pháp sư cử động rất nhẹ.

Dee ấn ngón tay trỏ của mình lên vai Abraham và đẩy. Rất cứng. Sau đó hắn lấy đốt ngón tay gõ nhẹ lên đó. Tiếng kêu nghe thùm thụp đùng đục.

“Luồng điện của tôi đông cứng lại trên da tôi đấy.”

“Tôi đã nhìn thấy một trường hợp tương tự trong một căn hầm bên dưới Paris.”

“Zephaniah lấy ý tưởng từ Quá trình Biến đổi của tôi dùng để phạt Mars.”

“Và quá trình này không quay ngược lại chứ?”

“Không. Nhiều thế hệ Elder Vĩ đại và Elder đã thử đảo ngược quá trình này. Thỉnh thoảng có những thành công nho nhỏ, nhưng không có gì bền cả.” Abraham bước khỏi ống kính, từ từ quay người đối diện với Dee. “Tôi sẽ làm gì với ông, hả Tiến sĩ? Tôi đã quan sát thế giới con người suốt nhiều thế hệ, từng nhìn thấy các anh hùng cũng như kẻ côn đồ hung ác, đã nghiên cứu nhiều gia đình và cá thể, theo dõi các dòng giống suốt nhiều thế kỉ vô tận. Tôi hiểu loài người, biết điều gì đưa đẩy họ, cái gì thôi thúc họ, biết tại sao họ yêu và sợ, biết họ yêu thế nào và sợ ra sao. Vậy mà có ông. Ông là một bí mật.”

Dee liếc nhanh sang Marethyu. “Thế là tốt hay xấu?”

Abraham đi tới rìa ngọn tháp, đưa mắt nhìn ra thành phố xa xa. “Ông không biết tôi đã suýt tận diệt ông thế nào đâu,” ông ta nói tiếp. “Chronos đề nghị phái Marethyu đi ngược thời gian, giết chết hậu duệ xa nhất của ông để chúng tôi có thể xóa sạch toàn bộ dòng dõi ông đấy.”

“Tôi mừng là các ông đã không làm thế,” Dee lẩm bẩm, gật đầu với Marethyu.

“Đừng cám ơn tôi. Chính tôi đã muốn thực hiện việc ấy.”

Có tiếng chân trên cầu thang, Dee quay lại khi một thiếu nữ xinh đẹp mắt màu xám bước lên bệ. Cô gái không quan tâm đến Dee, mỉm cười với Marethyu rồi khoác một chiếc áo choàng có mũ trùm lên vai Abraham. Bà liếc sang Dee. “Tôi cũng muốn thế.”

“Đây là Tsagaglalal, vợ tôi.”

Dee nhẹ cúi chào, “Rất vinh hạnh.”

“Đừng thế,” bà gắt gỏng. “Tôi muốn đẩy ông rơi khỏi bệ này với niềm vui thích cực độ.” Bà đẩy nhẹ chồng xa khỏi rìa bệ, sau đó bước vòng đứng trước mặt ông để ông có thể nhìn vào bà. “Thời đã đến gần.”

“Tôi biết mà. Hãy xuống đi. Chuẩn bị sẵn. Tôi gần như đã xong với ông tiến sĩ rồi.”

Tsagaglalal lướt ngang qua Dee và biến mất bên dưới.

“Bà ấy căm ghét ông suốt nhiều thiên niên kỉ nay.” Abraham xòe tay. “Đưa tôi cuốn sách của tôi, Tiến sĩ.”

Dee chần chừ.

Phần mặt bên phải của Abraham cử động thành một nụ cười trông phát khiếp. “Một người rất xuẩn ngốc sẽ nghĩ đến một việc làm xuẩn ngốc ngay lúc này. Hoặc tệ hại hơn là cố thương lượng.”

Tay tiến sĩ lần xuống dưới áo sơ mi. Một túi da thuộc mềm mại cột trên sợi dây quàng nơi cổ hắn. Hắn giật mạnh, sợi dây bật sút ra.

“Josh đang mang những trang thằng bé đã xé ra khỏi cuốn sách này cũng theo một cách tương tự.” Marethyu nói.

“Tôi biết. Tôi vừa khám phá ra là thế. Tôi không thể tin thằng bé lúc nào cũng giữ chúng. Chúng ở quá gần, nếu thằng bé đưa chúng cho tôi, thì mọi chuyện hẳn đã rất khác rồi.” Dee thở dài.

“Đời ông là một chuỗi những thất vọng,” Marethyu nói.

“Ông đang châm biếm đấy à?” Dee hỏi.

“Đúng.”

“Tôi đã góp phần mình trong chuỗi thất vọng ấy,” tay Pháp sư thừa nhận. Thò tay vào túi, hắn kéo ra một cuốn sách nhỏ bìa kim loại. “Tôi đã mất cả đời mình để truy lùng cuốn sách này. Qua biết bao thế kỉ, tôi đã tiến gần đến việc nắm giữ được nó. Nhưng từ giây phút mà sau bao thăng trầm cuối cùng tôi được cầm nó trong tay, thì mọi việc lại thay đổi. Lẽ ra đó đã là chiến thắng vĩ đại nhất đời tôi.” Hắn nhè nhẹ lắc đầu. “Thay vì như thế, mọi thứ lại bắt đầu hỏng bét cả.”

Marethyu bước tới, cầm cuốn sách khỏi tay ông lão. Tựa cuốn sách trên chiếc móc câu của mình, ông mở bìa sách ra. Ngay lập tức, ngọn lửa màu trắng ngả vàng lóe lên khắp chiếc móc câu, từng dòng nước kêu xì xì nhỏ xuống mặt đá, một cơn mưa những tia lửa bắn ra như pháo hoa. “Sách thật,” ông ta thông báo.

Bằn nỗ lực gần như đau đớn, Abraham giơ bàn tay vàng của mình lên, thả xuống vai Dee. “Tiến sĩ, ông có bao giờ ngừng thắc mắc tại sao ông không bao giờ bắt kịp nhà Flamel, tại sao họ luôn trốn thoát ngay trước khi ông đến tìm họ không?”

“Tất nhiên là có. Tôi luôn nghĩ bọn họ thật may mắn...” hắn nói tới đó, rồi lắc đầu. “Không ai có thể may mắn lâu như thế, đúng không nào?”

Marethyu gấp cuốn sách nghe một tiếng tách. Ngọn lửa tắt ngấm trên chiếc móc câu. “Tất nhiên là ông không bao giờ có ý định tìm nhà Flamel và cuốn sách, cho tới tuần vừa rồi, khi ông nhận được một cuộc gọi báo cho ông biết địa chỉ tiệm sách ấy ở San Francisco.”

“Và đó là ông sao?” Dee thều thào, nhìn từ Marethyu sang Abraham. “Tôi tưởng mình đang làm việc cho Isis và Osiris chứ.”

Đôi mắt màu xanh lơ của Thần Chết nheo nheo. “Đúng là thế, nhưng đôi khi ông và cả họ cũng đang làm việc cho tôi nữa.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx