sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965 - 2000 - Phần 1 - Chương 14 phần 2

Chúng tôi đã giữ lời hứa này. Như một phần của kế hoạch lâu dài để xây dựng lại Singapore và chuyển nhà mới cho mọi người, chúng tôi đã quyết định phân tán và hòa lẫn những người Malay, người Ấn, người Hoa, và tất cả những tộc người khác với nhau và vì thế đã ngăn chặn họ tụ tập lại như người Anh đã từng khuyến khích họ làm vậy. Khi tái định cư, họ sẽ phải bỏ phiếu kín chọn những ngôi nhà cao tầng mới của họ.

Trong lúc đó, để ngăn chặn xảy ra một cuộc xung đột chủng tộc mới, tôi quyết định mở rộng, theo kiểu đường kẻ ô dài, bốn con đường chạy qua khu định cư Geylang Serai Malay, và mở rộng các con đường nhỏ đã có sẵn và thắp sáng các đường cao tốc cùng một lúc. Trong vòng 6 đến 7 năm, một khu nhà ổ chuột lớn đã trở thành chín khu nhà nhỏ. Phần khó khăn nhất là sự tái định cư ban đầu bắt đầu vào tháng 2/1970. Khi chúng tôi thông báo điều này, đã có một nỗi lo sợ trong những cư dân Malay. Những nghị sĩ Malay của chúng tôi đóng một vai trò quyết định trong việc làm trung gian hòa giải giữa các viên chức nhà nước và cư dân. Báo chí và radio đã giúp đỡ công khai hóa món tiền bồi thường của nhà nước và sự lựa chọn chỗ ở được cung cấp. Tờ Utusan Melayu khi đó đã ngừng hoạt động ở Singapore và không thể gieo rắc những nỗi lo sợ vô căn cứ như nó đã từng làm vào năm 1964 qua cuộc tái định cư ở Crawford.

Tòa nhà nhạy cảm nhất về mặt chính trị bị phá hủy là một surau (một nhà thờ Hồi giáo nhỏ) đổ nát. Mỗi nơi thờ cúng, dù tầm thường đến mấy, đều có một ủy ban gồm những người lớn tuổi mộ đạo và các nhà hoạt động bảo quản nhà thờ để nhận thuế thập phân (thuế của dân chúng nộp cho giáo hội, bằng 1/10 số nông sản thu hoạch hàng năm) và đồ quyên góp. Khi thời điểm phá hủy surau đến, họ đã ngồi lì và không chịu rời ngôi nhà. Họ xem những hành động của nhà nước như những hành động chống đạo Hồi. Những nghị sĩ Malay của chúng tôi đã sắp xếp một cuộc gặp gỡ vào tháng 9/1970 tại tòa thị chính của thành phố, nơi có văn phòng của tôi, để ủy ban và những thành viên surau trình bày những kiến nghị của họ với những quan chức cấp cao từ Sở Công trình Công cộng và Bộ Phát triển nhà. Với sự trợ giúp của những nghị sĩ Malay, chúng tôi đã thuyết phục được họ chấp nhận việc phá hủy tòa nhà gỗ cũ, và cam đoan rằng một nhà thờ mới sẽ được xây dựng gần với vị trí hiện tại. Ngày hôm sau, những nghị sĩ Malay và chủ tịch của MUIS, hội đồng quản trị tín đồ Hồi giáo của Singapore, đã nói điều đó với giáo đoàn khoảng 200 người ở surau sau lễ cầu nguyện ngày thứ Sáu. Nghị sĩ Malay của chúng tôi, Rahmat Kenap, một cựu lãnh đạo công đoàn gan dạ, người đã không run sợ trước sự lăng mạ trắng trợn của những nhà lãnh đạo UMNO trong suốt các cuộc xung đột sắc tộc vào năm 1964 gọi ông là một kafir tức là kẻ phản đạo, đã đảm bảo một lần nữa với giáo đoàn lời cam kết của chính phủ về việc xây một nhà thờ mới để thay thế nhà thờ hiện tại. Cuối cùng họ đã đồng ý rời đi. Điều này đã mở đường cho sự phá hủy và tái xây dựng khoảng 20 nhà thờ nhỏ khác trong khu định cư. Chúng tôi đã cung cấp cho họ những vị trí được chọn lựa và đã tìm ra một giải pháp cho việc cấp tiền cho những nhà thờ mới. Tôi đã trao cho MUIS trách nhiệm xây dựng những nhà thờ thay thế và lập một quỹ xây dựng cho họ, quỹ này nhận 1 đôla Singapore mỗi tháng từ mỗi công nhân theo đạo Hồi qua hệ thống CPF của chúng tôi. Điều này đã mang lại niềm tự hào cho những người Malay trong việc xây dựng những nhà thờ với quỹ riêng của họ.

Việc di chuyển những chủ sở hữu nhà ít khó khăn hơn. Họ được nhận khoản bồi thường theo khung giá, tùy theo ngôi nhà đã được xây dựng có phép hay không, cộng với “khoản trợ cấp phiền hà” khoảng 350 đôla Singapore mỗi gia đình. Vào thời gian đó nó nhiều hơn tiền lương một tháng dành cho một người Lao động. Họ được ban quyền ưu tiên trong những khu liên cư mới và sự tự do chọn vị trí của ngôi nhà mới của họ. Bất chấp tất cả những nhượng bộ này, một nhóm khoảng 40 gia đình đã từ chối rời bỏ ngôi nhà của họ cho đến khi chúng tôi đưa họ ra tòa.

Khi cuối cùng những con đường cũng được hoàn thành và được thắp sáng, tôi cảm thấy thanh thản khi lái xe qua khu vực vào một buổi tối, sung sướng về tình hình an ninh và môi trường xã hội được cải thiện một cách rõ ràng. Sau Geylang Serai, việc hòa nhập những khu định cư người Malay khác trở nên dễ dàng hơn.

Mặc dù chúng tôi đã hòa nhập những tộc người bằng cách buộc họ bỏ phiếu kín cho ngôi nhà của họ, nhưng chúng tôi đã phát hiện ra rằng họ đang tái tụ họp lại với nhau. Vì những người sở hữu bán căn hộ của họ và có thể mua những căn hộ khác được bán lại theo ý họ nên họ đã sớm tập trung lại với nhau. Điều này đã buộc chúng tôi phải đặt những giới hạn phần trăm cho tỷ lệ người sinh sống trong cùng khu vực vào năm 1989 (25 % cho người Malay, 13 % cho người Ấn và những tộc người khác theo mức độ tòa nhà), ngoài giới hạn này không gia đình thiểu số nào có thể chuyển đến vùng lân cận.

Hạn mức cao nhất định ngạch đã giới hạn nhóm người mua những căn hộ được bán lại và vì thế cũng làm giảm giá của chúng. Khi một người Malay hoặc người Ấn không được phép bán nhà cho một người Hoa vì hạn ngạch người Hoa đã đủ thì căn hộ phải bán với giá thấp hơn giá trên thị trường vì một số nhỏ những người Malay hoặc người Ấn mua nhà không thể trả mức giá cao hơn mà đa số người Hoa có thể trả. Tuy nhiên, đây chỉ là một tổn thất nhỏ để đạt được mục tiêu lớn hơn của chúng tôi là có được những tộc người sống hòa lẫn với nhau.

Dhanabalan, một người Ấn, với tư cách là Bộ trưởng phụ trách HDB; Jayakumar, một người Ấn khác, Bộ trưởng Tư pháp, và Ahmad Mattar Bộ trưởng Môi trường, một người Malay có dòng dõi Ả Rập, hoàn toàn đồng ý với tôi rằng việc cho phép tập hợp thái quá sẽ đảo ngược những gì mà chúng tôi đã đạt được. Những nghị sĩ người Malay và người Ấn khác cũng chia sẻ quan điểm này. Điều này đã giúp thực thi chính sách này được dễ dàng hơn.

Khi công việc này được hoàn thành vào khoảng những năm 80, tôi quyết định thay đổi luật bầu cử, cho phép các ứng cử viên liên danh chung tranh cử tại hai hay nhiều khu vực bầu cử. Sau khi có nhiều cuộc thảo luận tại nội các, chúng tôi đã đưa vấn đề này ra quốc hội. Ba hoặc bốn khu vực bầu cử đơn được hợp nhất thành những khu vực bầu cử nhóm (GRCs) để ba hoặc bốn ứng cử viên ứng cử như một nhóm hoặc một đội. Nhóm này phải có một ứng cử viên từ một cộng đồng thiểu số, một người Ấn hoặc người Malay. Nếu không có sự sắp đặt này thì với đa số người Hoa ở tất cả các khu bầu cử họ sẽ có thể bầu cho các ứng cử viên người Hoa. Vào những năm 50 và 60, mọi người đã bỏ phiếu cho biểu tượng đảng, bất kể chủng tộc của ứng cử viên. Trong những năm 80, sau khi PAP đã củng cố địa vị như là đảng thống trị và được xem là có khả năng tái cầm quyền thì mọi người bỏ phiếu cho nghị sĩ nhiều hơn là cho đảng. Họ thích một người thông cảm với họ, nói cùng thổ ngữ hoặc ngôn ngữ và cùng chung chủng tộc. Tất cả những ứng cử viên tham gia chiến dịch cũng biết điều này khá rõ. Việc một ứng cử viên người Malay hoặc người Ấn thắng ứng cử viên người Hoa rất khó khăn. Một quốc hội mà không có những nghị sĩ người Malay, người Ấn, và người thiểu số khác thì sẽ khá bất lợi. Chúng tôi phải thay đổi luật lệ. Một lợi thế của GRC là một ứng cử viên người Hoa không thể thực hiện những lời kêu gọi những người Hoa theo chủ nghĩa sô–vanh mà không mất 15 % đến 30 % lá phiếu của những người không phải là người Hoa. Họ cần một người Malay hoặc một người Ấn để có thể giành được số phiếu của người thiểu số cho nhóm ứng cử viên GRC của họ.

Một vấn đề chủng tộc nhạy cảm khác đã làm tôi bận tâm là kết quả học tập về các môn toán học và khoa học của một số lớn sinh viên so với những sinh viên khác vẫn thấp. Tôi quyết định rằng chúng tôi không thể giữ bí mật về những sự khác biệt này trong các kết quả kỳ thi này lâu hơn nữa. Việc làm cho người ta tin rằng những đứa trẻ, không phân biệt chủng tộc, đều ngang sức ngang tài, và các cơ hội bình đẳng sẽ cho phép tất cả được vào đại học, tất yếu sẽ dẫn đến sự bất mãn. Những người ít thành công hơn sẽ tin rằng chính phủ đã đối xử không công bằng với họ. Vào năm 1980, tôi đã thổ lộ chuyện này với những người đứng đầu cộng đồng Malay để giải quyết tình hình kết quả học tập yếu kém của người Malay một cách công khai và tế nhị. Tôi đã đưa cho những nhà lãnh đạo, có cả những biên tập viên báo chí, những kết quả kì thi trong vòng 10 đến 15 năm trước và nhấn mạnh sự thật rằng sự chênh lệch về kết quả học tập này đã tồn tại ở Singapore từ thời còn là thuộc địa Anh trước chiến tranh. Nó không phải là một điều gì mới.

Sau khi những nhà lãnh đạo cộng đồng và các nhà lãnh đạo những phương tiện truyền thông đã vượt qua cú sốc ban đầu, chúng tôi mời họ đến để tìm ra những giải pháp với sự hỗ trợ đầy đủ của chính phủ. Tôi cho họ biết kết quả nghiên cứu cho thấy có một sự tiến bộ từ 15 % đến 20 % khi phụ huynh và những sinh viên được thúc đẩy để thực hiện những nỗ lực đặc biệt. Phản ứng của họ khá tích cực. Vào năm 1982, những nhà lãnh đạo người Malay với sự đảm bảo hỗ trợ của chính phủ đã thành lập Mendaki (Hội đồng giáo dục cho trẻ em Hồi giáo), với các đại diện từ các ban xã hội, văn học, và văn hóa Malay và các nghị sĩ người Malay trong PAP. Chúng tôi đã cung cấp cơ sở vật chất cho họ. Giống với quỹ xây dựng nhà thờ, để cấp vốn cho Mendaki, chúng tôi đã trừ 50 xu từ mức đóng góp CPF hàng tháng của mỗi người Malay. Với nguồn thu nhập tăng, mức đóng góp tăng lên dần dần đến 2,50 đôla Singapore. Chính phủ đã tích lũy nó bằng từng đồng đôla.

Lúc nào tôi cũng hội ý với các đồng sự người Malay, Othman Wok và Rahim Ishak, trước khi quyết định những chính sách có ảnh hưởng đến người Malay. Cả hai người đều có cái nhìn rất thiết thực. Tôi còn trao đổi với Yaacob Mohamed những vấn đề có liên quan đến Hồi giáo. Ông từng là nhà thuyết giáo ở Kelantan và rất được kính trọng như một người có nhiều hiểu biết về tôn giáo. Ahmad Mattar là người theo thuyết duy thực và chấp nhận nó là cách tốt nhất để đạt mục đích.

Không phải tất cả các bộ trưởng có kinh nghiệm của tôi đều ủng hộ giải pháp hướng về các nhóm tự–tiến–bộ dựa trên cộng đồng này. Raja là người phản đối nó mạnh mẽ nhất. Ông là người theo chủ nghĩa đa chủng tộc triệt để và xem kế hoạch của tôi không phải là sự chấp nhận thực tế mà là sự sa ngã. Ông không muốn dùng đến mối quan hệ chủng tộc tự nhiên để chìa tay cho các bậc cha mẹ, những người có thể là động lực thúc đẩy tốt nhất đối với con cái họ. Ông sợ cái nguy cơ của những sức hút cộng đồng mạnh mẽ này.

Trong khi tôi chia sẻ quan niệm của Raja về một chính sách hoàn toàn phi chủng tộc, tôi cũng đang phải đối đầu với thực tiễn và phải tìm ra đáp số. Từ thực tế, tôi biết rằng các viên chức người Hoa và người Ấn không thể giúp đỡ cho các bậc phụ huynh và sinh viên người Malay theo cái cách mà những người lãnh đạo cộng đồng Malay của họ đã làm. Sự kính trọng họ nhận được và sự quan tâm chân thành của họ đối với quyền lợi của những người kém may mắn thuyết phục được các bậc cha mẹ và bọn trẻ gia tăng nỗ lực. Còn các viên chức ăn lương thì không bao giờ có được sự quan tâm, yêu thương như thế dành cho cha mẹ và con cái người Malay. Những nhà lãnh đạo cộng đồng người Hoa không thể giúp đỡ cho phụ huynh và trẻ em người Malay. Với những vấn đề thuộc về tình cảm cá nhân có liên quan đến lòng tự hào chủng tộc như thế, thì chỉ có những nhà lãnh đạo của các tộc người có thể giúp đỡ cho cha mẹ và con cái trong cộng đồng của họ.

Một vài năm sau khi Mendaki đi vào nề nếp, những nỗ lực của các lãnh đạo cộng đồng Malay cộng với việc dạy thêm vào buổi tối đã làm tăng đều đặn con số học sinh Malay đậu kỳ thi với sự tiến bộ nổi bật trong môn toán. Năm 1991, một nhóm sinh viên Hồi giáo trẻ tốt nghiệp đã thành lập Hiệp hội các nhà chuyên nghiệp Hồi giáo (AMP). Mục tiêu của họ cũng tương tự như Mendaki nhưng họ muốn làm việc độc lập với chính phủ. Thủ tướng Goh Chok Tong khuyến khích họ bằng cách hỗ trợ tài chính. Với sự giúp đỡ của nhiều nhà lãnh đạo cộng đồng, các thanh niên Hồi giáo đạt kết quả học tập thấp đã tiến bộ đáng kể.

Sinh viên Malay đạt điểm cao hơn điểm chuẩn trung bình quốc tế trong cuộc thi nghiên cứu khoa học và toán học Quốc tế lần thứ ba năm 1995. Trong tổng số học sinh Malay năm 1987, chỉ 1 % chọn các trường bách nghệ và đại học. Đến năm 1999, con số này tăng gấp bốn lần, đạt đến 28 % trong khi tỷ lệ quốc gia chỉ tăng gấp đôi. Năm 1966, một cô gái Malay tốt nghiệp xuất sắc tiếng Anh ở Berkeley, California. Năm 1999, một sinh viên Malay đứng đầu lớp cao học kiến trúc ở NUS và giành huy chương vàng. Một sinh viên khác giành được một suất học bổng của chính phủ để học trường Cambridge, tại đó anh ta đạt giải nhất môn lý và tiếp tục lấy bằng tiến sĩ năm 1999. Và một người Malay được làm chủ tịch hiệp hội sinh viên NTU năm 1998–1999. Hiện nay, chúng có một tầng lớp trung lưu đang lớn mạnh người Malay gồm các giám đốc quản lý MNC, chuyên viên tư vấn IT, buôn bán ngoại hối, quản lý ngân hàng, kỹ sư, luật sư, bác sĩ, và nhà kinh doanh trong các ngành du lịch, ăn uống, thầu khoán, sản xuất vật dụng và may mặc.

Những tiến bộ của Mendaki đã khuyến khích cộng đồng người Ấn thành lập Hiệp hội phát triển của người Ấn tại Singapore (SINDA) vào năm 1991. Năm sau, người Hoa cũng thành lập Hội đồng hỗ trợ phát triển của người Hoa (CDAC) nhằm giúp những học sinh yếu chiếm tỷ lệ thấp hơn so với tỷ lệ số học sinh yếu người Malay nhưng tổng số lại nhiều hơn. Hiệp hội những người lai Âu–Á cũng đã sớm thực hiện như thế.

THƯỢNG TÔN PHÁP LUẬT

Pháp luật và trật tự tạo nền tảng cho sự ổn định và phát triển. Được đào tạo trong trường luật, tôi đã hấp thụ nguyên tắc: mọi người đều bình đẳng trước pháp luật thì xã hội mới vận hành đúng. Tuy nhiên, kinh nghiệm sống của tôi ở Singapore trong thời gian Nhật chiếm đóng, và sau đó là thời kỳ hỗn loạn khi chính quyền quân sự Anh cố gắng tái lập luật lệ, đã làm cho tôi có cái nhìn thực tế, không phụ thuộc vào ý thức hệ, đối với các vấn đề tội phạm và sự trừng phạt.

Sau khi trở thành luật sư Singapore năm 1951, phiên tòa đầu tiên của tôi là bào chữa cho bốn người bị buộc tội giết một trung sĩ RAF trong cuộc bạo loạn chống lại người da trắng vào tháng 12/1950 của một nhóm Hồi giáo có tên gọi là “cô gái rừng xanh”. Tôi đã giúp họ được trắng án, nhưng sự việc đó để lại trong tôi mối nghi ngờ to lớn về giá trị thực tế của hệ thống bồi thẩm Singapore. Bảy thành viên, quyết định theo phán quyết của đa số, dễ dàng tuyên những án tha bổng. Hệ thống bồi thẩm này đã được thử nghiệm tại Ấn, song thất bại và bị bãi bỏ. Không lâu sau khi tôi trở thành Thủ tướng năm 1959, tôi ra lệnh bãi bỏ ban bồi thẩm trong tất cả mọi phiên tòa ngoại trừ tội phạm giết người. Tôi giữ lại ngoại lệ này để cho phù hợp với luật ở Malay vào thời gian đó. Năm 1969, sau cuộc chia tách khỏi Malaysia, tôi yêu cầu Eddie Barker, Bộ trưởng Tư pháp, đệ trình lên nghị viện dự luật bãi bỏ ban bồi thẩm trong các phiên tòa xử tội giết người. Trong suốt cuộc họp của ủy ban đặc biệt thuộc nghị viện, David Marshall, luật sư bào chữa cho tội phạm thành công nhất của chúng tôi, xác nhận rằng ông ta đã có 99 vụ tha bổng trong số 100 vụ mà ông nhận bào chữa cho tội phạm giết người. Khi tôi hỏi liệu ông có thực sự tin 99 người được tha bổng kia là vô tội thì Marshall đáp rằng nhiệm vụ của ông ta là bào chữa chứ không phải phán xử họ.

Một phóng viên phụ trách chuyên mục tòa án của tờ Straits Times từng dự nhiều phiên tòa bồi thẩm, đã đưa bằng chứng cho hội đồng đặc biệt rằng chính niềm tin dị đoan và sự miễn cưỡng nhận trách nhiệm thực hiện những hình phạt nặng, đặc biệt là đối với án tử hình, đã làm cho các bồi thẩm người châu Á rất khó khăn trong việc kết tội. Họ thích tuyên trắng án hoặc buộc tội với mức án nhẹ hơn. Người phóng viên nói rằng anh ta có thể đoán trước mỗi khi một phụ nữ đang mang thai là thành viên bồi thẩm, thì sẽ không có sự kết án tử hình nào đối với tội phạm giết người, vì nếu không, đứa con cô ta sinh ra sẽ gặp tai họa. Sau khi dự luật được thông qua và việc xét xử có bồi thẩm đoàn bị bãi bỏ, ít phát sinh các vụ án xử sai hơn do tình cảm thất thường của các bồi thẩm.

Sau khi đã chứng kiến những hành vi cướp bóc và sự tàn nhẫn của con người trong thời kỳ Nhật chiếm đóng, tôi không chấp nhận học thuyết cho rằng tội phạm là nạn nhân của xã hội. Sự trừng phạt lúc đó nghiêm khắc đến nỗi thậm chí vào thời kỳ 1944–1945, khi nhiều người không có đủ miếng ăn, vẫn không xảy ra trộm và người dân có thể để cửa trước không khóa, cả ngày lẫn đêm. Sự ngăn chặn đã có hiệu quả. Người Anh từng sử dụng hình phạt đánh bằng roi da hay bằng roi mây ở Singapore. Sau chiến tranh, họ bãi bỏ sự tra tấn đánh đập nhưng vẫn giữ lại hình phạt đánh bằng roi mây. Chúng tôi thấy hình phạt bằng roi mây kia còn hiệu quả hơn hình phạt nhốt tù dài hạn trong việc trấn áp các tội phạm có liên quan đến ma túy, buôn bán vũ khí, cưỡng hiếp, nhập cư bất hợp pháp vào Singapore và phá hoại tài sản công cộng.

Năm 1993, một học sinh mười lăm tuổi người Mỹ, Michael Fay, cùng với những người bạn, trong cuộc vui chơi đã phá hỏng các bảng hiệu giao thông và phun sơn lên hơn 20 chiếc xe hơi. Khi ra tòa, cậu nhận tội và luật sư của cậu cầu xin sự khoan hồng. Tòa tuyên phạt đánh sáu roi va 4 tháng tù. Giới truyền thông Mỹ bất bình trước cảnh tượng một cậu bé người Mỹ bị những người châu Á nhẫn tâm ở Singapore đánh roi vào mông. Họ phản đối mạnh mẽ đến nỗi Tổng thống Clinton thỉnh cầu Tổng thống Ong Teng Cheong ân xá cho cậu bé. Singapore bị đặt vào một tình thế khó xử. Nếu chúng tôi không phạt roi cậu bé này vì cậu ta là người Mỹ thì làm sao chúng tôi có thể phạt roi những người phạm tội là dân bản xứ?

Sau cuộc thảo luận trong nội các, thủ tướng đề nghị Tổng thống Ong giảm nhẹ hình phạt xuống còn bốn roi.

Giới truyền thông Mỹ vẫn chưa bằng lòng. Tuy nhiên, không phải tất cả người Mỹ đều không đồng tình với hình phạt của Singapore dành cho tội phá hoại công trình văn hóa. Không lâu, sau khi câu chuyện Michael Fay trở nên nổi tiếng, tại New Hampshire, khi đang lái xe, con gái của tôi bị chặn lại vì đã không dừng khi xe của một cảnh sát lóe ánh đèn xanh lưu ý con bé về tốc độ. Trên đường về bót cảnh sát, con bé đáp lại câu hỏi của viên cảnh sát rằng nó đến từ Singapore và nghĩ rằng anh ta phản đối đất nước nó về trường hợp của Fay. Nhưng viên cảnh sát trả lời rằng cậu bé đáng bị phạt roi và đưa con tôi trở lại xe và chúc nó may mắn.

Fay bị phạt bốn roi và trở về Mỹ. Vài tháng sau, báo chí Mỹ đưa tin một đêm cậu về nhà muộn trong tình trạng say rượu và hằn học với cha cậu, đánh ông ngã. Một tháng sau, cậu bị bỏng nặng do hít chất butan khi một người bạn châm que diêm. Cậu thú nhận cậu nghiện chất butan khi còn ở Singapore.

Những biện pháp này góp phần vào việc duy trì luật pháp và trật tự ở Singapore. Bản tin về cạnh tranh toàn cầu tại diễn đàn kinh tế thế giới năm 1997 đã xếp Singapore đứng thứ nhất, như một quốc gia nơi mà “việc kinh doanh không phải chịu những khoản phí nặng nề cho bọn tội phạm có tổ chức”. Viện đào tạo quản lý quốc tế trong niên giám cạnh tranh thế giới 1997 cũng xếp Singapore đứng thứ nhất về an ninh, “nơi mà người dân thực sự tin tưởng rằng tính mạng và tài sản của họ được bảo vệ”.

TỪNG BƯỚC NHỎ TIẾN TỚI IT (CÔNG NGHỆ THÔNG TIN)

Cuộc cách mạng kỹ thuật số đang thay đổi lối sống và cách làm việc của chúng tôi. Mạng internet và thành quả nhiều mặt của nó đòi hỏi tất cả những ai muốn có mặt trong dòng chảy của nền kinh tế mới phải là những người hiểu biết về internet – vi tính. Tôi là một người nhiệt tình trong việc sử dụng máy vi tính. Điều đó đã trở thành nhân tố quan trọng trong việc nâng cao năng suất. Năm 1973, khi con trai tôi, Loong, hoàn thành khóa học Mathematics Tripos II ở trường Cambridge, tôi khuyến khích nó tham gia một khóa sau đại học về khoa học điện toán vì tôi nghĩ đó là một công cụ giá trị trong việc tính toán và lưu trữ dữ liệu. Tôi còn đề nghị ủy ban công vụ tổ chức những khóa điện toán sau đại học cho những sinh viên xuất sắc. Một trong số họ, Teo Chee Hean, Bộ trưởng Giáo dục năm 1997, bắt tay thực hiện một chương trình dành cho các giáo viên sử dụng máy vi tính như một công cụ giảng dạy, cứ hai sinh viên dùng một máy.

Năm 1984, tôi quyết định rằng chính phủ sẽ trả lương cho người Lao động thông qua GIRO. Những người làm công việc chân tay và văn phòng thích nhận tiền mặt hơn, nói rằng họ không muốn vợ biết tiền lương của họ. Tôi giải quyết những ý kiến phản đối này bằng cách mở tài khoản cho họ ở ngân hàng tiết kiệm qua bưu điện (POSBank) để họ có thể rút tiền từ máy thu ngân tự động. Biện pháp này không còn cần đến sự hộ tống hai lần trong một tháng của cảnh sát khi vận chuyển tiền mặt vào những ngày trả lương. Khu vực tư nhân cũng tiến hành theo phương pháp này. Sau đó, chúng tôi khuyến khích việc đóng thuế và phí đăng ký kinh doanh bằng GIRO.

Tuy nhiên, khi tôi hướng mũi nhọn vào xu thế mới điện toán hóa và thanh toán chuyển tiền điện tử, bản thân tôi lại không sử dụng được máy tính mặc dù chúng đã trở nên phổ biến. Vào giữa thập niên 90, khi các bộ trưởng trẻ tuổi hơn gởi được e–mail cho nhau, còn tôi thì phải in các e–mail ra và phúc đáp bằng fax.

Bị “loại khỏi vòng đấu”, ở tuổi bảy mươi hai, tôi quyết định học cách sử dụng máy tính. Đối với thế hệ tóc hoa râm, điều đó không dễ dàng chút nào. Phải mất nhiều tháng trước khi tôi có thể làm việc với hệ MS Word và gởi e–mail mà không có sự giúp đỡ của các thư ký. Sau đó, có lúc tôi vẫn còn phạm phải lỗi là để mất một tập tin vào lỗ đen vì kích sai biểu tượng, hoặc là cái máy tính sẽ kết tội tôi là “thực hiện một thao tác không hợp lệ” và dọa “không làm việc nữa”. Ở văn phòng, các thư ký sẽ giúp tôi. Còn ở nhà, tôi sẽ gọi cho Loong. Sau khi lắng nghe câu chuyện phiền muộn của tôi, Loong sẽ chỉ cho tôi từng bước một qua điện thoại để phục hồi cái công trình vất vả hàng giờ đồng hồ của tôi đã bị biến mất. Nếu như vẫn thất bại, Loong sẽ đến vào ngày Chủ nhật để tìm trong ổ đĩa C của tôi cái tập tin đã mất hoặc để giải quyết những vấn đề huyền bí khác. Phải mất hơn một năm tôi mới yên tâm và thoải mái với cái máy tính của mình. Một lợi ích của nó là tôi có thể dễ dàng bổ sung và sắp xếp lại câu cũng như toàn bộ một đoạn văn trên màn hình khi viết quyển sách này. Bây giờ, đi đâu tôi cũng đem theo cái máy tính xách tay để truy cập e–mail.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx