sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965 - 2000 - Phần 2 - Chương 38 phần 2

Một kỷ niệm buồn mà tôi còn nhớ về quảng trường Thiên An Môn đầy người hôm đó là hình ảnh của Triệu Tử Dương chen giữa đám người biểu tình quấn khẩu hiệu trên đầu, với chiếc loa phóng thanh, nói gần như khóc, năn nỉ đám sinh viên hãy giải tán vì ông ta không thể bảo vệ họ được nữa. Hôm đó là ngày 19/5. Đã quá trễ. Những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc đã quyết định tuyên bố thiết quân luật và sử dụng vũ lực nếu cần thiết để giải tán đoàn biểu tình. Trong tình thế đó, sinh viên hoặc là phải tự giải tán hoặc bị dẹp tan bằng vũ lực. Triệu Tử Dương đã không có được sự cứng rắn cần thiết của người lãnh đạo một nước Trung Quốc đang bên bờ vực của sự hỗn loạn. Người ta đã để cho những người phản đối có trật tự trở thành những kẻ phiến loạn ngoan cố. Nếu xử trí không cương quyết, họ có thể đã gây ra tình trạng hỗn loạn tương tự trên khắp đất nước rộng lớn ấy. Thiên An Môn không phải là quảng trường Trafalgar ở London.

Trung Hoa cộng sản đã áp dụng chính sách “Kẻ vô danh tiểu tốt” của Liên Xô. Cho dù một người lãnh đạo có quyền lực đến đâu, một khi ông ta không tại vị nữa, ông ta sẽ trở thành kẻ vô danh tiểu tốt và sẽ không bao giờ được nhắc đến trước công chúng. Mặc dù tôi rất muốn gặp Triệu Tử Dương trong các chuyến thăm Trung Quốc sau đó, nhưng tôi không thể đưa ra vấn đề này. Vài năm sau sự kiện Thiên An Môn, tôi gặp một trong những người con trai của ông và anh ta đã cho tôi biết sơ về Triệu Tử Dương và gia đình ông ta đã sống ra sao sau khi ông ta bị cách chức. Triệu Tử Dương phải rời khỏi Trung Nam Hải, khu nhà ở của toàn bộ lãnh đạo đảng, và đến ở trong căn nhà mà Hồ Diệu Bang (nguyên Tổng bí thư đảng) ở khi còn là trưởng ban tổ chức của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong vài năm đầu, Triệu Tử Dương có một lính gác ngay lối vào nhà và mọi hoạt động của ông đều bị theo dõi. Sau này, việc giám sát có lơi lỏng, ông có thể chơi gôn tại sân gôn của người Trung Quốc ở ngoại ô Bắc Kinh, chứ không được chơi tại sân gôn liên doanh với nước ngoài. Ông có thể đi thăm các tỉnh trên đất liền nhưng không được đến các tỉnh ven biển, để giảm tối thiểu sự tiếp xúc với người nước ngoài và sự xuất hiện trước công chúng. Các con của Triệu Tử Dương đều sống ở nước ngoài, ngoại trừ cô con gái đang làm việc tại một khách sạn ở Bắc Kinh. Điều kiện sinh hoạt của ông rất tiện nghi. Gia đình ông được quyền thăm ông. So với mức độ đối xử của Liên Xô đối với “những kẻ vô danh tiểu tốt”, thì ông ta được đối xử không tệ. Ông được đối xử tốt hơn cách mà Brezhnev từng đối xử với Krushchev, hoặc Yeltsin đối xử với Gorbachev.

Người bị dư luận trong nước và quốc tế chỉ trích công khai về việc tuyên bố thiết quân luật và dùng vũ lực giải tán đám đông ở Thiên An Môn là Thủ tướng Lý Bằng. Thực tế, người ra quyết định là Đặng và có sự ủng hộ của các cựu chiến binh của cuộc Vạn lý Trường chinh. Lần đầu tiên tôi gặp Lý Bằng ở Bắc Kinh vào tháng 9/1988. Ông ta nhậm chức Thủ tướng từ Triệu Tử Dương, người đã trở thành Tổng bí thư. Lý không thoải mái như Triệu. Là một kỹ sư được đào tạo ở Nga nay đã ở tuổi sáu mươi lăm, ông vẫn có một trí nhớ tốt, và luôn cẩn thận và ngắn gọn trong lời nói. Ông ta không phải loại người dễ tính, xuề xòa có thể vỗ vai được và dễ tự ái mặc dù chẳng có gì đáng giận. Tôi phải điều chỉnh để thích hợp với tính khí của ông ta và chúng tôi trở nên hợp nhau. Sau khi tôi hiểu ông nhiều hơn, tôi thấy ông là người biết điều cho dù có chút bảo thủ.

Ông là con trai của một cán bộ cộng sản và được thủ tướng Chu Ân Lai nhận làm con nuôi. Giọng nói của ông không hề mang chất quê vì ông sống ở nơi mà Đảng Cộng sản Trung Quốc đặt các cơ quan đầu não, cùng với gia đình Chu Ân Lai ở Diên An, và sau này là ở Bắc Kinh. Phu nhân của ông thì cởi mở hơn, một người dễ bắt chuyện với tính cách rất lôi cuốn. Không giống như hầu hết các phu nhân của các vị lãnh đạo Trung Quốc vốn thường khép nép phía sau, bà Lý Bằng thường hay đứng làm chủ tiệc hay chủ trì các cuộc gặp gỡ. Bà nói tiếng Anh với mục đích giao lưu. Choo thấy rất dễ dàng nói chuyện bằng tiếng Anh với bà mà không cần phiên dịch.

Tại các buổi thảo luận chính thức của chúng tôi, Lý Bằng hay hỏi thăm về việc phát triển kinh doanh của Singapore ở Trung Quốc. Tôi nói các nhà đầu tư Singapore gặp nhiều khó khăn. Có quá nhiều người thua lỗ và trở nên nhụt chí. Người ta đồn rằng ở Trung Quốc lắm chuyện rối rắm, vì vậy việc đầu tư chậm lại. Họ không thể hiểu tại sao các quản đốc và cán bộ giám sát người Trung Quốc không thực thi kỷ cương đối với các công nhân Trung Quốc. Các khách sạn do Singapore và Hong Kong sở hữu cần tuyển người Hoa của họ làm giám sát viên để thực thi kỷ luật đối với nhân viên. Ngay cả như thế mà vẫn còn xảy ra rắc rối. Chẳng hạn như những công nhân bị sa thải do mang vật liệu của khách sạn ra ngoài phải được nhận làm việc lại bởi vì các công nhân khác gây rắc rối. Quan hệ lao động phải thay đổi nếu Trung Quốc muốn đi lên. Họ nên cho phép các nhà đầu tư quản lý các doanh nghiệp của riêng mình, bao gồm cả việc thuê mướn và sa thải công nhân.

Ông ta trả lời rằng việc những nhà đầu tư nước ngoài làm ra tiền thì được hoan nghênh, nhưng chính sách của Trung Quốc là đảm bảo rằng họ không được kiếm quá nhiều tiền (Tôi hiểu điều này có nghĩa là cho dù đã được thỏa thuận, nếu theo quan niệm của họ lợi nhuận quá cao thì họ sẽ tìm cách làm cho việc phân chia lợi nhuận công bằng hơn). Các chính sách thuế của Trung Quốc đối với các đặc khu kinh tế tốt hơn so với chính sách của Hong Kong. Song ông ta thừa nhận rằng các nhà đầu tư nước ngoài phải đối mặt với sự kém hiệu quả cũng như lề thói quan liêu nặng nề của chính phủ. Trung Quốc rất khó khăn trong việc giải quyết vấn đề này. Nhiều doanh nghiệp quốc doanh thừa nhân viên và làm ăn thua lỗ. Họ còn phải chăm lo cho các công nhân đã nghỉ hưu. Với thị trường tự do thì hệ thống lương bổng của Trung Quốc trở nên phi lý. Một giáo sư thâm niên ở một trường đại học nổi tiếng nhận khoản lương khoảng 400 nhân dân tệ. Con gái giáo sư, là nhân viên phục vụ ở một công ty nước ngoài cũng nhận một khoản lương tương tự. Không ai có thể nói rằng sự đóng góp của người con gái ngang bằng với người cha. Toàn bộ hệ thống lương bổng sẽ phải được thay đổi, nhưng ông không thể nâng mức lương của vị giáo sư đó lên được vì nguồn kinh phí của chính phủ không đủ. Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu kể từ khi nó khởi xướng chính sách mở cửa với thế giới bên ngoài, ông nói, tuy nhiên, lạm phát đã quá cao và cần phải được kiểm soát bằng cách giảm tỷ lệ đầu tư trong xây dựng. Trung Quốc sẽ không đảo ngược các cuộc cải cách. Ông ta tin rằng họ sẽ vượt qua được những khó khăn.

Khi được yêu cầu đánh giá về tình hình an ninh ở Đông Á, tôi vẽ ra một bức tranh lạc quan về sự phát triển và ổn định, với điều kiện là không có những xáo trộn an ninh. Liên bang Xô Viết đã bị Mỹ và Trung Quốc kiềm chế. Chính sách của Mỹ là hợp tác với Nhật vì nước này có sức mạnh kinh tế nhằm bổ sung thế lực cho nước Mỹ và bảo vệ an ninh cho Nhật. Chừng nào sự thu xếp này còn thắng thế, thì lúc ấy Nhật không cần thiết phải tái vũ trang. Nhật không có năng lực hạt nhân nhưng rất có thể Nhật sẽ làm một mình nếu người Mỹ tỏ ra không đáng tin cậy được nữa. Trong trường hợp đó, mối đe dọa đối với tất cả các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á sẽ gia tăng. Hầu hết các nhà lãnh đạo Nhật Bản thuộc thế hệ già hơn muốn tiếp tục sự cộng tác này với Mỹ, một sự cộng tác đã mang lại cho họ thịnh vượng và cuộc sống tốt đẹp. Có một nguy cơ là thế hệ các nhà lãnh đạo trẻ sau này không hề nếm trải cuộc chiến vừa qua có thể suy nghĩ khác, đặc biệt là nếu họ làm sống lại huyền thoại họ là hậu duệ của Nữ thần Mặt trời.

Lý Bằng nghĩ tôi đánh giá thấp sự nguy hiểm của Nhật Bản. Trung Quốc phải cảnh giác trước sự hồi sinh của giới quân sự Nhật. Mặc dù giới hạn cao nhất mà Nhật tự đặt cho mình là 1 % tổng thu nhập quốc dân, chi phí quân sự của Nhật vẫn nhiều hơn Trung Quốc khoảng 26 – 27 tỷ đôla Mỹ. Một số nhà lãnh đạo Nhật Bản muốn đảo ngược sự phán quyết của lịch sử rằng Nhật đã từng phạm tội xâm lược Trung Quốc, Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương. Ông ta đưa ra hai ví dụ: cách người Nhật viết sách giáo khoa và việc các nhà lãnh đạo hàng đầu của Nhật thăm đền Yasukuni (Đền Yasukuni thờ những người lính đã ngã xuống trong chiến tranh). Sự thành công về mặt kinh tế của Nhật đã tạo điều kiện biến nó trở thành một cường quốc về chính trị và quân sự. Ít ra thì một số nhà lãnh đạo Nhật cũng đang suy nghĩ theo chiều hướng này. Mối lo ngại của ông về khả năng hồi sinh của chủ nghĩa quân phiệt Nhật là thực tế. Cùng lúc, Trung Quốc trước sau như một, vẫn canh chừng mối hiểm họa từ Liên bang Xô Viết.

Hai năm sau, ngày 11/8/1990, Thủ tướng Lý Bằng đến thăm Singapore. Ông ta vừa mới tái lập quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và Indonesia ở Jakarta. Chúng tôi gặp nhau chỉ với sự hiện diện của các thư ký và một phiên dịch. Trong nhiều dịp trước đây tôi đã nói rằng Singapore sẽ là nước cuối cùng trong khối Asean thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Lúc này, khi Indonesia đã thiết lập lại quan hệ ngoại giao, tôi muốn giải quyết sự việc này trước khi tôi rời ghế Thủ tướng vào tháng 11 năm đó. Lý Bằng ghi nhận rằng trong nhiều năm tôi làm Thủ tướng, quan hệ giữa Singapore và Trung Quốc đã phát triển tốt. Ông ta cũng muốn thu xếp ổn thỏa vấn đề này trước khi tôi từ nhiệm. Vì thế, ông mời tôi đến thăm Trung Quốc vào giữa tháng 10.

Khi đó, tôi đề cập đến các vấn đề đã cản trở những cuộc thảo luận ở cấp độ chính thức về thỏa thuận trao đổi đại sứ quán – vấn đề quân đội của chúng tôi đang tập luyện ở Đài Loan. Tôi không xem xét một thời hạn cuối cùng cho việc tập luyện của chúng tôi ở Đài Loan. Singapore chịu ơn Đài Loan rất nhiều, đặc biệt là cố Tổng thống Tưởng Kinh Quốc, người đã tạo điều kiện cho chúng tôi thoát khỏi khoảng không gian hạn chế của đất nước mình để tập luyện quân sự. Chúng tôi không thể quên món nợ của mình. Chúng tôi chỉ thanh toán các khoản chúng tôi tiêu thụ hoặc sử dụng và không phải trả thêm một đồng xu nào. Đó là một mối quan hệ đặc biệt. Chúng tôi cảm thấy gần gũi nhau bởi vì cả hai chúng tôi đều là không cộng sản và cùng có chung một ngôn ngữ, một nền văn hóa và cùng chung tổ tiên. Lý bày tỏ sự thông cảm cho vị thế của chúng tôi, là Singapore giàu có nhưng không lớn. Cuối cùng ông ta nói Trung Quốc sẽ không khăng khăng đòi hạn định thời gian cụ thể cho việc kết thúc huấn luyện của Singapore ở Đài Loan.

Sau buổi gặp gỡ đó, một vấn đề nan giải – mà nhiều cuộc đàm phán về nó đã đình hoãn trong nhiều tháng – đang trên đường đi đến giải pháp. Không giống như năm 1976, tôi không còn lo ngại rằng một đại sứ quán Trung Quốc ở Singapore có thể đặt ra những vấn đề cho nền an ninh của chúng tôi. Tình hình trong nước đã thay đổi. Chúng tôi đã giải quyết được một số vấn đề cơ bản trong việc dạy học bằng tiếng Hoa. Tất cả trường học của chúng tôi đã chuyển thành một hệ thống quốc gia lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ giảng dạy. Đại học Nanyang không còn dạy bằng tiếng Hoa và những người tốt nghiệp trường này dễ dàng tìm được việc làm. Chúng tôi đã chấm dứt việc nuôi dưỡng những thế hệ sinh viên tốt nghiệp không có cơ hội thuận lợi.

Sau cuộc thảo luận của chúng tôi, tại một cuộc họp có đầy đủ các thành viên của đoàn, Lý Bằng nhắc đến sự kiện Thiên An Môn là “sự gây rối ở Trung Quốc vào mùa hè qua”. Một số nước đã áp đặt sự trừng phạt và đã gây cho Trung Quốc ít nhiều khó khăn nhưng cũng làm tổn thương chính họ. Người Nhật đã nới lỏng sự trừng phạt của mình sau cuộc họp G–7. Không giống như giới truyền thông phương Tây, Singapore không coi Thiên An Môn là điều tồi tệ nhất trên đời, song điều đáng tiếc là Trung Quốc đã mất trắng trong mối quan hệ với quần chúng. Lý Bằng nói: “Chính phủ Trung Quốc hoàn toàn không kiểm soát được tình hình”. Là thủ tướng mà ông ta thậm chí “không thể bước ra đường. Tình trạng hỗn loạn này kéo dài đến 48 ngày”.

Lý Bằng không phải là người thích bông đùa. Thế mà hôm đó, mọi người phải ngạc nhiên khi nghe ông ta nói ông ta muốn “nói đùa một câu” về việc huấn luyện binh lính của chúng tôi ở Đài Loan: Họ có thể được tập dượt ở Trung Quốc với những điều kiện tốt hơn ở Đài Loan. Mọi người quanh bàn cười ồ lên. Ngày đó mà đến, tôi nói, thì hòa bình sẽ nổ bùng ở châu Á.[45]

[45] Ngày đó mà đến thì bầu trời châu Á sẽ sụp (ý nói làm gì có chuyện đó xảy ra, nói vui). (ND)

Hai tháng sau, tôi đến thăm Bắc Kinh lần cuối cùng trong cương vị Thủ tướng để quyết định chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 3/10. Sau khi công việc hoàn tất, chúng tôi thảo luận về sự chiếm đóng của Irak đối với Kowait. Lý Bằng nói Irak không thể bị đánh bại dễ dàng bằng một cuộc tấn công chớp nhoáng. (Khi chiến dịch Bão táp sa mạc với vũ khí tinh vi xuyên thủng các phòng tuyến của Irak chỉ trong mấy ngày, chắc hẳn nó đã làm cho các nhà lãnh đạo quân sự và dân sự ở Trung Quốc ngạc nhiên).

Tháng 10/1990, tôi gặp Chủ tịch Giang Trạch Dân. Ông ta đón tiếp tôi niềm nở, trích dẫn cả lời Khổng Tử rằng: “Đón tiếp bạn từ phương xa là niềm vui.” Ông ta đã nhớ tôi khi ông sang thăm Singapore vào đầu những năm 80 và khi tôi thăm Thượng Hải năm 1988, khi đó ông là thị trưởng. Ông ta đã hai lần sang thăm Singapore, lần thứ nhất trong hai tuần để nghiên cứu bằng cách nào Ủy ban Phát triển Kinh tế (EDB) của Singapore đã thu hút được đầu tư vào Singapore và chúng tôi đã phát triển các khu công nghiệp như thế nào. Khi đó ông ta được giao nhiệm vụ hình thành những đặc khu kinh tế ở Quảng Đông và Phúc Kiến. Chuyến thăm thứ hai chỉ là quá cảnh. Lúc ra về, ông ta mang theo mình một ấn tượng sâu sắc về các quy hoạch đô thị, trật tự, điều kiện giao thông, sự sạch sẽ và chất lượng dịch vụ của Singapore. Ông ta nhớ lại khẩu hiệu của chúng tôi: “Lịch sự là nếp sống của chúng tôi.” Ông rất vui khi ông có thể nói chuyện với người dân trên đường phố bằng tiếng Quan thoại. Điều này làm ông dễ đi đây đó trò chuyện với nhiều người.

Giang Trạch Dân nói rằng sau biến cố “Lục – Tứ”, phương Tây nói rằng thông qua vô tuyến truyền hình họ có thể can thiệp vào công việc của Trung Quốc. Phương Tây hành động theo hệ thống giá trị của họ. Ông ta có thể chấp nhận rằng có những quan điểm khác nhau nhưng không phải chỉ có một quan điểm là đúng. Không có gì là tuyệt đối trong những khái niệm về dân chủ, tự do và nhân quyền. Chúng không thể tồn tại trong sự trừu tượng, mà liên quan với nền văn hóa và mức độ phát triển kinh tế của một quốc gia. Không có những thứ như tự do báo chí. Các tờ báo phương Tây thuộc về và chịu sự quản lý của các tập đoàn tài chính khác nhau. Ông ta đề cập đến quyết định của Singapore năm 1988 giới hạn lượng bán ra của tờ báo Asian Wall Street Journal và nói lẽ ra Trung Quốc nên làm như vậy trong suốt cuộc viếng thăm của Gorbachev. Nhiều bài tường thuật của giới truyền thông phương Tây về biến cố “Lục – Tứ” là không chính xác.

Chính sách mở cửa ra thế giới và trung thành với chủ nghĩa xã hội của Đặng vẫn không có gì thay đổi. Vì tôi bày tỏ mối lo ngại về khả năng chính sách mở cửa này không được lâu dài, Giang cam đoan với tôi rằng nó sẽ “tăng tốc”. Họ đã quyết định thoát khỏi hệ thống kế hoạch hóa kiểu Xô Viết. Ông ta đã học ở Liên Xô hai năm và đã 10 dịp đến thăm đất nước này, vì thế ông biết những khiếm khuyết trong hệ thống của họ. Trung Quốc muốn thiết lập một nền kinh tế tổng hợp, kết hợp giữa cái tốt nhất của nền kinh tế kế hoạch hóa và sự điều tiết của thị trường.

Trung Quốc muốn duy trì tiếp xúc với các nước khác. Họ gặp khó khăn trong việc để nuôi dưỡng 1,1 tỷ dân. Chỉ để cung cấp ngũ cốc cho cả đất nước, họ đã phải nỗ lực rất lớn. Là thị trưởng thành phố Thượng Hải với dân số khoảng 12 triệu người, Giang nhận ra rằng để cung cấp 2 triệu ký rau mỗi ngày cũng đã khó. Trong suốt một giờ đồng hồ, ông ta toàn nói về những nhu cầu khổng lồ của Trung Quốc. Tại bữa ăn tối, cuộc trò chuyện càng sôi nổi. Ông ta trích dẫn những cặp câu thơ và những vần thơ từ hợp tuyển thơ lai láng trong trí nhớ của ông được học thuộc từ khi còn bé. Những lời bình của ông ta có pha chút bóng bẩy văn chương, nhiều điều vượt quá sự hiểu biết hạn chế của tôi về văn học Trung Quốc, khiến cho người phiên dịch mệt thêm.

Thay cho hình ảnh một đảng viên cộng sản kiểu mẫu tóc hoa râm mà tôi mong đợi, tôi lại thấy một vị Chủ tịch Đảng sẵn sàng nở nụ cười, tóc đen chải thẳng về phía sau, khuôn mặt bành to, đeo kính, da ngăm, người tầm thước chắc nịch. Ông ta là nhân vật số một ở Trung Quốc, được Đặng Tiểu Bình chọn để thay thế Triệu Tử Dương sau biến cố “Lục – Tứ”. Ông ta rất thông minh, uyên bác và có khiếu về ngoại ngữ. Ông ta thông thạo tiếng Nga, nói được tiếng Anh và tiếng Đức, và có thể trích dẫn Shakespeare và Goethe. Ông ta nói với tôi ông cũng có thể nói tiếng Rumani, vì ông ta đã từng làm việc ở Rumani.

Giang Trạch Dân sinh năm 1926 trong một gia đình trí thức ở trấn Dương Châu, tỉnh Giang Tô. Ông của ông ta là một thầy thuốc nổi tiếng, còn là thi sĩ, họa sĩ và là nhà thư pháp tài hoa. Cha ông là con trai cả. Ông có một người chú gia nhập Liên đoàn Thanh niên Cộng sản lúc mười bảy tuổi và hy sinh năm hai mươi tám tuổi trong cuộc nội chiến chống lại những người theo chủ nghĩa dân tộc[46] năm 1939 và được xem là liệt sĩ cách mạng. Khi Giang Trạch Dân được mười ba tuổi, cha ông đem ông cho người vợ góa của người chú này vì ông ta không có con. Vậy là Giang Trạch Dân có cha ông là những người cách mạng gốc rất liêm khiết khi ông gia nhập các nhóm sinh viên cộng sản ở các trường Đại học ở Nam Kinh và trường Giao Thông ở Thượng Hải.

[46] Chỉ Quốc Dân Đảng. (ND)

Ông lớn lên trong một mái ấm đầy sách vở, tranh ảnh và âm nhạc. Giang Trạch Dân biết hát, chơi piano và thích nghe nhạc Mozart và Beethoven. Có những khác biệt đáng kể trong thành tích học tập giữa những người thuộc những tỉnh thành khác nhau. Giang Tô là “Quận Hồ” của Trung Quốc, nơi mà cả hàng thiên niên kỷ nay, vị trí tiểu khí hậu dễ chịu của nó đã thu hút các quan lại về hưu và giới trí thức. Dòng dõi con cháu họ đã nâng cao trình độ học vấn của dân cư ở đấy. Tô Châu ở tỉnh Giang Tô từng một thời là kinh đô của một trong những quốc gia thời Xuân Thu (khoảng 770 đến 476 trước công nguyên) có một con đường mang tên đường Trạng Nguyên. Trạng Nguyên là học vị dành cho thí sinh đỗ đầu trong kỳ thi của triều đình từng được tổ chức ở kinh đô ba năm một lần. Các nhà lãnh đạo người Tô Châu tự hào tuyên bố rằng khá nhiều người trong số họ xuất thân từ con đường đó.

Mặc dù tôi đã được thông báo nhưng Giang Trạch Dân vẫn làm tôi ngạc nhiên. Tôi đã không mong là mình được gặp một nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc cởi mở đến như vậy. Năm 1980 khi Giang Trạch Dân lưu lại Singapore trong thời gian hai tuần, Ng Pock Too, giám đốc Ủy ban Phát triển Kinh tế (EDB) là sĩ quan liên lạc với ông ta. Sau khi Giang Trạch Dân lên làm Tổng bí thư, Ng Pock Too đưa cho tôi một bản phác thảo ngắn gọn. Ông ta ngạc nhiên khi Giang được đặt ở vị trí hàng đầu đó. Ông ta nhắc đến Giang Trạch Dân như một quan chức thấu đáo, tận tâm, cần mẫn và nghiêm nghị như: Giang Trạch Dân nghiên cứu chi tiết mọi vấn đề, ghi chép lại và hỏi những câu hỏi thăm dò. Ng Pock Too nể trọng ông vì ông không giống như các quan chức Trung Quốc khác, những người thường chọn ở các khách sạn 5 sao, mà Giang Trạch Dân chọn một khách sạn 3 sao cách xa đường Orchard sang trọng. Ông đi lại rất khiêm tốn – bằng ô tô của Ng Pock Too, bằng taxi hoặc đi bộ. Giang Trạch Dân là một quan chức trung thực, cần kiệm nhưng không tỏ ra là một chính khách tàn bạo.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx