sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 7: Việc Và Người Ở Bộ Tổng Tham Mưu

Từ “khẩn trương cùng làm” đến tính kế hoạch. – A. M. Va-xi-lép-xki và A. I. An-tô-nốp. – Các bạn cộng sự của tôi. – Hạt nhân công tác của Cục tác chiến. – Chu trình làm việc trong ngày. – Báo cáo buổi sáng lên Tổng tư lệnh tối cao. – Báo cáo buổi tối. – Những lần đêm hôm lên Đại bản doanh. – Đoàn sĩ quan Bộ tổng tham mưu. – Về những người đứng đầu cơ quan tham mưu các phương diện quân.

Trong những trang sách viết trên đây, tôi đã đứng trên vị trí một cán bộ của Bộ tổng tham mưu để xem xét một số sự kiện chiến tranh. Nhưng, hầu như tôi chưa đề cập đến cuộc sống nội bộ của chính Bộ tổng tham mưu và mới chỉ nói lướt qua về các nhân vật trong Bộ tổng tham mưu. Ấy thế mà đây lại là một đề mục nghiên cứu rất lý thú.

Bây giờ tôi muốn kể lại: chúng tôi đã sống và làm việc như thế nào trong những năm chiến tranh và chủ yếu là nhắc nhở đến những đồng chí và bạn cộng sự thân thiết của tôi, những người đã đảm đương toàn bộ gánh nặng của một công tác nhiều mặt trong Bộ tổng tham mưu thời chiến.

Như đã nêu lên ở trên, ngay từ ngày đầu chiến tranh, chúng tôi đã phát hiện thấy tình trạng không hoàn chỉnh của cơ cấu Bộ tổng tham mưu. Có cái thừa hoàn toàn không cần thiết, còn cái cực kỳ cần thiết thì lại hoàn toàn chưa có. Chiến tranh đã sắp xếp mọi thứ vào đúng vị trí của nó: cái không cần thiết thì bị vứt bỏ đi, còn cái cần thiết thì được xây dựng nên.

Đến khoảng nửa cuối năm 1942, những hình thức tổ chức của Bộ tổng tham mưu mới phù hợp được với nội dung công tác của Bộ. Và, cũng đến thời gian này, biên chế Bộ tổng tham mưu mới được ổn định. Tình trạng “khẩn trương cùng làm” đã lùi về quá khứ. Chúng tôi đã xây dựng được tính kế hoạch, cho phép đi sâu nghiên cứu tình huống và các nhiệm vụ, xuất phát từ đó tính toán mọi việc theo thời gian và không gian, có lập luận thỏa đáng cho từng biện pháp và bất kỳ giả định tác chiến nào. Bộ tổng tham mưu là cơ quan công tác của Đại bản doanh và chỉ thuộc quyền Tổng tư lệnh tối cao.

Hoạt động của Đại bản doanh, và do đó cả của Bộ tổng tham mưu nữa, đã mang tính chất rất khẩn trương và không chỉ bó hẹp trong bốn bức tường, ở đây luôn luôn cảm thấy nhịp đập của quân đội tác chiến. Chúng tôi gắn bó với quân đội không phải chỉ bằng sợi dây nhỏ của điện báo hay điện thoại. Chúng tôi không ngừng có những mối quan hệ sinh động, mối tiếp xúc trực tiếp với bộ đội, với các cơ quan tham mưu và bộ tư lệnh các phương diện quân.

Sau khi giải thể các bộ tổng tư lệnh Khu vực mặt trận thì nhu cầu phải có mối liên hệ sinh động giữa Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu với các phương diện quân ngày một tăng lên. Việc phối hợp những hành động chiến đấu của các phương diện quân, việc kiểm tra sự chấp hành những chỉ lệnh của Bộ tổng tư lệnh tối cao, việc giúp đỡ các phương diện quân lập kế hoạch, chuẩn bị và thực hiện những chiến dịch có những mục đích quyết định – tất cả những công việc ấy đòi hỏi phải cử những người có trọng trách, có khả năng độc lập đề ra những quyết định quan trọng và ra những chỉ thị phù hợp xuống các đơn vị một cách có hệ thống. Chính lúc ấy đã xuất hiện chế độ đại diện của Đại bản doanh mà bạn đọc đã biết.

Phó tổng tư lệnh tối cao Gh. C. Giu-cốp và tổng tham mưu trưởng A. M. Va-xi-lép-xki đã xuống các đơn vị làm đại diện của Đại bản doanh nhiều lần hơn cả. Sau này, vài người trong số các tư lệnh phương diện quân đã khẳng định rằng việc Giu-cốp và Va-xi-lép-xki thường xuyên có mặt ở bên cạnh họ đã có ảnh hưởng tiêu cực tới việc lãnh đạo bộ đội. Trong lời phê phán này (chủ yếu là sau chiến tranh), có thể có một phần nào sự thật. Nhưng nói chung, chúng tôi nghĩ rằng hoạt động của các đại diện Đại bản doanh đã tỏ ra là đúng đắn.

Tình hình đòi hỏi phải có mặt ngay tại các phương diện quân những người có kinh nghiệm và quyền hạn, có thể nhanh chóng giải quyết được những vấn đề quan trọng nhất: những vấn đề này thường vượt ra ngoài phạm vi thẩm quyền của tư lệnh phương diện quân. Sở dĩ Gh. C. Giu-cốp công tác dài ngày và trực tiếp tại đơn vị bộ đội đang tác chiến trên những hướng chủ yếu, trước hết vì đồng chí có cương vị là phó tổng tư lệnh tối cao.

Còn về phần A. M. Va-xi-lép-xki thì tất nhiên nên ở lại Bộ tổng tham mưu nhiều hơn. Nhưng Tổng tư lệnh tối cao không hỏi ý kiến ai về vấn đề này cả. Có lẽ coi tình hình đó là bình thường, nên ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với Va-xi-lép-xki và Giu-cốp vừa mới ở các phương diện quân trở về, I. V. Xta-lin đã hỏi xem các đồng chí này định bao lâu sau lại ra tiền tuyến lần nữa.

Công tác của Bộ tổng tham mưu không bao giờ nhẹ nhàng cả, nhất là trong thời chiến. Chiếm vị trí chủ yếu trong công tác này tất nhiên là việc thu thập và đánh giá những tin tức tình báo và tình huống đang diễn biến trên các mặt trận, nghiên cứu và đề xuất những đề nghị thiết thực, thảo chỉ thị, mệnh lệnh, ý định và kế hoạch những chiến dịch sắp tới, lập kế hoạch, bảo đảm cung cấp vũ khí, đạn dược và các phương tiện vật chất khác cho các phương diện quân, xây dựng các đội dự bị. Tất cả những công việc ấy rất phức tạp và không phải lúc nào cũng được thực hiện đúng như mong muốn.

I. V. Xta-lin quy định chế độ làm việc trong một ngày đêm của Bộ tổng tham mưu và đích thân điều chỉnh thời gian làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo Bộ tổng tham mưu. Ví dụ như: Phó tổng tham mưu trưởng (từ tháng Chạp 1942, đồng chí A. I. An-tô-nốp giữ cương vị này) được yêu cầu dành 17- 18 giờ trong một ngày đêm để thực hiện các nhiệm vụ công tác của mình. Số thời gian nghỉ ngơi của đồng chí là từ 5-6 giờ sáng đến 12 giờ trưa. Còn tôi (từ tháng Năm 1943, giữ chức vụ cục trưởng Cục tác chiến) được phép nghỉ từ 14 đến 18-19 giờ chiều. Thời gian biểu làm việc và nghỉ ngơi của những đồng chí cán bộ lãnh đạo khác cũng được quy định chính xác như vậy.

Theo lệ thường, trong một ngày đêm phải ba lần báo cáo lên Tổng tư lệnh tối cao. Báo cáo lần đầu vào lúc 10-11 giờ trưa, thường bằng dây nói. Đó là nhiệm vụ của tôi. Đến chiều, vào 16- 17 giờ, đồng chí Phó tổng tham mưu trưởng báo cáo. Đến đêm, chúng tôi cùng tới Đại bản doanh với báo cáo tổng hợp tình hình trong ngày. Trước khi đi báo cáo, mọi tình huống đều được chuẩn bị trên những bản đồ 1:200000 cho từng phương diện quân, trong đó ghi rõ tình hình bộ đội chúng ta đến cấp sư đoàn, có trường hợp tới cấp trung đoàn.

Dù có biết tường tận việc gì đã xảy ra ở đâu trong ngày, trước khi đi báo cáo chừng 2-3 giờ, bao giờ chúng tôi cũng cẩn thận tìm cách quán triệt kỹ tình huống, liên lạc với các tư lệnh và tham mưu trưởng phương diện quân, cùng các đồng chí đó chuẩn xác những chi tiết cá biệt của những chiến dịch đang tiến hành hoặc còn nằm trong kế hoạch, tham khảo ý kiến các đổng chí ấy, và thông qua các đồng chí ẩy để kiểm tra tính đúng đắn của những dự án của mình, nghiên cứu các yêu cầu và đề nghị của các phương diện quân, và đến giờ chót thì biên tập lại các dự thảo chỉ thị, mệnh lệnh của Đại bản doanh để xin chữ ký Tổng tư lệnh tối cao.

Mọi tài liệu đòi hỏi phải có quyết định của Tổng tư lệnh tối cao đã được phân loại trước và xếp vào ba cặp hồ sơ khác màu nhau. Cặp hồ sơ đỏ đựng những văn kiện có tầm quan trọng hàng đầu, cần được báo cáo trước hết; những văn kiện ấy chủ yếu là những mệnh lệnh, chỉ thị, kế hoạch phân phối vũ khí cho bộ đội đang tác chiến và cho các đội dự bị. Cặp hồ sơ xanh sẫm đựng những giấy tờ có tầm quan trọng vào hàng thứ hai, thường là những yêu cầu, đề nghị các loại. Còn cặp hồ sơ thứ ba màu xanh lá cây là những đề nghị thăng cấp và khen thưởng, những đề nghị và mệnh lệnh điều động và bổ nhiệm những cán bộ giữ các trọng trách.

Những văn kiện trong cặp hồ sơ đỏ nhất thiết phải được báo cáo thật đầy đủ và giải quyết ngay tại chỗ. Còn những tài liệu trong cặp hồ sơ xanh sẫm thì giải quyết có chọn lọc “tùy theo khả năng”, nhưng làm hàng ngày, theo lệ thường. Cặp hồ sơ xanh lá cây chỉ được báo cáo khi có hoàn cảnh thuận tiện. Đôi khi, chúng tôi không có dịp mở đến hồ sơ này trong 3-4 ngày liền. Chúng tôi cố gắng xác định đúng tình thế cho phép báo cáo vấn đề này hay vấn đề khác và hầu như chưa khi nào phạm sai lầm. Chẳng bao lâu, Xta-lin đã khám phá ra cái trò không lấy gì làm láu lỉnh của chúng tôi. Nên có lúc đồng chí báo trước:

- Hôm nay chúng ta chỉ xem xét những tài liệu quan trọng.

Và lần khác đồng chí nói:

- Nào, bây giờ các đồng chí cho xem hồ sơ xanh lá cây chứ.

Để cho được công bằng, tôi phải nêu lên rằng I. V. Xta-lin đã đánh giá rất cao cán bộ thuộc Bộ tổng tham mưu và đã cử họ vào những cương vị có trách nhiệm nặng nề trong quân đội đang tác chiến. Ngay trong những tháng đầu chiến tranh, Tổng tham mưu trưởng, hồi đó là Gh. C. Giu-cốp, đã ra chỉ huy phương diện quân. Phó tổng tham mưu trưởng N. Ph. Va-tu-tin đi làm tham mưu trưởng và sau đó đã làm tư lệnh phương diện quân. Các cục trưởng và cục phó Gh. C. Ma-lan-đin và A. Ph. A-ni-xốp, các trưởng ban V V. Cu-ra-xốp, M. N. Sa-rô-khin, P. I. Cô-cô-rép, Ph. I. Sép- tsen-cô và nhiều đồng chí khác đã được bổ nhiệm làm tham mưu trưởng phương diện quân, tập đoàn quân và sau này một số các đồng chí ấy đã thành công trong việc chỉ huy các tập đoàn quân. Cũng có đồng chí, như V. Đ. Các-pu-khin, đã làm tư lệnh sư đoàn.

Trái với những quy tắc đã định, Xta-lin cho rằng một cán bộ tham mưu giỏi cũng có thể làm được công tác chỉ huy nhưng để trở thành một cán bộ tham mưu hoàn toàn xứng đáng thì phải hiểu biết cuộc sống của bộ đội. Vì vậy, tất cả chúng tôi, không trừ ai, thường được phái xuống các mặt trận và đôi khi xuống trong một thời gian dài. Trong một số trường hợp, việc làm như vậy rõ ràng đã làm yếu đội ngũ bộ tổng tham mưu, gây thêm nhiều khó khăn mới trong công tác hàng ngày của bộ. Nhưng trong vấn đề này, Tổng tư lệnh tối cao luôn kiên trì quan điểm của mình. Đồng chí đã nghĩ và có lẽ không phải không có căn cứ, rằng “ở nhà, bao giờ Bộ tổng tham mưu cũng có cách xoay xở”, còn thực tế chiến đấu của bộ đội sẽ giúp ích cho từng người chúng tôi.

Đồng thời, chúng tôi luôn luôn cảm thấy đồng chí quan tâm đến uy tín của Bộ tổng tham mưu. Khi nghe các tư lệnh phương diện quân báo cáo ở Đại bản doanh, I. V. Xta-lin nhất định thế nào cũng hỏi: “ý kiến Bộ tổng tham mưu ra sao?”, hoặc: “Bộ tổng tham mưu đã xem xét vấn đề này chưa?”. Và, Bộ tổng tham mưu thường phải trình bày ý kiến của mình. Có nhiều khi ý kiến của Bộ tổng tham mưu cũng không khác với ý kiến của các tư lệnh phương diện quân, nhưng vì được hỏi đến nên vẫn phải báo cáo.

Tổng tư lệnh tối cao không dung thứ một sai sót nào, dù là nhỏ nhất, trong báo cáo và cũng không dung thứ kiểu tô hồng thực tế và đã nghiêm khắc trừng phạt những ai làm như vậy. Tôi còn nhớ rõ: hồi tháng Mười một 1943, đồng chí tham mưu trưởng phương diện quân U-crai-na 1 đã bị cách chức vì không báo cáo việc địch đã chiếm một vùng dân cư quan trọng, vì hy vọng sau này sẽ đánh chiếm lại được.

Đương nhiên là khi báo cáo ở Đại bản doanh, chúng tôi rất chú ý tới cách diễn đạt. Chúng tôi tự quy định cho mình một nguyên tắc là không bao giờ báo cáo những việc chưa được kiểm tra lại hay còn nghi ngờ, mà những sự việc ấy lại có khá nhiều. Trong các báo cáo thường hay nhắc tới câu: “Bộ đội ta đã đột nhập điểm N”, hoặc “Bộ đội ta đang giữ vững ngoại vi điểm X”. Trong những trường hợp này, nên báo cáo Tổng tư lệnh tối cao: “Bộ đội ta đang tiến hành chiến đấu vì điểm N hoặc điểm X”.

Những báo cáo của Bộ tổng tham mưu trong Đại bản doanh đều tuân theo một chế độ chặt chẽ. Khi được lệnh triệu tập bằng dây nói, chúng tôi lên ô-tô, đi qua thành phố Mát-xcơ-va vắng vẻ tới điện Crem-li, hoặc tới “Bli-giơ-nhi-a” – nhà riêng của Xta-lin ở Cun-xê-vô. Bao giờ xe chúng tôi cũng vào điện Crem-li qua cổng lớn Bô-rô-vít-xki, vòng qua ngôi nhà của Xô-viêt tối cao Liên Xô trên quảng trường I-va-nôp-xcai-a, rồi quặt vào cái gọi là “góc con”, nơi có phòng ở và văn phòng của I. V. Xta-lin. Qua phòng làm việc của đồng chí Pô-xcri-ô-bư-sép, chúng tôi đi vào gian nhà nhỏ của đồng chí phụ trách bảo vệ Tổng tư lệnh tối cao và cuối cùng tới chính gian buồng của người.

Chiếc bàn hình chữ nhật dài kê bên trái phòng làm việc, chỗ có trần cuốn vòm và tường viền gỗ sồi bóng. Chúng tôi mở bản đồ đặt trên chiếc bàn ấy và báo cáo theo bản đồ tình hình từng phương diện quân một, bắt đầu từ nơi nào đang có những sự kiện chủ yếu. Chúng tôi không sử dụng đến bất kỳ một bản ghi chép chuẩn bị trước nào cả. Chúng tôi thuộc lòng tình huống và mọi tình huống đều được phản ánh trên bản đồ.

Phía sau bàn, tại một góc nhà, có đặt một quả địa cầu lớn. Song, phải nói là có đến hàng trăm lần tôi lui tới căn phòng này, nhưng không bao giờ thấy dùng đến quả địa cầu ấy khi nghiên cứu những vấn đề tác chiến. Những chuyện đồn đại về việc chỉ đạo hoạt động của các phương diện quân bằng quả địa cầu là hoàn toàn không có căn cứ.

Trong những lúc báo cáo, ngoài Tổng tư lệnh tối cao ra, thường có mặt các đồng chí ủy viên Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản toàn Liên Xô (bôn-sê-vích) và các thành viên Đại bản doanh. Trường hợp cần thiết, có triệu tập thêm tư lệnh pháo binh N. N. Vô-rô-nốp, tư lệnh bộ đội xe tăng và cơ giới I-a. N. Phê-đô-ren-cô, tư lệnh Lực lượng không quân A. A. Nô-vi-côp, chủ nhiệm bộ đội công binh M. P. Vô-rô-bi-ép, chủ nhiệm Tổng cục pháo binh N. Đ. I-a-cô-vlép, chủ nhiệm hậu cần Quân đội Liên Xô A. V. Khơ-ru-li-ốp và nhiều đồng chí khác. Những đồng chí này báo cáo và bổ sung thêm về những vấn đề thuộc binh chủng của mình.

Các đồng chí ủy viên Bộ chính trị thường ngồi dọc bên bàn sát tường, đối diện với chúng tôi – những quân nhân – và đối diện với những bức chân dung lớn Xu-vô-rốp và Cu-tu-dốp, treo trên tường. Xta-lin nghe báo cáo, đi đi lại lại bên phía bàn chúng tôi ngồi. Thỉnh thoảng, đồng chí bước tới bàn làm việc của mình kê ở cuối phòng bên phải, lấy hai điều thuốc lá “ghéc-xô-gô-vi-na Phlo-rơ”, xé ra và nhồi vào tẩu thuốc của mình. Bên phải bàn làm việc của Xta-lin, trên một cái giá đặc biệt lồng kính, là bức tượng Lê-nin bằng thạch cao, được dựng sau khi Người đã qua đời.

Báo cáo của chúng tôi bắt đầu từ những đặc điểm hoạt động của bộ đội ta trong ngày. Các phương diện quân, tập đoàn quân, các quân đoàn xe tăng và cơ giới được gọi theo tên của các đồng chí tư lệnh, còn sư đoàn thì gọi theo phiên hiệu. Xta-lin quy định như vậy. Sau này, tất cả chúng tôi đều quen gọi như thế và trong Bộ tổng tham mưu cũng tuân theo nền nếp ấy.

Sau đó, chúng tôi báo cáo đến những dự thảo chỉ thị gửi cho bộ đội. Những chỉ thị của Đại bản doanh do Tổng tư lệnh tối cao và Phó tổng tư lệnh tối cao hoặc Tổng tham mưu trưởng ký, còn khi nào Gh. C. Giu-cốp và A. M. Va-xi-lép-xki không có mặt ở Mát-xcơ-va thì A. I. An-tô-nốp ký. Những chỉ thị ít quan trọng hơn đều kết thúc bằng câu “thừa ủy quyền Đại bản doanh” và do A. M. Va-xi-lép-xki hoặc A. I. An-tô-nốp ký.

Những Chỉ thị này thường làm ngay trong Đại bản doanh. Xta-lin đọc, tôi ghi. Sau đó, đồng chí bắt đọc to toàn văn và có gì lại bổ sung thêm. Những văn kiện ấy, theo lệ thường, không đưa đánh máy, mà đưa thẳng bản chính tới trung tâm thông tin ở cách đấy không xa và truyền đạt ngay cho các phương diện quân.

Trong lúc này, chúng tôi mở hồ sơ xanh sẫm ra và báo cáo về những yêu cầu của các phương diện quân. Những yêu cầu ấy chủ yếu đề cập đến việc xin bổ sung quân số, xin cung cấp vũ khí, khí tài, nhiên liệu. Đương nhiên, Bộ tổng tham mưu đều đã sơ bộ nghiên cứu trước mọi yêu cầu trên cùng với các đổng chí tư lệnh quân chủng và binh chủng.

Báo cáo xong, chúng tôi ra về lúc 3-4 giờ sáng.

Đôi khi phải đến báo cáo ở Đại bản doanh hai lần trong một ngày đêm.

Không ai có thể thay đổi chế độ làm việc chặt chẽ của Bộ tổng tham mưu do Xta-lin quy định. Khối lượng công tác rất lớn trong Bộ tổng tham mưu, cùng với tính chất cấp bách của nó làm cho công tác ở đây luôn khẩn trương, căng thẳng. Chúng tôi làm việc đến cùng, vì biết trước rằng chỉ một sai lầm nhỏ cũng bị kỷ luật nghiêm khắc. Không phải ai cũng đã có thể chịu đựng được nhịp điệu làm việc khẩn trương và căng thẳng ấy, một số đồng chí đã mắc bệnh suy nhược thần kinh và đau tim kéo dài. Ngay sau khi kết thúc chiến tranh, nhiều người không tiếp tục phục vụ được đến hết hạn tuổi quy định và đã chuyển sang ngạch dự bị.

Tôi cần nói thêm rằng chế độ làm việc thời chiến trong Bộ tổng tham mưu đã được giữ hầu như không đổi cho đến lúc Xta-lin mất: chúng tôi vẫn kết thúc ngày lao động của mình vào lúc 3-4 giờ sáng như cũ và đến 10-11 giờ lại có mặt tại vị trí công tác.

Đã thành lệ là khi nói đến lao động trí óc, sáng tạo, người ta thường nghĩ ngay đến những cán bộ văn học, nghệ thuật, đôi khi nghĩ đến những cán bộ kỹ thuật và hầu như không bao giờ nghĩ đến những quân nhân cả.

Ấy thế mà công tác quân sự cũng đòi hỏi phải có nguồn cảm hứng sáng tạo và trí lực phát triển cao. So với các nhà chuyên môn khác, có lúc quân nhân phải tiếp xúc nhiều hơn với số lượng những yếu tố khởi đầu và những số hạng mà nếu nhận thức được thì có thể rút ra những kết luận nhất định và dựa vào những kết luận ấy để đi tới cách giải quyết tốt nhất.

Đương nhiên, tất cả những điều đó đều có quan hệ trước hết tới những cán bộ lãnh đạo quân sự. Người lãnh đạo quân sự không những phải hiểu kỹ những vấn đề quân sự, mà còn phải thấy được triển vọng phát triển của chúng. Người ấy phải biết định hướng trong mối quan hệ chằng chịt phức tạp của những vần đề chính trị, kinh tế, kỹ thuật, hiểu đúng những vấn đề ấy và thấy trước ảnh hưởng của nó tới lý luận và thực tiễn quân sự, tới chiến tranh nói chung, tới chiến dịch và chiến đấu nói riêng.

Những đức tính ấy là đặc biệt cần thiết đối với người Tổng tham mưu trưởng. Phạm vi hoạt động của Tổng tham mưu trưởng thực sự là rất lớn. Tổng tham mưu trưởng gánh vác trách nhiệm lớn lao trong việc huấn luyện các Lực lượng vũ trang trong thời bình và sử dụng đúng đắn các Lực lượng vũ trang trong quá trình chiến tranh. Ai cũng vậy, nhưng riêng đối với người Tổng tham mưu trưởng thì lại càng luôn luôn đòi hỏi phải biết nhìn xa lên phía trước.

Nhưng dù người Tổng tham mưu trưởng có tài đến đâu đi nữa thì “một mình ông ta ngoài chiến trường vẫn chưa đoàn trưởng, A. M. Va-xi-lép-xki được bổ nhiệm về Bộ tổng tham mưu. Thời gian đầu, đồng chí làm trợ lý trưởng ban tác chiến. Đến giữa năm 1939, lúc thành lập Cục tác chiến, đồng chí làm trợ lý cục trưởng Cục tác chiến, rồi làm cục phó phụ trách hướng Tây. Trên cương vị này, năng khiếu quân sự của A. M. Va-xi-lép-xki lại càng thêm vững vàng. Đồng chí là người chủ chốt khi nghiên cứu những kế hoạch quan trọng nhất của Bộ tư lệnh Liên Xô.

Cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại bắt đầu. Ngày 25 tháng Tám 1941, thiếu tướng A. M. Va-xi-lép-xki được bổ nhiệm làm cục trưởng Cục tác chiến, đồng thời giữ chức Phó tổng tham mưu trưởng. Đồng chí đã tham gia trực tiếp vào việc vạch kế hoạch cho các chiến dịch nhằm đánh lui những mũi đột kích của địch và đánh tan quân đội phát-xít Đức tại những cửa ngõ vào Mát-xcơ-va.

Cái gì xảy ra trong thời gian ấy đều đã được trình bày ở các chương trên và ta có thể tự hình dung được rằng lúc ấy Va-xi-lép-xki đã phải hoạt động trong một khung cảnh khó khăn như thế nào. Nhưng đồng chí đều vượt qua mọi khó khăn xảy đến, với một phong thái điềm tĩnh rất quý và một sự tự chủ tuyệt vời. Hiếu biết sâu rộng về bản chất chiến tranh, tài dự kiến quá trình và kết cục của những trận đánh vô cùng phức tạp đã sớm nâng A. M. Va-xi-lép-xki lên vị trí hàng đầu trong số những nhà lãnh đạo quân sự ở Liên Xô.

Đặc điểm nổi bật của A. M. Va-xi-lép-xki là tin cậy cấp dưới, yêu quý mọi người và tôn trọng phẩm cách của mọi người. Đồng chí hiểu sâu xa việc gìn giữ tính tổ chức và tính chuẩn xác, trong tình thế nguy biến của thời kỳ đầu chiến tranh bất lợi cho chúng ta, là một việc khó khăn như thế nào và đã cố gắng đoàn kết cả tập thể lại, xây dựng một không khí làm việc khiến mọi người hoàn toàn không còn cảm thấy áp lực của chính quyền mà chỉ thấy nổi lên cánh vai chắc nịch của người đồng chí lâu năm hơn, dày kinh nghiệm hơn mà ta có thể dựa vào khi cần. Chúng tôi, tất cả đều nồng nhiệt, tận tình và chân thực đối với đồng chí như đồng chí đã đối xử với mình. Va-xi-lép-xki không những có uy tín lớn nhất trong Bộ tổng tham mưu, mà còn được mọi người thương yêu quý mến.

Từ những tháng chiến tranh đầu tiên, A. M. Va-xi-lép-xki đã có điều kiện tiếp xức gần gũi với Xta-lin. Như tôi viết trong các phần trên, Xta-lin không dung thứ những câu trả lời phỏng chừng, hú họa và thường đòi hỏi phải đích thân chuẩn xác tình huống tại chỗ. Hoạt động trong các đơn vị đang tác chiến. Va-xi-lép-xki đã gặp nhiều trường hợp rất nguy hiểm tới tính mệnh, nhưng luôn luôn hoàn thành nhiệm vụ đúng thời hạn và chính xác tột bậc. Những báo cáo của đồng chí tại Đại bản doanh đều nổi tiếng là rất toàn diện và rõ ràng. Tổng tư lệnh tối cao cũng đã đánh giá đầy đủ những đức tính ấy của Va-xi-lép-xki và thường phái đồng chí ra ngoài tiền tuyến những khi cần phân tích thật sâu một vấn đề nào đó và đề ra những cách giải quyết đúng đắn nhất dưới dạng những đề nghị có sẵn.

A. M. Va-xi-lép-xki có biệt tài là biết nắm lấy cái chủ yếu, biết rút ra những kết luận đúng đắn và biết dự kiến đặc biệt rõ hướng tiếp tục phát triển của các sự kiện. Tuy nhiên, đồng chí không bao giờ phô trương biệt tài ấy. Ngược lại, đồng chí luôn luôn rất chăm chú lắng nghe ý kiến của những người khác, không có thói quen ngắt lời người đang nói chuyện với mình, dù không đồng ý với người ấy, và kiên nhẫn thuyết phục, chứng minh, rốt cuộc thường lôi cuốn được những người có ý kiến trái ngược tin theo mình. Đồng thời, đứng trước Tổng tư lệnh tối cao, A. M. Va-xi-lép-xki biết bảo vệ quan điểm của mình. Đồng chí đã làm như vậy một cách nhã nhặn, nhưng khá kiên quyết.

Đặc điểm nổi lên trong phong cách tác chiến của Va-xi-lép-xki là kiên quyết trong những ý định muốn bao vây địch, cắt đường rút lui của chúng hoặc chia cắt tập đoàn của chúng sao cho chiến dịch càng phát triển thì mối uy hiếp cô lập treo trên đầu địch ngày càng lớn hơn. Những nét điển hình ấy được thể hiện rõ trong các chiến dịch Ô-xtơ-rô-gô-giơ-xcơ, Rôt-xô-sơ, Xta-lin-grát, Bê-lô-ru-xi-a, Me-men và trong nhiều chiến dịch khác mà đích thân A. M. Va-xi-lép-xki đã tham gia chuẩn bị và thực hành.

Tính kiên quyết còn in dấu cả trong chiến dịch Đông Phổ, khi A. M. Va-xi-lép-xki chỉ huy phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3 thay I. Đ. Tséc-ni-a- khốp-xki hy sinh hồi tháng Hai 1945. Đồng chí luôn luôn sẵn sàng chịu trách nhiệm vô điều kiện trước Tổ quốc và những hành động của mình. Và, như mọi người đều rõ, đó là biểu hiện cao nhất về lòng dũng cảm của người chỉ huy quân sự. Đồng chí không làm bộ làm tịch vì có nhiều thắng lợi. Là kẻ thù của mọi sự khoa trương, Va-xi-lép-xki không nhấn mạnh tới cá nhân mình, mặc dầu có lúc đồng chí đã giữ vai trò quyết định.

Hiểu rất rõ việc người Tổng tham mưu trưởng luôn vắng mặt trong Bộ tổng tham mưu sẽ có ảnh hưởng không lợi tới công tác của cơ quan đến mức nào, A. M. Va-xi-lép-xki đã kiên trì tìm bằng được một người phó xứng đáng. Và, đồng chí đã tìm được một người như vậy. Ngày 11 tháng Chạp 1942, chúng tôi được biết, theo đề nghị của A. M. Va-xi-lép-xki, trung tướng A-lếch-xây I-nô-ken-ti-vích An-tô-nốp, trước đó đang giữ chức tham mưu trưởng phương diện quân Da-cáp-ca-dơ. đã được điều động về làm cục trưởng Cục tác chiến kiêm Phó tổng tham mưu trưởng.

Nhiều người hiểu biết An-tô-nôp đều tán thành việc bổ nhiệm này. Tuy nhiên, cũng đã có những người hoài nghi, cho rằng chỉ có thể thấy được An-tô-nốp có thích hợp với công tác trong Bộ tổng tham mưu hay không, sau khi đồng chí này đã đến báo cáo tại Đại bản doanh vài ba chuyến, xem làm ăn ra sao cái đã! Vì, hầu như tất cả những người đến nhận cương vị này trước An-tô-nôp đều được thuyên chuyển đi công tác khác, ngay sau vài lần đi báo cáo với Tổng tư lệnh tối cao.

Song, An-tô-nôp đã xử sự rất thông minh. Đồng chí tìm hiểu một cách chi tiết mọi người trong cục, nghiên cứu tỉ mỉ tình huống tác chiến và không vội đi báo cáo với Đại bản doanh. Sau sáu ngày, nghĩa là sau khi đã thực sự định hướng được trong công việc của Bộ tổng tham mưu và tình hình các mặt trận, An-tô-nốp mới lên báo cáo tại Đại bản doanh.

Mọi việc tiến triển thuận lợi. Vả lúc đó, cả những người hoài nghi cũng đều nhận ra rằng đồng chí cục trưởng mới của Cục tác chiến chính là người mà chúng ta đang cần tới. Và, không phải không có sự giúp đỡ của An-tô-nốp mà Tổng tư lệnh tối cao đã quy định được một chế độ làm việc chặt chẽ, nghiêm khắc nhưng nói chung là cần thiết, có thể tiếp thu được và duy trì trong nhiều năm tại Bộ tổng tham mưu. Hơn nữa, chính An-tô-nốp cũng đã cùng chúng tôi gánh vác mọi nỗi gian truân của công tác.

Chưa đầy một tháng sau khi nhận chức trong Bộ tổng tham mưu, An-tô-nốp đã được giao một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng: làm đại diện của Đại bản doanh xuống nghiên cứu tình hình ở phương diện quân Vô-rô-ne-giơ, Bri-an-xcơ và ít lâu sau ở cả phương diện quân Trung tâm, nhằm đề xuất những đề nghị cụ thể sử dụng các lực lượng này trong thời gian tới. Chuyến đi công tác ấy của đồng chí kéo dài từ ngày 10 tháng Giêng đến hết ngày 27 tháng Ba 1943. Như mọi người chúng tôi đều hiểu, đây là một cuộc thử thách đối với cục trưởng mới của Cục tác chiến. Bộ tổng tư lệnh tối cao muốn dứt khoát tìm hiểu xem việc bổ nhiệm A. I. An-tô-nốp vào cương vị có trọng trách này có phải là đúng hay không.

Thời gian này, bộ đội của hai phương diện quân Vô-rô-ne-giơ và Bri-an-xcơ đang trải qua một loạt khủng hoảng tiến công trong những điều kiện khó khăn của mùa đông. Sau khi giành được một loạt chiến thắng vẻ vang, bộ đội của hai phương diện quân cũng đã bị kiệt sức rõ rệt và cuối cùng buộc phải ngừng tiến công. An-tô-nốp làm việc ở đây dưới sự lãnh đạo của A. M. Va-xi-lép-xki. Do đó nhất định có thuận lợi nhiều cho công tác của An-tô-nốp. Nhưng, Va-xi-lép-xki lại được người phụ tá tin cậy và có tài. Cùng nhau chung sức cố gắng, và đương nhiên, tranh thủ được sự tham gia tích cực của bộ tư lệnh các phương diện quân, các đồng chí đã đánh giá rất đúng được triển vọng tiếp tục phát triển của các sự kiện trên hướng quan trọng nhất hối đó là hướng Ô-ri-ôn – Cuốc-xcơ.

Trình độ lý luận xuất sắc, năng lực tổ chức cao, trí thông minh tuyệt vời và lòng tự chủ đến cao độ cùng năng khiếu tác chiến lỗi lạc của A. I. An-tô-nốp như đã báo trước rằng đồng chí sẽ đứng đầu Cục tác chiến trong thời gian lâu dài. Nhưng vì A. M. Va-xi-lép-xki vắng mặt ở Bộ tổng tham mưu và ngày càng hay vắng mặt trong một thời gian dài nên An-tô-nốp đã đảm nhận thêm một gánh quá nặng những chức năng của người Tổng tham mưu trưởng.

Đồng thời đảm đương hai chức trách nặng nề như vậy, nhất là trong thời chiến, không phải là một việc vừa sức ngay cả đối với An-tô-nôp. Biết như vậy. Đại bản doanh đã quyết định để đồng chí thôi giữ chức cục trưởng Cục tác chiến, và vì vậy An-tô-nốp đã thực tế đám nhiệm lãnh đạo Bộ tổng tham mưu, tất nhiên bằng cách duy trì sự tiếp xúc chặt chẽ nhất với A. M. Va-xi-lép-xki, thường xuyên thông báo cho Va-xi-lép-xki biết toàn bộ những việc quan trọng và ngược lại, tiếp nhận được những chỉ thị, những lời khuyên và sự ủng hộ thích đáng.

Là người lao động giỏi, người am hiểu thành thạo công tác tham mưu, An-tô-nốp đã nắm rất chắc mọi khâu lãnh đạo về mặt tác chiến những hoạt động chiến đấu của một quân đội đông hàng triệu người. Nhờ có trình độ uyên thâm sâu rộng của mình và hồi ấy sức lực lại còn trai trẻ, An-tô-nốp đã làm trọn nhiệm vụ một cách xuất sắc. Các đồng chí đại diện Đại bản doanh khi gửi báo cáo lên Tổng tư lệnh tối cao đều nhất thiết gửi bản sao tới “đồng chí An-tô-nốp”. Ai cũng biết rằng: căn cứ vào những báo cáo đó, An-tô-nôp sẽ quyết định mọi việc cần thiết một cách chính xác và kịp thời.

Trình độ kiến thức chung và nhất là kiên thức quân sự của An-tô-nốp đã thể hiện sâu rộng trong thái độ giải quyết mọi vấn đề công tác trong Bộ tổng tham mưu, trong ngôn ngữ, trong phẩm cách cá nhân và trong quan hệ với mọi người. Trong sáu năm cùng cộng tác với đồng chí, tôi chưa lần nào thấy đồng chí “mất tự chủ” nổi nóng, lớn tiếng với một ai cả. Đồng chí có đức tính điềm đạm lạ thường, song tuyệt nhiên không hề tỏ ra nhu nhược. Ở An-tô-nôp, tính điềm đạm kết hợp với tính cứng rắn và tôi có thể nói kết hợp với tính hơi khô khan, thậm chí với tính khắt khe trong quan hệ công tác.

Có người nào đó đã gọi đồng chí là con người cầu kỳ. Nhưng đó lại là tính cầu kỳ tốt. Những người nhìn xa thấy rộng hơn lại thấy biết ơn A. I. An-tô-nôp về tính nguyên tắc và tính đòi hỏi trước sau như một hoàn toàn cần thiết cho công tác quân sự và nhất là trong những ngày chiến tranh nặng nề.

A. I. An-tô-nôp không dung thứ thái độ hời hợt, hấp tấp, nửa vời và quan hệ hình thức đối với chức trách. Đồng chí thận trọng trong việc khen ngợi khuyến khích người khác và chỉ những ai biết suy nghĩ, chủ động và chuẩn xác trong công tác mới xứng đáng được nhận những lời cổ vũ của đồng chí.

Đồng chí rất quý thời gian và đặt kế hoạch thời gian rất tỉ mỉ. Có lẽ vì vậy mà nội dung những bài diễn văn của đồng chí cũng có đặc điểm là ngắn gọn và rõ ràng. Là người rất ghét lời nói sáo rỗng, đồng chí tuyệt không lạm dụng hội nghị mà chỉ tiến hành hội nghị (thường là ngắn) vào những lúc thật cần.

A. I. An-tô-nôp được Tổng tư lệnh tối cao rất tín nhiệm. Và tôi cho rằng ở đây, tính thẳng thắn dũng cảm của An-tô-nốp, tính trung thực trong những báo cáo của đồng chí, mà mọi điểm bao giờ cũng nghiêm chỉnh phù hợp với sự thật, dù là sự thật cay đắng đến thế nào, đã có một vai trò quan trọng. Khi cần, An-tô-nốp dám phản đối ý kiến Xta-lin và dù thế nào cũng đều nói ra ý kiến của mình.

A. M. Va-xi-lép-xki và A. I. An-tô-nốp có vẻ rất không giống nhau, nhưng thực ra lại có rất nhiều nét chung. Hai đồng chí đã xứng đáng là đại diện của Bộ tổng tham mưu Liên Xô trong những năm Chiến tranh giữ nước vĩ đại, đã cống hiến rất nhiều cho thắng lợi của chúng ta trước quân thù. Và chúng tôi, những người bạn chiến đấu, những người phụ tá gần gũi nhất, những học trò của các đồng chí, chúng tôi sẽ mãi mãi tự hào về các đồng chí.

Và bây giờ nói về hạt nhân công tác chủ yếu của Bộ tổng tham mưu: cơ quan phụ trách xây dựng kế hoạch cho mọi chiến dịch, thu thập và phân tích những tin tức tình huống trên các mặt trận, kiểm tra việc chấp hành những chỉ thị của Bộ tổng tư lệnh tối cao. Đó là Cục tác chiến. Ngoài những nhiệm vụ đã nói trên, cục còn có nhiều nhiệm vụ khác nữa, kể cả việc thảo những nhật lệnh mừng chiến thắng mà bộ đội phương diện quân này hay phương diện quân khác đã giành được

Các cơ quan khác trong Bộ tổng tham mưu hiệp đồng chặt chẽ với Cục tác chiến, thực hiện những đề nghị của Cục tác chiến, và được Cục tác chiến cung cấp cho những tin tức gốc để tiến hành công tác của mình.

Những lần lên Đại bản doanh báo cáo, đi cùng với Tổng tham mưu trưởng chỉ có cục trưởng hoặc cục phó Cục tác chiến. Việc này đòi hỏi những đồng chí đó phải hiểu biết tất cả những gì mà Bộ tổng tham mưu đang làm và đang nắm trong tay, phải nắm vững địch tình, số liệu về quá trình di chuyển tác chiến, tình trạng bổ sung, kiện toàn các phương diện quân và tình trạng lực lượng dự bị. Nếu không như vậy thì không thể vạch ra được những yêu cầu tác chiến.

Các cơ quan trinh sát, chịu trách nhiệm thu thập những tin tức về địch trong thời gian chiến tranh, lần lượt do thiếu tướng bộ đội xe tăng A. P. Pan-phi-lốp, trung tướng I. I. I-li-trép rồi thượng tướng Ph. Ph. Cu-dơ-nét-xôp lãnh đạo. Cục trưởng Cục tác chiến trực tiếp tiếp xúc hàng ngày với từng đồng chí trên. Và chúng tôi đã có quan hệ còn chặt chẽ hơn nữa với đồng chí Lê-ô-nít Va-xi-li-ê-vích Ô-nhi-a-nốp, một người làm việc không biết mệt, và với nhóm của đồng chí.

Đồng chí có nhiệm vụ phân tích và nghiên cứu mọi tin túc về biên chế, hành động và âm mưu của quân đội phát-xít Đức. Bản thân đồng chí và những sĩ quan dưới quyền đồng chí đã nghiêm chỉnh chăm lo sao cho những tin tức thu lượm về địch được phản ánh đúng trên các bản đồ tác chiến. Thông qua các đồng chí ấy, chúng tôi đã đề ra nhiệm vụ trinh sát những mục tiêu địch mà chúng tôi đang đặc biệt quan tâm.

Những vấn đề thuộc về cơ cầu tổ chức mọi binh chủng do trung tướng A. G. Các-pô-nô-xốp phụ trách. Chính đồng chí lập kế hoạch bổ sung cho các phương diện quân, kiểm tra tính sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng dự bi và cả việc huấn luyện bổ sung nữa. Ngoài ra, bộ máy của đồng chí còn nắm tình hình bố trí và quân số trong các quân khu, tình hình tổn thất ngoài mặt trận. Thuộc quyền đồng chí còn có cả những phòng huấn luyện quân sự và phòng điều động tác chiến. Thông qua phòng điều động tác chiến mà giao cho các cơ quan giao thông vận tải quân sự nhiệm vụ vận chuyển bộ đội lúc chuẩn bị và lúc tiến hành chiến dịch.

Phải nói thêm rằng các cơ quan giao thông vận tải quân sự thường chuyển thuộc dưới quyền lúc thì đồng chí chủ nhiệm này, khi thì đồng chí chủ nhiệm khác, nhưng không thoát ra ngoài phạm vi Bộ tổng tham mưu. Lúc đầu chiến tranh, đứng về mặt tổ chức, Cục giao thông vận tải quân sự nằm trong cơ cấu Bộ tổng tham mưu. Sau đấy, có một thời gian cục này trở thành một cơ quan độc lập và chủ nhiệm cục là đồng chí bộ trưởng Bộ dân ủy giao thông. Sau nữa, cục lại chuyển thuộc đồng chí chủ nhiệm hậu cần, hồi đó kiêm nhiệm cả bộ trưởng Bộ dân ủy giao thông. Và đến cuối chiến tranh, Cục giao thông vận tải quân sự lại trở về Bộ tổng tham mưu.

Kinh nghiệm xác nhận một sự thật không ai chối cãi được là: cơ quan giao thông vận tải quân sự, dù có thuộc quyền ai đi nữa, cũng không thể làm việc được nếu tách khỏi Bộ tổng tham mưu. Vì trong thời chiến, việc điều động, vận chuyển cho chiến dịch diễn ra thường xuyên liên tục và vận mệnh các chiến dịch lại phụ thuộc trong một chừng mực không nhỏ vào cái khâu ấy nên Bộ tổng tham mưu phải đặt kế hoạch, phải kiểm tra công tác này hàng ngày và có lúc hàng giờ, ra những chỉ thị cụ thể cho Cục giao thông vận tải quân sự, cũng như phải theo dõi chặt chẽ việc chấp hành những chỉ thị ấy.

Cơ quan phụ trách tổ chức hậu cần và lập kế hoạch vật tư do A. I. Si-mô-na-ép rồi N. P. Mi-khai-lốp lãnh đạo. Cơ quan này trước hết nghiên cứu và chuẩn bị những vần đề bảo đảm trang bị và khí tài cho tiền tuyến, tính toán những nguồn dự trữ của đất nước có thể động viên cho chiến tranh, tập trung mọi số liệu về sản lượng của công nghiệp chiến tranh.

Trong cơ quan này có mặt nhiều nhà kinh tế am hiểu thông thạo về kinh tế quốc gia, chẳng hạn như N. I. Pô-ta-pốp, người được mệnh danh một cách chính đáng là “cuốn bách khoa từ điển sống”. Đồng chí đã làm việc lâu năm tại Bộ tổng tham mưu, mãi đến năm 1963 mới về nghỉ theo chế độ công huân. Một cán bộ kỳ cựu và uyên bác nữa của cơ quan này là tướng Đ. A. Ne-li-pơ. Đồng chí làm việc trong Bộ tổng tham mưu còn lâu hơn, mãi đến năm 1964.

I. T. Pê-rê-xứp-kin, chủ nhiệm thông tin Quân đội Liên Xô trong suốt cả quá trình chiến tranh, đã giữ một vai trò xuất sắc không ai thay thế được trong việc tổ chức thông tin quân đội. Ở đây, tôi muốn dùng những từ tốt đẹp để nhắc nhở đến những phụ tá gần gũi của đồng chí Pê-rê-xứp-kin: các tướng N. A. Nay-đe-nốp, N. A. Bô-rơ-dốp và nhất là đồng chí M. T. Bê-li-côp – chủ nhiệm trung tâm thông tin của Bộ tổng tham mưu. Những sự quan tâm chăm sóc của các đồng chí đã bảo đảm liên lạc không ngừng thông suốt với quân đội đang tác chiến trong ngày, bất kể vào thời gian nào và trong suốt quá trình chiến tranh, kể cả trong những tháng khó khăn nhất của năm 1941.

Chỉ xin nêu một sự kiện cũng đủ chứng minh cho khả năng công tác thông tin của chúng ta. Trong thời gian hội nghị những người đứng đầu ba nước lớn – Liên Xô, Mỹ và Anh – ở Tê-hê-ran, tác giả những dòng này nằm ở thủ đô nước I-ran, phải từ đây giữ vững liên lạc với các phương diện quân và Bộ tổng tham mưu, ngày hai lần thu thập mọi tin tức tình huống báo cáo cho Tổng tư lệnh tối cao. Và, chúng tôi chưa hề gặp trường hợp nào trở ngại về phương tiện thông tin cả.

Tướng M. C. Cu-đri-áp-xép, một người thông thạo công tác đồ bản, đã phụ trách cơ quan đồ bản của Bộ tổng tham mưu. Chúng ta cần rất nhiều bản đồ lớn nhỏ theo nhiều tỷ lệ khác nhau và sử dụng trong nhiều việc khác nhau. Cũng phải nêu lên rằng: trước chiến tranh, ta chưa có những bản đồ cần thiết cho quân đội về phần lớn lãnh thổ nước ta. Chúng ta chỉ mới có những bản đồ địa hình hoàn toàn hiện đại tới tuyến Pê-tơ-rô-da-vốt-xcơ, Vi-tép-xcơ, Ki-ép, Ô-đét-xa.

Khi địch đẩy ta ra khỏi tuyến trên, bên cạnh nhiều cái họa khác, lại có thêm cái họa thiếu bản đồ. Phải cấp tốc thành lập nhiều đơn vị mới để khảo sát địa hình, xây dựng nhiều xưởng đồ hình quân sự mới và động viên khả năng của các cơ quan dân sự. Công việc đã được tiến hành khẩn trương, sôi nổi cả đêm lẫn ngày. Và, chỉ sau nửa năm đầu chiến tranh, ta mới có được những tấm bản đồ kích thước khác nhau về một diện tích hơn một triệu rưỡi ki-lô-mét vuông.

Quy mô việc đo vẽ địa hình quân sự và việc sản xuất bản đồ vẫn còn cực lớn cả trong thời gian sau chiến tranh. Nói chung, trong những năm chiến tranh, chúng ta đã đo vẽ và thám thính được một phạm vi đất đai rộng hơn năm triệu rưỡi ki-lô-mét vuông, biên soạn và phát hành nhiều sách tra cứu và mô tả địa hình quân sự trên một diện tích rộng hơn bảy triệu ki-lô-mét vuông.

Xưởng mang tên Đu-na-ép đã giữ một vai trò đặc biệt trong việc sản xuất bản đồ cho quân đội đang tác chiến. Tập thể đoàn kết chặt chẽ của xưởng đã hoàn thành những nhiệm vụ khẩn cấp nhất và phức tạp nhất do Bộ tổng tham mưu giao cho.

Cục bảo mật nằm trong những cánh tay tin cẩn của trung tướng P. N. Be-li-u-xốp và người trợ lý dày kinh nghiệm của đồng chí là đại tá I. V. Bu-đi-lép. Trung tướng N. V. Xla-vin, một người có đức tính khiêm tốn rất cao và tâm hồn trong sáng như pha lê, đã phụ trách công tác rất tế nhị là duy trì các mối tiếp xúc với Bộ dân ủy ngoại giao và các quan hệ của Bộ tổng tham mưu với các nước đồng minh. Cơ quan của đồng chí không đông, nhưng là một cơ quan rất có năng lực. Lúc ấy, đồng chí là thành viên cố định tham gia đàm phán với các đại diện quân sự của Mỹ và Anh cũng như với những người đứng đầu các nước đồng minh và đã có mặt tại nhiều hội nghị quốc tế. Sau chiến tranh, và cho mãi tới những ngày cuối cùng của đời mình, N. V. Xla-vin đã đại diện một cách xứng đáng cho Liên bang Xô-viết ở Đan Mạch.

Cuối cùng, tôi không thể không giới thiệu với bạn đọc những người rất thân thiết và rất gần gũi với tôi trong Cục tác chiến. Trừ một số ít ra, còn thì đó là những tướng lĩnh và sĩ quan ưu tú. Đặc điểm nổi bật của tập thể chúng tôi nói chung là đoàn kết chặt chẽ, gắn bó keo sơn và có năng lực công tác rất cao. Không một ai tiếc sức mình vì sự nghiệp chung.

Những đồng chí cục phó Cục tác chiến của chúng tôi là trung tướng A. A. Grư-dơ-lốp và trung tướng N. A. Lô-mốp. Trung tướng A. A. Grư-dơ-lốp nổi bật ở khả năng nắm đúng thực chất của vấn đề một cách nhanh chóng và chính xác, có nghị lực hầu như vô tận, viết lách giỏi và có tài ghi hết được tình huống lên bản đồ chi trong vòng mấy phút đồng hồ. Tính vui vẻ yêu đời và luôn luôn lạc quan của Grư-dơ-lốp bao giờ cũng tạo nên xung quanh đồng chí một không khí hào hứng sôi nối.

Lô-mốp thì điềm đạm, bình tĩnh hơn, làm việc có chậm hơn đôi chút, nhưng bao giờ cũng chắc chắn và sâu sắc. Hai người dường như bổ sung lẫn cho nhau. Cho đến tận ngày nay, tôi vẫn giữ trong tâm trí mình lòng vô cùng biết ơn sự giúp đỡ vô giá và cống hiến to lớn của các đồng chí vào công việc của Cục tác chiến trong những năm chiến tranh.

Thiếu tướng I. N. Rư-giơ-cốp là cục phó phụ trách công tác chính trị. Đồng chí đã thật sự đem hết tâm sức mình vào công tác giáo dục và do có đức tính giản dị, cởi mở và ân cần chu đáo đối với mọi người, đồng chí đã làm cho tất cả chúng tôi có quan hệ tốt nhất đối với đồng chí, ở đồng chí, chúng tôi thấy một chức viên thì ít mà thấy một cán bộ lãnh đạo chân chính của Đảng thì nhiều.

Cho đến ngày nay, dường như trước mắt tôi đang xuất hiện những đồng chí trợ lý, những người đảm đương toàn bộ gánh nặng công tác sơ thảo của cục, thu thập và phân tích tình huống, xác định và kiểm tra đi kiểm tra lại các số liệu tin tức. Những công việc này thật là đặc biệt phức tạp trong những ngày đầu chiến tranh.

Chủ nhiệm các khu vực mặt trận là những cán bộ tham mưu ưu tú, họ phần lớn giữ chức trách này cho tới khi kết thúc chiến tranh. Và đây là thiếu tướng Mi-khai-in A-lếch-xây-ê-vích Cra-xcô-vét, một người đầy nhiệt tình, nóng nảy, hơi hiếu danh. Gặp chuyện, đồng chí có thể nêu ý kiến phản đối cấp trên, nhưng không ai phải băn khoăn về những việc đã giao cho đồng chí. Cra-xcô-vét luôn luôn hoàn thành nhiệm vụ một cách chính xác.

Hoàn toàn đối lập với Cra-xcô-vét là thiếu tướng Xéc-gây I-va-nô-vích Gu-nhê-ép. Đồng chí là một người bình tĩnh, điềm đạm, có khi chưa thật thích nghi với hoàn cảnh, đồng chí đã có mặt nhiều lần ở Lê-nin-grát khi còn bị bao vây.

Thiếu tướng Tru-ma-cốp Gri-gô-ri Mi-rô-nô-vích là một trợ lý xuất sắc nhưng tính khí hơi bất thường. Chắc chắn là đồng chí biết giá trị của mình, nhưng lại còn biết rõ hơn nữa tình hình trên khu vực mình phụ trách và luôn sẵn sàng trình bày những quan điểm và đề nghị của mình..

Thiếu tướng Vla-đi-mia Đmi-tơ-ri-ê-vích Út-kin lại có nét đặc sắc riêng. Đồng chí thích triết lý, làm thơ và tự phổ nhạc những bài thơ ấy. Các đồng chí khác gọi đùa đồng chí là “nhà sáng tác chiến đấu”. Nhưng cái đó không hề cản trở Vla-đi-mia Đmi-tơ-ri-ê-vích hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác.

Các thiếu tướng Va-xi-li Phê-đô-rô-vích Me-rơ-nốp và Xê-mi-ôn Mi-khai-lô-vích E-nhi-u-cốp nổi bật vì học vấn uyên bác và kiến thức chiến đấu rộng. Còn Ni-cô-lai Va-xi-li-ê-vích Pốt-nhi-cốp và Ni-cô-lai Ép-ghê-nhi-ê-vích Xô-cô-lốp trước hết là những người lao động xuất sắc.

Một trong những trợ lý ưu tú nhất là thiếu tướng Va-xin-tren-cô Côn-xtan-lin Phê-đô-rô-vích. Sau chiến tranh, đồng chí là một tham mưu trưởng quân khu giỏi.

Thiếu tướng I-a-côp A-pha-na-xi-ê-vích Cút-xép nổi tiếng là con người của tư duy. Nếp suy nghĩ phân tích đã giúp đồng chí nhìn ra nhiều vấn đề mà người khác không thấy. Sau chiến tranh, căn cứ vào tài đức, đồng chí được cử làm cục phó Cục tác chiến Bộ tổng tham mưu.

Thiếu tướng Mi-khai-in Ni-ki-phô-rô-vích Cô-tréc-ghin là một nhà thành thạo ưu tú nhất của chúng ta về Viễn Đông và Da-bai-can. Còn Xtê-pan A-đa-mô-vích Pê-tơ-rôp-xki cũng thông thạo tình hình ở Cận Đông và nổi tiếng là người khéo giáo dục cấp dưới. Cùng với thời gian, tiếng tăm ấy đã ngày càng được xác nhận: hầu hết những sĩ quan đã làm việc dưới sự hướng dẫn của đồng chí, như A. P. Tru-ma-kin, G. G. Ê-li-xê-ép, N. Ph. I-a-nhin, A. X. Ba-sna-ghi-an, đều trở thành những tướng lĩnh trong quân đội.

Tôi còn giữ được những hồi ức tốt đẹp nhất về trung tướng X. P. Pla-tô-nốp, đồng chí nắm chắc tất cả các trợ lý của mình, đồng thời tổng hợp toàn bộ tin tức qua các báo cáo tác chiến và thông tin chiến sự từ các mặt trận gửi về. Không phái không có căn cứ mà nhiều đồng chí trợ lý đã cho rằng báo cáo với X P. Pla-tô-nôp còn khó hơn là báo cáo với chính Tổng tham mưu trưởng. Pla-tô-nôp đòi hỏi phái chính xác đến mức hay sinh sự.

Thật ra, đồng chí biết rằng mọi trợ lý đều quá bận với khối lượng công tác hiện hành. Bởi vậy, không bao giờ đồng chí chờ cho có tài liệu hoàn hảo mà thường đích thân cầm sổ tay công tác tới gặp hết người này đến người khác, xem các bản đồ công tác, nghe báo cáo miệng, và sau mỗi lần đi gặp hết lượt như vậy là đồng chí đã có trong tay bản báo cáo tác chiến hoàn chỉnh.

Đức tính vô cùng quý báu của X. P. Pla-tô-nốp là linh hoạt cao độ. biết làm việc rất nhanh. Khi cần thiết, đồng chí có thể đích thân thu thập mọi tin tức và viết báo cáo tác chiến của tất cả các mặt trận trong vòng một giờ đồng hồ. Được như vậy vì đồng chí đã hiểu rất cặn kẽ toàn bộ tình hình.

Thông thường, chúng tôi phải chuẩn bị báo cáo tác chiến ba lần trong một ngày đêm. Nhưng lại còn có những thông cáo bất thường nữa. Rồi sau đấy, mọi báo cáo trên đều được tổng hợp thành bản thông báo tác chiến hàng ngày, dày đến 20 trang đánh máy hoặc hơn. Thông báo soi sáng tiến trình hoạt động chiến đấu trên mọi mặt trận đến cấp sư đoàn. Và, như ta đã biết, đội ngũ quân đội tác chiến và lực lượng dự bị của Đại bản doanh có tới 488 sư đoàn.

Các sĩ quan làm việc dưới sự lãnh đạo của X. P. Pla-tô-nốp đã làm nên một công trình to lớn, vô giá đối với lịch sử. Trong Cục lưu trữ trung ương của Bộ quốc phòng còn cẩn trọng gìn giữ hàng nghìn trang do các đồng chí viết, phản ánh bức tranh xác thực của cuộc chiến đấu của các Lực lượng vũ trang Liên Xô chống bộ máy chiến tranh của Hít-le.

Không kể những báo cáo chiến đấu và thông báo tác chiến, hàng ngày tướng Pla-tô-nôp còn phải chuẩn bị những thông cáo cho báo chí và cho buổi phát thanh “Từ cơ quan thông tấn Liên Xô”. Những tài liệu này được báo cáo trực tiếp cho chính A. X. Séc-ba-côp, người đã kiêm nhiệm nhiều việc trong những năm chiến tranh và giữ những cương vị quan trọng.

Là bí thư Ban chấp hành đảng bộ Mát-xcơ-va và bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng, đồng chí đồng thời còn làm chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội Liên Xô và phụ trách cơ quan thông tấn Liên Xô – một tổ chức rất lớn và rất bận. Tôi thường có dịp gặp đồng chí và lần nào cũng vậy tôi như có ý tự hỏi mình: một con người đau yếu nặng như thế sao lại có thể đảm đương nhiều công việc như vậy, đồng chí lấy đâu ra sức và bằng cách nào vẫn giữ được những mối quan hệ chân tình, nồng nhiệt đối với mọi người?

Còn có nhiều cán bộ khác cũng giống như Pla-tô-nốp. Đứng đầu bộ phận phụ trách hải quân thoạt tiên là thiếu tướng hải quân V. I. Xu-min, về sau là thiếu tướng hải quân V. A. Ca-xa-tô-nốp, một người thành thạo về tất cả các chiến trường mặt biển, cũng như về lý luận và thực hành nghệ thuật tác chiến của hải quân, do đó được liệt vào số những nhà lãnh đạo lỗi lạc của hải quân.

Thiếu tướng N. M. Ma-xlen-ni-cốp, một người đãng trí, dễ mến, cả đời chưa hề làm cho ai phải bực mình, phụ trách pháo binh và mọi công việc phòng không nói chung.

N. G. Cô-le-xnhi-côp, cựu phi công hải quân, phụ trách những vấn đề không quân. Đồng chí có nhiệt tình sôi nổi; đôi khi quá mức. Đồng chí rất cần một người có tính tình thật tương phản với mình. Và thiếu tướng không quân N. V. Vô-rô-nôp, người phó ban giỏi của đồng chí (sau này làm trưởng ban), chính là người có tính tình tương phản ấy.

Thiếu tướng xe tăng P. I. Ca-li-nhi-tren-cô rất am hiếu bộ đội xe tăng thiết giáp, về sau được cử giữ chức tham mưu trưởng tập đoàn quân xe tăng. Thay thế đồng chí lần lượt là thiếu tướng V. N. Ba-xca-côp, rồi thiếu tướng L. M. Ki-ta-ép.

Thiếu tướng C. I. Ni-cô-lai-ép phụ trách công tác thông tin liên lạc; còn phụ trách công binh là thiếu tướng V. A. Bô-li-át-cô người thông hiểu công việc của mình và sau này đã trưởng thành lên đến thượng tướng.

Tôi không thể nào nêu lên hết ở đây những đặc điểm, dù là vắn tắt nhất, của từng sĩ quan trong Cục tác chiến. Tôi chỉ có thể nói rằng tôi không tìm đâu thấy những cán bộ giỏi hơn. Vả lại, khó mà tìm thấy cho được. Vì người ta đã chọn những người giỏi hơn trong số những người giỏi cho Bộ tổng tham mưu.

Tôi tự hào được vinh dự lãnh đạo cái tập thể tốt đẹp ấy.

Chu trình làm việc trong ngày của Cục tác chiến cũng như của toàn thể Bộ tổng tham mưu bắt đầu từ bảy giờ sáng. Vào giờ này, các chủ nhiệm khu vực mặt trận bắt đầu thu thập tình huống trong đêm qua. Đại biểu cơ quan trinh sát đến gặp từng đồng chí chủ nhiệm khu vực mặt trận và xác định địch tình trên bản đồ. Đồng thời, những tin tức về tình hình và trạng thái bộ đội ta cũng được tổng hợp lại. Tất cả những cơ quan khác trong Bộ tổng tham mưu, căn cứ theo mặt hoạt động của mình, đã giúp đỡ các chủ nhiệm khu vực mặt trận làm việc này.

Và không lúc nào thấy vắng tiếng chuông điện thoại gọi đến cục trưởng Cục tác chiến. Đồng chí nói chuyện với các tham mưu trưởng phương diện quân, tự mình chuẩn xác tình huống. Các tham mưu trưởng phương diện quân nhất thiết tự mình gọi dây nói về cục nếu trong đêm giành được một thắng lợi lớn, hay chiếm được một cứ điểm quan trọng. Khi bất lợi, các đồng chí đó không vội gọi điện đâu. Nhưng khi dưới không thông lên trên thì trên phải thông xuống dưới vậy: trong trường hợp này chúng tôi phải gọi “người chậm trễ” ra đầu dây nói, thế là sự thật mới được sáng tỏ.

Chủ nhiệm khu vực mặt trận nào chuẩn bị tài liệu xong trước thì đến báo cáo trước. Tất nhiên là báo cáo không dài. Tất cả chúng tôi đều hiểu cặn kẽ tình huống, vì vậy nhiều khi báo cáo viên không phải nói gì mà chỉ đối chiếu bản đồ của mình với bản đồ của cục trưởng trải rộng trên bàn. Nếu như phát hiện thấy những gì không khớp với nhau, thì chủ nhiệm khu vực mặt trận mới lưu ý cục trưởng về các điểm đó và nói những điểm cần bổ sung.

Có trường hợp, trên bản đồ của cục trưởng Cục tác chiến lại có những tin tức mới, nhận được qua các cuộc trao đổi với cơ quan tham mưu các phương diện quân và khi ấy chủ nhiệm khu vực mặt trận lại bổ sung, sửa chữa vào bản đồ của mình. Và thỉnh thoảng, khi có những chỗ không ăn khớp nhau quá lớn, hoặc vì những nguyên nhân nào đó mà đề ra những nghi ngờ về hình thái xác thực của bộ đội, thì lập tức gọi điện trực tuyến cho cơ quan tham mưu phương diện quân để chuẩn xác lại tình hình.

Có thể nói là bản đồ được vẽ chính xác đến mức lý tưởng. Trong cục, chúng tôi dùng những quy ước thống nhất về các loại màu sắc và ký hiệu để thể hiện những thời gian nhất định và mọi hình thức tác chiến. Việc tuyệt đối chấp hành những quy ước đã định đó và công tác thực hành trong một thời gian dài đã giúp chúng tôi dễ dàng đọc những tình huống ghi trên bản đồ của bất kỳ khu vực mặt trận nào mà không cần được giải thích gì thêm cả.

Thái độ toàn tâm, toàn ý đến cao độ của các sĩ quan và tướng lĩnh đối với các điểm “vụn vặt” đó trong công tác đã giúp chúng tôi đỡ mất nhiều thời gian không có năng suất, và chủ yếu là đã giúp chúng tôi tránh được sai sót. Thật vậy, không một giáo lệnh nào có thể quy định được hết mọi chi tiết của công tác trong Bộ tổng tham mưu chúng tôi.

Vào khoảng 9 giờ, trung tướng Ô-nhi-a-nốp mang theo những tin tức tổng hợp về địch tới gặp cục trưởng Cục tác chiến. Cũng vào thời gian ấy, Cục giao thông vận tải quân sự lên biểu đồ công tác vận chuyển; căn cứ vào biểu đồ đó, ta có thể dễ theo dõi xem cái gì đang được vận chuyển đến mặt trận nào và hiện nay nó ở đâu. Sau đó, chúng tôi xem xét tới tình trạng những đội dự bị và bắt đầu hiệu đính bản báo cáo tác chiến buổi sáng.

Báo cáo tác chiến ký xong lúc 10 giờ. Cục trưởng Cục tác chiến sẵn sàng báo cáo lên Tổng tư lệnh tối cao. Tình hình tất cả các mặt trận đều được phản ánh trên hai bản đồ tỷ lệ 1:200000 về từng mặt trận và một bản đồ tổng hợp tỷ lệ 1:1000000 trải rộng trên hai mặt bàn nghiêng, to, sáng trưng. Liền đấy còn có ba tài liệu để tra cứu bổ sung: tình trạng lực lượng dự bị của các binh chủng, biểu đồ vận chuyển và cuốn sách ghi biên chế quân đội đang tác chiến đến cấp trung đoàn, kèm theo tên, họ từ các tư lệnh đến các sư đoàn trưởng. Tất cả những tin tức khác đều ghi trên bản đồ.

Cục tác chiến liên lạc với Tổng tư lệnh tối cao bằng dây nói trực tiếp riêng. Trước khi có đường dây này, Xta-lin sử dụng mạng dây nói chung. Nhưng đã xảy ra trường hợp là có lần đồng chí không được trả lời ngay vì đường dây bận. Mấy phút sau, cục trưởng tác chiến được nghe đồng chí căn dặn và nhận lệnh: “báo đồng chí phụ trách thông tin liên lạc cho người đặt đường dây riêng”. Thế là chúng tôi lại có thêm một máy nữa với 10 thước dây, rất thuận tiện trong lúc báo cáo tình huống bằng bản đồ.

Khoảng từ 10 đến 11 giờ, ít khi muộn hơn. Tổng tư lệnh tối cao đích thân gọi dây nói tới chúng tôi. Đôi khi đồng chí có chào hỏi, nhưng thường là hỏi thẳng ngay vào việc:

- Có gì mới không?

Cục trưởng tác chiến báo cáo tình huống, chuyển từ bàn này sang bàn kia, ống nói áp bên tai. Lần nào cũng vậy, báo cáo bắt đầu từ mặt trận có chiến sự căng thẳng nhất và thông thường là từ khu vực quyết liệt nhất. Mọi tình huống được trình bày liên tục theo từng mặt trận một, không bị lệ thuộc vào một khuôn khổ gò bó nào.

Báo cáo thường không bị gián đoạn, nếu đang nói về những thắng lợi của bộ đội ta. Theo đường dây chỉ thỉnh thoảng lắm mới nghe thấy tiếng ho khan và tiếng rít tẩu của người nghiện thuốc.

Xta-lin không cho phép báo cáo bỏ sót một tập đoàn quân nào, mặc dù trong dải hoạt động của tập đoàn quân ấy đêm qua không có gì quan trọng xảy ra. Đồng chí liền ngắt lời báo cáo viên:

- Ở tập đoàn quân của Ca-da-côp thì thế nào?

Đôi khi, trong lúc đang nhận báo cáo, Tổng tư lệnh tối cao ra ngay một chỉ thị nào đó để truyền xuống mặt trận. Chỉ thị này được đọc lại và một đồng chí cục phó ghi tất cả đúng theo từng lời một, sau viết lại thành chỉ thị hay mệnh lệnh.

Gần trưa, cục trưởng tác chiến tới gặp Tổng tham mưu trưởng. Trong buồng làm việc của Tổng tham mưu trưởng cũng có một bộ bản đồ giống như ở chỗ chúng tôi và đến lúc này mọi tình huống đầy đủ nhất và mới nhất đã được ghi xong trên bản đồ. Chúng tôi chỉ còn báo cáo lại tình hình đã báo cáo lên Tổng tư lệnh tối cao, những chỉ thị đã nhận được từ Tổng tư lệnh tối cao, và đưa xin chữ ký vào những mệnh lệnh, chỉ thị đã làm sẵn để gửi xuống các đơn vị.

Cách báo cáo hơi khác thường này (báo cáo lên Tổng tư lệnh tối cao trước rồi sau mới báo cáo lên Tổng tham mưu trưởng) do chính Xta-lin quy định. Chúng tôi phải làm như vậy vì theo thời gian biểu làm việc, vào lúc 10- 11 giờ, Tổng tham mưu trưởng còn đang nghỉ.

Sau khi nghe Cục tác chiến báo cáo buổi sáng xong, Tổng tham mưu trưởng tiếp cục trưởng khác và chủ nhiệm các binh chủng, nói chuyện bằng dây nói với các tư lệnh phương diện quân, đọc báo cáo của các đại diện Đại bản doanh.

Phần việc quan trọng nhất của Tổng tham mưu trưởng là phân tích tình huống trên các mặt trận. Trong quá trình phân tích tình huống, thường nảy sinh ra những dự kiến tác chiến mà sau đó liền được tính toán, cân nhắc thật tỉ mỉ và đệ trình lên Đại bản doanh xét định.

Khi các tư lệnh phương diện quân về Mát-xcơ-va thì Tổng tham mưu trưởng nhất thiết cùng tiếp với cục trưởng tác chiến và đại biểu của khu vực mặt trận hữu quan. Chúng tôi cùng nhau nghiên cứu mọi đề nghị của bộ tư lệnh phương diện quân và chuẩn bị kết luận về những đề nghị ấy. Nếu như tư lệnh phương diện quân đồng ý với chúng tôi thì sẽ cùng nhau đưa lên Đại bản doanh những đề nghị đã được chỉnh lý của đồng chí ấy. Còn nếu vẫn chưa thống nhất, chúng tôi sẽ báo cáo lên Đại bản doanh ý kiến của cả hai bên.

Những điểm hai bên không thống nhất với nhau thường không thuộc về ý định chiến dịch, hoặc cách tiến hành chiến dịch, mà thường thuộc về những vấn đề biên chế và về việc cung cấp cho bộ đội. Mọi người đều biết rằng, đồng chí tư lệnh nào cũng muốn được Đại bản doanh cung cấp cho mình nhiều lực lượng dự bị hơn nữa, muốn có đầy đủ xe tăng, pháo binh, đạn dược hơn nữa. Chúng tôi không bao giờ nói cho một đồng chí tư lệnh phương diện quân nào biết cụ thể là Đại bản doanh có những gì, nhưng các tư lệnh cũng có cách riêng của mình, do đó cũng biết được lực lượng dự trữ của Đại bản doanh. Nên họ thường đòi hỏi ở Bộ tổng tham mưu và yêu cầu ở Đại bản doanh

Phải nói thẳng rằng mặt trận nào có các đại diện của Đại bản doanh xuống trực tiếp thì mặt trận ấy thường được cung cấp tốt hơn. Một là vì Đại bản doanh thường phái đại diện của mình xuống những khu vực mặt trận nào quan trọng nhất, hai là vì đồng chí đại diện nào của Đại bản doanh cũng đều có một quyền lực nhất định, nhất là nguyên soái Gh. C. Giu-cốp. Có một số trường hợp, đồng chí ấy đã đặt Bộ tổng tham mưu vào tình thế rất khó xử: nếu không thể cung cấp được thì hãy thử từ chối Phó tổng tư lệnh tối cao xem…

Trước 15 giờ, Cục tác chiến nghiên cứu xong những tin tức trong nửa ngày. Trung tướng A. A. Grư-dơ-lôp, cục phó Cục tác chiến, báo cáo những tin tức ấy lên Tổng tham mưu trưởng. Lúc đó, tôi nghỉ. Thường cùng đi báo cáo với Grư-dơ-lốp có cả chủ nhiệm của khu vực mặt trận nào đang có tình hình rất ác liệt. Tổng tham mưu trưởng đích thân hỏi thêm, rồi chuẩn xác lại mọi chuyện bằng điện trực tuyến với các phương diện quân và đến gần 16 giờ thì báo cáo tình huống lên Tổng tư lệnh tối cao. Báo cáo tác chiến thứ hai gửi lên Đại bản doanh và đồng thời gửi tới tất cả các thành viên chính phủ có tên trong một danh bạ đặc biệt.

Đến 21 giờ, chúng tôi lại thu thập và tổng hợp mọi tin tức tình huống, rồi chuẩn bị đi đến Đại bản doanh để báo cáo tổng kết chung trong một ngày đêm. Theo lệ thường, sau 23 giờ là có lệnh triệu tập lên Đại bản doanh.

Khi trên các mặt trận tình hình diễn biến tốt, báo cáo thường kết thúc nhanh hơn, nhưng sau đấy, đôi khi Xta-lin mời chúng tôi xem chiếu bóng, phần lớn là phim thời sự mặt trận. Chúng tôi không muốn dự, vì công tác vô cùng vô tận trong cục đang chờ đợi mình. Nhưng không ai dám từ chối. Tôi đành ngồi ôm cặp bản đồ tác chiến mà xem chiếu bóng. Nếu hôm nào Xta-lin có khách nước ngoài, thì chúng tôi phải ngồi đặc biệt lâu: Xta-lin nhất thiết chiêu đãi phim về những sự kiện trên các mặt trận, phần nhiều là những cuốn chúng tôi đã được xem rồi.

Đến cuối ngày, ngoài báo cáo tổng kết trong ngày của chúng tôi, Đại bản doanh còn nhận được những báo cáo tác chiến về từng phương diện quân. Những báo cáo này do các hội đồng quân sự ký, Bộ tổng tham mưu nhận được qua máy điện báo Bô-dô rồi cho đánh máy lại và ký gửi đi các nơi theo quy định.

Như vậy là trong một ngày đêm, Đại bản doanh nhận được ba báo cáo tác chiến, trong đó có hai báo cáo của Bộ tổng tham mưu và một báo cáo trực tiếp của các phương diện quân. Ngoài ra, chúng lôi còn chuẩn bị riêng cho Xta-lin những bản đồ tỷ lệ 1:200000 cho từng mặt trận và một bản đồ tổng hợp tỷ lệ 1:2500000. Bản đồ được thay tùy theo sự cần thiết: bản đồ tỷ lệ 1:200000 chừng hai đến ba ngày thay một lần, còn bản đồ tổng hợp thì năm đến sáu ngày một lần. Đích thân X. P. Pla-tô-nốp chịu trách nhiệm về công việc này.

Công tác trong Cục tác chiến ngày này qua ngày khác cứ diễn ra như thế cho đến tận lúc kết thúc chiến tranh. Tại những cục khác trong Bộ tổng tham mưu, chế độ làm việc cũng như vậy, nhưng nội dung công tác tất nhiên có khác.

Tôi không thể không nhớ đến cái gọi là đoàn sĩ quan Bộ tổng tham mưu. Đoàn cán bộ này được thành lập trong năm 1941, lúc đầu có khá đông người.

Ngay trong phần đầu cuốn sách này, tôi đã kể lại là trong những tháng nặng nề đầu tiên của chiến tranh, đôi khi tin tức về tình hình các mặt trận gửi về Bộ tổng tham mưu rất nghèo nàn và mâu thuẫn. Nhiều khi chúng tôi nắm địch còn tốt hơn là nắm ta. Và để bù đắp cho thiếu sót này, các trợ lý phải đích thân đáp máy bay ra tiền tuyến để tìm hiểu tiền duyên phòng ngự của chúng ta ở đâu, cơ quan tham mưu các phương diện quân và tập đoàn quân đã di chuyển đến đâu. Trong những chuyến đi ấy, nhiều đồng chí đã hy sinh, nhiều đồng chí phải xa đội ngũ trong một thời gian dài vì bị thương, nhiều đồng chí khác đã được các tư lệnh phương diện quân dùng quyền lực của mình giữ lại và bổ nhiệm vào nhiều chức vụ khác nhau dưới các đơn vị.

Số cán bộ trợ lý có năng lực bị hụt đi nhiều đến nỗi ban lãnh đạo Bộ tổng tham mưu cuối cùng đã quyết định thành lập một đoàn cán bộ đặc biệt chuyên trách liên hệ với bộ đội. Thoạt đầu, đoàn này nằm trong Cục tác chiến, nhưng sau đó theo đề nghị của B. M. Sa-pô-sni-cốp, nó được tách ra khỏi cục và trở thành một đơn vị độc lập mà Đại bản doanh đặt tên là đoàn sĩ quan Bộ tổng tham mưu.

Trong lịch sử Hồng quân, danh từ “sĩ quan” lần đầu tiên được sử dụng ở đây để dường như muốn nhấn mạnh đặc điểm công tác và quan hệ phụ thuộc của đoàn: trong lúc mọi cán bộ khác thuộc biên chế các Lực lượng vũ trang của chúng ta được gọi là cán bộ chỉ huy, tư lệnh, hoặc thủ trưởng, thì những người đại diện cho Bộ tổng tham mưu tại các đơn vị lại được gọi là sĩ quan Bộ tổng tham mưu.

Đứng đầu đoàn sĩ quan Bộ tổng tham mưu là thiếu tướng N. I. Đu-bi-nin – một người rất mực chính trực và cần mẫn. Về sau, thiếu tướng S. N. Ghê-nhi-a-tu-lin, một cán bộ kỳ cựu của Cục tác chiến thay thế. Còn phó đoàn phụ trách về công tác chính trị vẫn là thiếu tướng Ph. T. Pê-rê-gu-đốp.

Thời gian đầu, hễ hoàn thành xong nhiệm vụ ở các đơn vị tác chiến là các sĩ quan Bộ tổng tham mưu trở về Mát-xcơ-va. Nhưng ít lâu sau, lại thấy rằng nên để họ thường xuyên ở lại các phương diện quân, tập đoàn quân và trên một số khu vực mặt trận, thậm chí để họ ở lại các quân đoàn và sư đoàn thì hợp lý hơn. Đồng thời, bộ lại quy định một chế độ lãnh đạo và phục tùng rất chặt chẽ: những sĩ quan Bộ tổng tham mưu công tác ở tập đoàn quân phải phục tùng những sĩ quan các cấp của Bộ tổng tham mưu đang công tác ở các bộ tư lệnh phương diện quân và được những đồng nghiệp của họ công tác ở các quân đoàn và sư đoàn phục tùng.

Phạm vi chức trách của các sĩ quan Bộ tổng tham mưu khá rộng. Họ có nhiệm vụ kiểm tra tình hình và tình trạng bộ đội, kiểm tra việc cung cấp cho bộ đội mọi thứ cần thiết về sinh hoạt và chiến đấu, đồng thời báo cáo thẳng những kết quả công tác lên Bộ tổng tham mưu.

Tính chính xác của báo cáo đã được đặc biệt chú ý. Sĩ quan Bộ tổng tham mưu chỉ có quyền báo cáo những gì chính mắt mình trông thấy, chứ không được báo cáo dựa vào lời người khác hoặc tài liệu của cơ quan tham mưu. Sau khi tình trạng lộn xộn của mấy tháng đấu chiến tranh đã được chấm dứt, các sĩ quan Bộ tổng tham mưu không phải báo cáo về những tình huống hiện đang diễn biến nữa.

Có nhiều sĩ quan Bộ tổng tham mưu đã phải công tác trong những hoàn cảnh chiến đấu phức tạp và đã tỏ ra hết sức anh dũng. Tôi còn nhớ rõ trường hợp đã xảy ra với đại úy V. A. Bli-u-đốp và trung tá A. Đ. Ma-rơ-cốp. Đang công tác trong quân đoàn xe tăng 2 thuộc tập đoàn quân xe tăng 3, ngày 24 tháng Ba 1943, ở làng Kít-xép-ca phía Tây Cu-pi-a-xcơ, hai đồng chí đã đứng ra chỉ huy một số phân đội pháo binh đang bị lâm vào một tình thế hiểm nghèo.

Chẳng bao lâu, Bli-u-đốp bị thương, nhưng được cứu thoát. Còn Ma-rơ-cốp tiếp tục chỉ huy các phân đội pháo binh, để từng khẩu đội tránh đòn đột kích của địch cho đến khi bị hy sinh vì hỏa lực bắn thẳng của xe tăng địch. Do chiến công của mình, đồng chí đã được truy tặng huân chương Chiến tranh giữ nước hạng nhất.

Hoạt động trong những hoàn cảnh khác, các đại úy X. V. Sê-re-dơ-kin, X. Ph. Xa-phô-nốp, N. M. Si-kha-lép, các thiếu tá V M. Tca-trép, K. N. Nhi-cu-lin, E. X. Cu-kha-rơ, M. I-a. Đư-slen-cô, A. T. Si-i-an, P. M. Da-rơ-ga-ri-an; các trung tá I. M. Bu-rơ-lắc, V. N. Vê-nê-đích-tôp, V. Ph. Lư-xkin, A. A. Pô-dơ-đnhi-a-cốp cũng đã hy sinh anh dũng trong chiến đấu.

Còn trong số những sĩ quan Bộ tổng tham mưu đã trải qua chiến tranh, bản thân tôi đặc biệt khâm phục đại tá A. V. Pi-xa-rép, sau này làm chủ nhiệm một khu vực mặt trận, đại tá M. N. Cô-xtin và đại tá A. I. Kha-ri-tô-nốp. Các đồng chí có quyền được coi là những đại biểu ưu tú nhất của chúng ta tại các cơ quan tham mưu mặt trận, đã biết nhìn xa trông rộng và đề xuất được nhiều vấn đề lớn lên Bộ tổng tham mưu.

Nhiều quyết định quan trọng đã được thông qua căn cứ vào báo cáo của các sĩ quan khác của Bộ tổng tham mưu. Ví dụ như: trung tá N. V. Rê-dơ-nhi-cốp, khi công tác tại phương diện quân Tây, đã nhiều lần báo cáo rằng tập đoàn quân 33 đã dùng lực lượng một cách vô ích vào cái gọi là “nhữn chiến dịch nhỏ”hằm đánh chiếm những cao điểm lẻ từ lâu đã không còn là vùng dân cư nữa. Do đó, một phái đoàn đặc biệt của Hội đồng quốc phòng Nhà nước đã đến phương diện quân Tây. Những kết luận của N. V. Rê-dơ-nhi-cốp đã được hoàn toàn xác nhận và một loạt biện pháp quan trọng liền được đề ra. Đặc biệt là ban lãnh đạo tập đoàn quân 33 đã được củng cố. Trung tướng V. N. Gô-rơ-đốp, tư lệnh tập đoàn quân, đã bị cách chức vì những khuyết điếm đã mắc.

Trong chiến đấu, người ta thường trưởng thành nhanh. Những đồng chí ưu tú nhất trong đoàn sĩ quan Bộ tổng tham mưu đã được lựa chọn về công tác trong bộ máy trung ương nói chung, trong Cục tác chiến nói riêng. Và, những đồng chí khác đã được cử xuống các đơn vị thay cho những đồng chí ấy. Như vậy là đoàn sĩ quan Bộ tổng tham mưu trở thành một nguồn vô tận, bổ sung cán bộ đã ngửi mùi thuốc súng cho bộ máy trung ương, đồng thời là chỗ dựa tin cậy của các đại diện Đại bản doanh.

Đến giữa năm 1943, hoạt động của đoàn sĩ quan Bộ tổng tham mưu có thu gọn lại đôi chút, đến lúc này, các tư lệnh liên binh đoàn lớn, các tư lệnh binh đoàn và cơ quan tham mưu các cấp đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm chiến đấu, biết làm việc nhịp nhàng và chính xác khi phân tích tình huống. Việc dùng sĩ quan Bộ tổng tham mưu thường xuyên quan sát tình hình trong các đơn vị tác chiến hầu như không còn cần thiết nữa và, về mặt tổ chức, họ đã được đưa vào biên chế Cục tác chiến.

Các sĩ quan Bộ tổng tham mưu đã giữ một vai trò đáng kể trong việc tổ chức và đưa vào chiến đấu nhiều quân đội dân tộc mới thành lập như quân đội Tiệp Khắc, Ba Lan, Ru-ma-ni. Đặc biệt, thiếu tướng N. M. Mô-lốt-cốp, sĩ quan cao cấp Bộ tổng tham mưu công tác trong Quân đội Ba Lan, đã giúp chúng tôi và bộ tư lệnh bạn được rất nhiều.

Nhìn lại chặng đường đã qua, có lẽ cũng nên nói đến chuyện đôi khi nhiều sĩ quan Bộ tổng tham mưu đã vấp phải ác cảm của các đơn vị. Có những cán bộ chỉ huy đã gọi họ một cách miệt thị là mật thám. Song, tôi không hề nhớ có trường hợp nào người sĩ quan Bộ tổng tham mưu bị tố cáo vi phạm cách đạo đức xấu, không khách quan hoặc vượt quyền cả. Ngược lại, hàng ngàn sự thật đã chứng tỏ rằng: cái cơ cấu linh hoạt giám sát và kiểm tra này tồn tại ở Bộ tổng tham mưu trong những năm chiến tranh vừa qua, đã hành động với một tinh thần toàn tâm, toàn ý vì sự nghiệp chung.

Nhiều tham mưu trưởng phương diện quân đã kinh qua công tác tại Bộ tổng tham mưu. Cũng vì vậy, ở đây tôi không thể không nói đến số đồng chí đó.

Đồng chí X. X. Bi-n-u-dốp nổi tiếng là một cán bộ tham mưu cỡ lớn trong thời gian chiến dịch Xta-lin-grát, khi đồng chí làm tham mưu trưởng tập đoàn quân cận vệ 2. Về sau, đồng chí đã đứng đầu cơ quan tham mưu của phương diện quân Nam và phương diện quân U-crai-na 3 và 4. Đồng chí đã góp nhiều ý kiến sáng tạo vào các chiến dịch giải phóng Rô-xtốp, Bắc Pri-a-dô-vi-e và Crưm.

Bi-ri-u-dôp là người rất nghiêm chỉch, thậm chí khắt khe, không chịu được những ý kiến chống đối. Đồng chí không thích ngồi yên trong bốn bức tường và đã để nhiều thời gian xuống các đơn vị. Đôi khi đồng chí muốn tập trung quyền chỉ huy hoạt động của đơn vị vào trong tay mình một cách quá mức.

Tuy vậy, Bi-ri-u-dôp là một con người có tính nguyên tắc, rất quan tâm tới công tác chính tri của đảng, coi trọng và hiểu rõ ý nghĩa của công tác. Bi-ri-u-dốp biết lựa chọn và tổ chức tập thể bộ tham mưu, biết phát huy và tìm mọi cách duy trì trình độ công tác tham mưu giỏi của cấp dưới, và chính bản thân đồng chí đã nêu gương về mặt này, đồng chí nắm vững nghệ thuật biên soạn các văn kiện tác chiến.

A. N. Bô-gô-liu-bốp là tham mưu trưởng các phương diện quân Tây – Bắc, U-crai-na 1 và Bê-lô-ru-xi-a 2. Đồng chí có đặc điểm là hay nổi nóng, rất khó hòa mình với tập thể. Cũng vì vậy nên đồng chí đã hai lần rời Bộ tổng tham mưu và nhiều lần chuyển từ cơ quan tham mưu phương diện quân này sang cơ quan tham mưu phương diện quân khác. Nhưng đồng thời, đồng chí lại là một người thông hiểu sâu sắc công tác tham mưu. Vì vậy, đồng chí cũng được đánh giá cao.

Trong suốt thời gian chiến tranh, M. V. Da-kha-rốp nổi tiếng là một người có nhiều kinh nghiệm nhất trong số tham mưu trưởng phương diện quân. Và, điều đó là hoàn toàn đúng. Vì đồng chí đã gắn liền đời mình với cuộc đấu tranh vũ trang vì sự nghiệp cách mạng, bắt đầu từ cuộc tiến công Cung điện Mùa Đông và đã trải qua gần như khắp các cấp chỉ huy và cấp tham mưu, kể từ cấp thấp nhát. Ngay từ trước chiến tranh (từ 1 tháng Bảy 1938 đến 19 tháng Bảy 1940), đồng chí làm trợ lý của Tổng tham mưu trưởng, phụ trách về tổ chức động viên và xây dựng hậu phương, rồi sau đó làm tham mưu trưởng quân khu Ô-đét-xa.

Lúc đầu chiến tranh, M. V. Da-kha-rốp đã làm tham mưu trưởng khu vực mặt trận Tây – Bắc, trực tiếp tham gia vạch kế hoạch hành động của phương diện quân Ca-li-nin trong thời gian phản công ở Mát-xcơ-va. Tên tuổi đồng chi gắn liền với sự nghiệp lãnh đạo hoạt động của phương diện quân Thảo nguyên trong chiến dịch Cuốc-xcơ và Đni-ép-rơ, của phương diện quân U-crai-na 2 trong trận tiêu diệt địch ở Hữu ngạn U-crai-na, và trong chiến dịch I-át-xư – Ki-si-ni-ốp, ở Bu-đa-pét, ở Viên, Pra-ha. Và sau nữa, trong thời gian chiến tranh chống đế quốc Nhật, đồng chí làm tham mưu trưởng phương diện quân Da-bai-can.

Mối quan hệ sinh động với bộ đội đã thường xuyên nuôi dưỡng tư tưởng sáng tạo của M. V. Da-kha-rốp. Trong chiến tranh cũng như sau chiến tranh, đồng chí đã nhiều năm công tác dưới sự hướng dẫn của R. I-a. Ma-li-nôp-xki và hai đồng chí đã nêu gương tốt về trách nhiệm công tác với nhau. Vào những năm cuối đời, đồng chí đã giữ chức vụ Tổng tham mưu trưởng một cách xứng đáng.

Xê-mi-ôn Páp-lô-vích I-va-nốp là một người rất cứng rắn và kiên quyết, hiểu rất rõ vị trí của mình trong việc chỉ đạo bộ đội không bao giờ để ai vi phạm đến chức trách của mình. Ngoài kiến thức uyên bác chung và hiểu biết đặc điểm công tác tham mưu ra, đồng chí còn luôn luôn có một khả năng công tác rất lớn. Trong những năm chiến tranh, đồng chí đã lãnh đạo có kết quả cơ quan tham mưu các phương diện quân Tây – Nam, Vô-rô-ne-giơ, U-crai-na 1, Da-cáp-ca-dơ và U crai-na 3, tiếp đó là cơ quan tham mưu Bộ tổng tư lệnh bộ đội Liên Xô ở Viễn Đông.

Chiến dịch Cuốc-xcơ, Đni-ép rơ, chiến dịch Viên là một số mốc đánh dấu chặng đường chiến đấu của đồng chí. Mặc dầu đồng chí đã trải qua nhiều năm làm công tác tham mưu và hiểu thấu đáo mọi tình tiết của công tác này, tôi vẫn dám khẳng định rằng khả năng chỉ huy của đồng chí vẫn trội hơn tất cả những khả năng khác. Sau chiến tranh, đồng chí làm tư lệnh bộ đội quân khu Xi-bi-ri và chủ nhiệm Học viện Bộ tổng tham mưu.

V. V. Cu-ra-xốp là một tham mưu trưởng, như ta thường nói, thuộc loại kinh điển. Đồng chí là một tướng điềm tĩnh, rất chín chắn, nhã nhặn, có xu hướng nghiên cứu một cách khoa học những vấn đề nảy sinh ra trước mắt cơ quan tham mưu, giỏi kết hợp lý thuyết với thực hành. Trong chiến tranh, đồng chí cộng tác chặt chẽ với I. Kh. Ba-gra-mi-an và cán bộ tham mưu chúng tôi đã đánh giá rất cao sự cộng tác ấy. Mọi tin tức về các chiến dịch của phương diện quân Pri-ban-tích 1 chúng tôi đã nhận được đều không những đúng hạn, mà còn tốt nữa. Sau chiến tranh V. V. Cu-ra-xôp đã đứng đầu Học Viện Bộ tổng tham mưu trong một thời gian dài.

Tướng Gh. C. Ma-lan-đin cũng giống Cu-ra-xốp cả về đức tính lẫn phong cách làm việc. Đồng chí cũng là một người rất điềm đạm, luôn luôn đúng mực, khiêm tốn lạ thường và nhiệt tâm. Đồng chí làm việc đến quên mình và biết hoàn thành mọi công việc, dù cho công việc phức tạp đến thế nào. Đồng chí được Bộ tổng tham mưu rất tôn trọng vì tài phân tích chính xác và sâu sắc tình huống. Đồng chí cũng đã trở thành một nhà bác học quân sự lớn và đứng đầu Học viện Bộ tổng tham mưu.

Gần như hoàn toàn đối lập với Cu-ra-xốp và Ma-lan-đin ở tư chất tính tình là M. X. Ma-li-nin. Đồng chí rất nóng nảy và sôi nổi. C. C. Rô-cô-xốp-xki hiểu rất rõ những mặt mạnh của tham mưu trưởng của mình, một người biết làm việc một cách xuất sắc (đồng chí có dịp cộng tác với Ma-li-nin từ ngày còn ở trong tập đoàn quân 16, sau đó trong các phương diện quân Sông Đôn, Trung tâm, Bê-lô-ru-xi-a I) và biết làm giảm bớt những nhược điểm của đồng chí ấy.

Về phần mình, Ma-li-nin cũng luôn cố gắng hành động thống nhất với tư lệnh. Kết quả là: cơ quan tham mưu do Ma-li-nin phụ trách luôn được liệt vào hàng ngũ những cơ quan tham mưu ưu tú, ở đây cán bộ, nhân viên làm việc rất thuận hòa và ăn ý với nhau. Từ năm 1952 cho tới những ngày cuối đời, M. X. Ma-li-nin làm Phó tổng tham mưu trưởng thứ nhất.

A. P. Pô-crôp-xki, tham mưu trưởng của khu vực mặt trận Tây – Nam, rồi của các phương diện quân Tây và Bê-lô-ru-xi-a 3 đã hoạt động ngoài mặt trận một cách bình tĩnh lạ thường. Trông chừng như đồng chí có một bí quyết đặc biệt nào đó, khiến đồng chí giữ được tính kế hoạch và chế độ làm việc chặt chẽ trong mọi tinh huống. Nhưng cái “bí quyết” đó chỉ là vốn kiến thức sâu rộng và kinh nghiệm phong phú của đồng chí, là nghệ thuật tổ chức của đồng chí, mặc dầu tôi thấy đồng chí bao giờ cũng làm việc với văn kiện nhiều hơn là với con người.

Hồi đầu chiến tranh L. M. Xan-đa-lốp giữ chức tham mưu trưởng tập đoàn quân 4 rồi tập đoàn quân 20 và sau đó là tham mưu trưởng các phương diện quân Bri-an-xcơ và Pri-ban-tích 2. Mọi người đều biết rõ đồng chí về tính tự chủ, tính chín chắn, thận trọng và khả năng kết hợp công tác dưới các đơn vị với công tác tại cơ quan tham mưu. Đồng chí luôn luôn nổi tiếng là chuyên gia về công tác tư liệu tham mưu.

Cũng cần phải đặc biệt nhấn mạnh rằng đồng chí là một người rất cương nghị, đã biết tìm ra vị trí của mình trong cuộc sống sau tấn thảm kịch nặng nề của cá nhân khiến đồng chí phải sớm rời khỏi hàng ngũ chiến đấu.

Danh sách những người đã giữ chức vụ tham mưu trưởng phương diện quân từ sáu tháng đến một năm rưỡi có đến gần hai chục đồng chí. Trong đó có những đồng chí: A. I. An-tô-nốp, P. I. Bô-đin, I. Kh. Ba-gra-mi-an, V. R. Va-sơ-kê-vích, N. Ph. Va-tu-tin, G. Ph. Da-kha-rốp, M. I. Ca-da-cop, B. A. Pi-ga-rê-vích, M. M. Pô-pôp, L. X. Xcơ-vi-rơ-xki, G. Đ. Xten-mắc, M. N. Sa-rô-khin, A. N. Cru-chi-côp, A. I. Cu-đơ-ri-a-sép, A. I. Xu-bot-tin, X. E. Rô-giơ-đe-xtơ-ven-xki, L. Ph. Mi-nhi-ức. Ph. P. Ô-de-rốp, I. A. La-xkin. Nhiều đồng chí trong lớp người xuất sắc này đã được cử giữ những chức vụ chỉ huy. Riêng I. Kh. Ba-gra-mi-an, N. Ph. Va-tu-tin, G. Ph. Da-kha-rôp, M. M. Pô-pốp đã thành các tư lệnh phương diện quân; M. I. Ca-da-cap Và M. N. Sa-rô-khin đã chỉ huy tập đoàn quân đến lúc kết thức chiến tranh.

Một số đồng chí đã đứng đầu cơ quan tham mưu phương diện quân chưa đầy sáu tháng. Đó là V. X. Gô-lu-skê-vích, V. M. Dơ-lô-bin, P. P. Vê-tsơ-nưi, I. X. Va-ren-ni-cốp, A. A. Da-ba-lu-ép, X. I. Li-u-ba-rơ-xki, Đ. N. Ni-ki-sép, I. T. Slê-min, A. P. Pi-li-pen-cô, V. I-a. Côn-pác-tsi.

Còn thượng tướng I. V. Xmô-rô-đi-nốp, Các trung tướng E. G. Tơ-rốt-xen-cô và Ph. I. Sép-tsen-cô đã là tham mưu trưởng các phương diện quân Viễn Đông và Da-bai-can khi những phương diện quân này chưa đi chiến đấu.

Chúng tôi còn nhớ tất cả những đồng chí trên và coi là những đồng chí gần gũi nhất của mình. Các đồng chí đã cùng chia sẻ với cán bộ, nhân viên Bộ tổng tham mưu niềm vui nhưng khi thành công cũng như nỗi buồn những khi thất bại


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx