sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 12: “Ba-Gra-Chi-On”

Kết quả cuộc tiến công mùa đông năm 1943 và những dự đoán tương lai. – Việc chia phương diện quân Tây. – I. Đ. Tséc-nhi-a-khôp-xki và I. E. Pê-tơ-rốp. – Nghi binh chiến dịch. – Gh. C. Giu-côp phối hợp hoạt động của hai phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và 2. – A. M. Va-xi-lép-xki ở phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3 và phương diện quân Pri-ban-tích 1. – Pháo binh và xe tăng trong chiến dịch Bê-lô-ru-xi-a. – Đột kích bằng không quân. -Những đặc điểm chỉ huy bộ đội. – Hay dở cuối cùng mới rõ.

Bộ đội chúng ta tiến công kiên quyết, đã đập tan quan niệm lý thuyết cũ kỹ cho rằng mùa đông và mùa xuân đường sá xấu ảnh hưởng tới những hành động chiến đấu, và tới giữa tháng Tư 1944 đã tiến ra đến tuyến hồ Tsút-xcôi-ê và sông Vê-li-cai-a, đến những của ngõ tiếp cận vào Vi-tép-xcơ, Oóc-sa, Mô-ghi-li-ôp, Giơ-lô-bin, tới Cô-ven. Những lực lượng chủ yếu của các phương diện quân U-crai-na đã thọc ra vùng đất cổ xưa bao la Vô-lưn và tới chân núi Các-pát, chiếm được Téc-nô-pôn và Tséc-nôp-xư hướng thẳng đến I-át-xư và Ki-si-ni-ốp, mở ra những hướng tiến về Li-u-blin, Lơ-vốp và Bu-ca-rét, tạo điều kiện cho Quân đội Liên Xô hoạt động ở hai bên sườn và phía sau những tập đoàn chủ yếu của địch.

Bộ tổng tham mưu đánh giá đầy đủ những nhân tố tích cực trên. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cho rằng sức kháng cự của địch không những không giảm sút, mà ngày càng trở nên ác liệt, mặc dù chúng đã bị tổn thất nặng và đang ra sức khôi phục lại lực lượng. Cần phải tăng cường và đẩy mạnh những cuộc đột kích của ta để ngăn không cho các tướng của Hít-le có thể điều động lực lượng và tổ chức phòng ngự vững

Nói chung, tình hình chiến dịch, chiến lược mùa hè năm 1944 từ chỗ có lợi cho chúng ta đã trở nên phức tạp hơn. Tiếp tục tiến công ở U-crai-na và Môn-đa-vi-a lúc này là không lợi vì ở các khu vực Lơ-vốp, I-át-xư và Ki-si-ni-ôp, ta phải đương đầu với những tập đoàn mạnh của địch trên mặt trận, ngang sức với lực lượng của ta. Tất cả sáu tập đoàn quân xe tăng của ta đều được điều tới đây để chiến đấu với cụm tập đoàn xe tăng chủ yếu của Đức. Bộ đội mệt mỏi, cần phải cải tiến việc tiếp tế. Hành động bất ngờ thì lại đã bị loại trừ. Nếu ra sức tiến công nhanh trên những hướng này, chúng ta sẽ mắc vào một trận chiến đấu đẫm máu, kéo dài trong những điều kiện bất lợi và kết quả cũng đáng ngại.

Trong thời gian ấy, bộ đội của ta tiến thẳng ra biên giới vùng Pri-ban-tích, cũng chưa thấy có triển vọng gì tốt đẹp, ở đấy, ta cung không mong có được những hành động bất ngờ. Địch thì đang chờ Quân đội Liên xô tiến công với những lực lượng lớn và đã áp dụng những biện pháp cần thiết để đánh lui cuộc tiến công ấy. Chúng có ưu thế cơ động với những tuyến tác chiến bên trong, với mạng lưới đường sắt và đường bộ rất phát triển; còn xe tăng của ta thì trong thời gian ấy đang gặp nhiều khó khăn. Địa hình rõ ràng là không thuận lợi cho ta. Chúng ta vấp phải những trở ngại nghiêm trọng trong việc tập trung quân và tiếp tế. Đại bản doanh cũng cho rằng trong tình hình như thế, vùng Pri-ban-tích không thể là hướng nỗ lực chủ yếu của chúng ta được.

Ngay miền Bắc cũng chẳng hứa hẹn gì mấy. Diệt địch ở đây chỉ có thể làm cho Phần Lan rút khỏi chiến tranh, nhưng lại không tạo nên được tình thế hiểm nghèo trực tiếp đối với nước Đức.

Tình hình ở hướng Tây, ở các phía Bắc và Nam Pô-lê-xi-e có khác đôi chút. Trong quá trình chiến đấu, địch đã tạo ra được cái gọi là “Ban công Bê-lô-ru-xi-a” chặn hẳn con đường tiến quân của bộ đội ta tới Vác-sa-va. Nó có thể làm bàn đạp cho quân địch đột kích vào hai bên sườn bộ đội xô viết khi chung ta tiến công đến biên giới Đông phổ, lại còn uy hiếp cả bên sườn và phía sau hướng Tây – Nam và từ đây chúng có thể dùng những hành động phản chuẩn bị, phá vỡ cuộc tiến công vào Lơ-vốp và Hung-ga-ri của quân ta. Ngoài ra, từ Bê-lô-ru-xi-a, chúng có thể tiến hành những cuộc bắn phá bằng không quân vào Mát-xcơ-va.

Cuối cùng, chiếm lĩnh cái “ban công Bê-lô-ru-xi-a”, quân địch còn có khả năng cơ động nhanh chóng trên những tuyến đường sắt và đường bộ rất phát triển và kiềm chế được những lực lượng lớn của Quân đội Liên Xô ở đây. Tất cả những tình hình trên, cố nhiên đã buộc chúng ta phải coi cuộc tiến công ở Bê-lô-ru-xi-a nhằm tiêu diệt tập đoàn lớn của quân địch đang đóng tại đây là nhiệm vụ quan trọng nhất.

Chúng ta đã thử giải quyết nhiệm vụ ấy, nhưng không thành công. phương diện quân Tây đã nhiều lần tiến công vào khu vực Vi-tép-xcơ và Oóc-sa, nhưng chỉ thu được những kết quả ít ỏi mà phải trả bằng cái giá rất đắt. “Ban công Bê-lô-ru-xi-a” được phòng ngự vững chắc.

Ở phía Nam Pô-lê-xi-ê tình hình có khá hơn: bộ đội ta tiến xa lên phía trước, ra tới hướng Li-u-blin và Lơ-vốp, nhưng sinh lực đã bị tiêu hao; ta chỉ có thể phát triển đột kích nếu điều được những đội dự bị lớn từ nội địa lên phía trước và điều động thêm lực lượng tại chỗ.

Vì vậy mới thoạt nhìn thì không thấy hiện ra chút gì có vẻ khả quan ở Bê-lô-ru-xi-a và Tây U-crai-na cả. Nhưng nếu chú ý nghiên cứu sâu tình huống, thì cũng có thể làm nảy ra một số kết luận đáng hy vọng. Bộ tổng tham mưu cho rằng nguyên nhân chủ yếu của những thất bại của ta ở phía Bắc Pô-lê-xi-ê không phải là chỉ riêng ở chỗ trận địa quân địch vững chắc, mà còn ở chỗ một số các tư lệnh và cơ quan tham mưu không theo đúng những quy tắc tổ chức, bảo đảm và thực hành tiến công. Những việc như thế, có thể và cần phải tránh trong tương lai. Còn về hướng Lơ-vốp, tôi xin nhắc lại là muốn giành được mục tiêu đã định ở đây thì trước hết phải bổ sung và tăng cường bộ đội cho phương diện quân U-crai-na 1.

Tình hình sau lưng địch chiếm một vị trí đặc biệt trong dự tính của Bộ tổng tham mưu. Ở Bê-lô-ru-xi-a, đặc trưng của tình hình đó là phong trào du kích rất mạnh. Tại đây, hoạt động chống bọn Hít-le có một đội quân du kích và các đội viên hoạt động bí mật Bê-lô-ru-xi-a gồm 150 nghìn người, họ đã chiếm được của địch một vùng đất rộng lớn. Nhiều vùng trọn vẹn của nước Cộng hòa đã sống theo pháp luật của Chính quyền xô-viết.

Bộ tổng tham mưu cho rằng can dựa vào tính tổ chức của các lực lượng du kích do các cơ quan Đảng lãnh đạo (trong hàng ngũ quân du kích Bê-lô-ru-xi-a có trên 11 nghìn đảng viên cộng sản và 31 nghìn đoàn viên thanh niên cộng sản), dựa vào mối liên hệ chặt chẽ giữa họ với các phương diện quân của ta. Cả quân du kích Lít-va cũng hoạt động tích cực và có kế hoạch. Du kích và những người hoạt động bí mật ở Bê-lô-ru-xi-a cũng như Lít-va đâu có thể làm rối loạn hậu tuyệt tác chiến, nhất là phá hoại các tuyến giao thông liên lạc quân sự của Cụm tập đoàn quân “trung tâm”, gây cho địch những tổn thất lớn.

Càng phân tích tình huống chiến lược, càng ngày chúng tôi càng tin chắc rằng phải tìm thắng lợi trong chiến cục mùa hè 1944 ngay ở Bê-lô-ru-xi-a và Tây U-crai-na. Thắng lợi lớn trong khu vực này sẽ là con đường ngắn nhất cho phép ta đưa quân đội xô-viết tiến đến những tuyến quan trọng sinh tử đối với vận mệnh của Đế chế thứ ba, đồng thời còn tạo ra được những điều kiện thuận lợi hơn, để đột kích mãnh liệt vào quân địch trên mọi hướng, mà trước hết là hướng Nam, nơi đang có tập đoàn mạnh của ta.

Vấn đề thời hạn và trình tự hành động là rất quan trọng. Không thể để cho quân địch có thời gian kịp huấn luyện những đội dự bị, khôi phục những sư đoàn bị tan tác và củng cố phòng ngự trên những hướng quan trọng nhất. Bắt đầu vào tiến công mùa hè là không nên để thời gian tạm dừng kéo dài, và đồng thời phải có nhiều cuộc điều quân rất lớn.

Những ý kiến sơ bộ ấy của Bộ tổng tham mưu sau đó được quán triệt cụ thể trong ý định chiến cục mùa hè, trong kế hoạch của chiến cục, và cả trong rất nhiều biện pháp tổ chức khác.

Biện pháp tổ chức cụ thể nhất là việc của phương diện quân Tây. Một phái đoàn gồm những đồng chí có uy tín trong Hội đồng quốc phòng Nhà nước đã xuống tại chỗ. Tham gia phái đoàn, ở Bộ tổng tham mưu có chủ nhiệm quân báo Ph. Ph. Cu-dơ-nét-xôp và cục trưởng Cục tác chiến. Phái đoàn nghiên cứu kỹ những nguyên nhân thất bại vừa qua của phương diện quân và trình bày một bản báo cáo tỉ mỉ cùng những đề nghị cụ thể.

Ngoài những nguyên nhân chủ quan, phái đoàn còn phát hiện ra những nguyên nhân khách quan nữa. Mùa đông năm 1944, phương diện quân Tây có trong biên chế 5 tập đoàn quân binh chủng hợp thành, gồm tất cả 33 sư đoàn bộ binh, 3 sư đoàn pháo binh, 2 sư đoàn pháo nòng dài, 2 sư đoàn pháo cao xạ và 1 sư đoàn súng cối. Ngoài ra, phương diện quân còn có tập đoàn quân không quân và trực thuộc phương diện quân còn có một quân đoàn xe tăng, 9 lữ đoàn xe tăng độc lập và 8 lữ đoàn pháo binh, 1 lữ đoàn súng cối cận vệ, hai khu cứ điểm và những binh đoàn, binh đội khác nữa.

Phương diện quân phải giải quyết nhiệm vụ của mình trên bốn hướng chiến dịch: Vi-tép-xcơ Bô-gu-sép-xcơ, Oóc-sa và Mô-ghi-li-ôp, cho nên lực lượng bị phân tán, bộ đội lại không thể cơ động được do các con đường giao thông dọc mặt trận hết sức bị hạn chế. Quân địch có một hệ thống đường sá tốt nối liền Vi-tép-xcơ, Oóc-sa và Mô-ghi-li-ốp, chúng có thể nhanh chóng điều viện binh tới hướng nào đang bị uy hiếp, để chống đỡ những cuộc đột kích của ta.

Dựa vào kết quả công tác của phái đoàn, Đại bản doanh quyết định tách phương diện quân Tây ra làm hai phương diện quân – Bê-lô-ru-xi-a 2 và 3 để việc chỉ huy được dễ dàng và như thế cũng sát thực tế hơn, đồng thời lại đề nghị tăng cường những lực lượng dự bị cho cả hai phương diện quân mới.

Cả vấn đề tăng cường cho phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a cũng được chú ý đến. Trước hết, Tổng tư lệnh tối cao có hỏi ý kiến nhiều tư lệnh phương diện quân và tự mình nói chuyện bằng điện thoại trực tuyến với một số đồng chí tư lệnh như với đại tướng C. C. Rô-cô-xôp-xki, tư lệnh phương dân quân Bê-lố-ru-xi-a (sau này là phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1); bấy giờ bộ đội của phương diện quân ấy đang ở trên hướng Bô-brui-xcơ.

Rô-cô-xốp-xki bày tỏ ý kiến đề nghị chuyển cho đồng chí những tập đoàn quân thuộc biên chế của phương diện quân U-crai-na 1, đang hoạt động ở Pô-lê-xi và ở Cô-ven. Theo ý đồng chí, làm như vậy sẽ cải tiến được việc hiệp đồng và cơ động, khi tiến công trên các hướng Bô-brui-xcơ và Li-u-blin.

Sau khi phân tích rất kỳ các ý kiến “tán thành” và “phản đối”, Đại bản doanh đồng ý với đồng chí. Đồng thời quyết định chuyển thuộc tập đoàn quân 50 của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 vào biên chế của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2. Thượng tướng I. Đ. Tséc-ni-a-khốp-xki (phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3) và thượng tướng I. E. Pê-tơ-rôp được cử làm tư lệnh hai phương diện quân mới. Việc phân chia cho hai phương diện quân mới những sư đoàn bộ binh, pháo binh, xe tăng, máy bay và tất cả tài sản quân sự của phương diện quân Tây phải tiến hành với sự tham gia của đại diện Đại bản doanh.

Tôi được cử đi làm nhiệm vụ ấy và rời Mát-xcơ-va cùng với đồng chí I-van Đa-ni-lô-vích Tséc-ni-a-khốp-xki, bạn đồng học ở học viện. Tối ngày 14 tháng Tư, chúng tôi đến chỗ Cra-xnôi-ê, trước đây là cơ sở chỉ huy của phương diện quân Tây. I-van E-phi-mô-vích Pê-tơ-rốp đã đợi chúng tôi ở đây. Đồng chí nổi tiếng trong các Lực lượng vũ trang là một người chỉ huy chín chắn, thận trọng, rất mực bác ái, học vấn uyên thâm và giàu kinh nghiệm quân sự. Tên tuổi đồng chí gắn liền với cuộc phòng ngự anh hùng ở Ô-đét-xa và Xê-va-xtô-pôn.

Khác với Pê-tơ-rốp, I. Đ. Tséc-ni-a-khốp-xki hồi đó chưa được nhiều người biết đến. Nhưng đồng chí đã tỏ ra xuất sắc ở cương vị tư lệnh tập đoàn quân, trình độ tác chiến có cơ sở vững chắc, am hiểu sâu về pháo binh và bộ đội xe tăng. Đồng chí còn trẻ, mới 38 tuổi, giàu nghị lực, nghiêm túc và toàn tâm toàn ý cống hiến cho sự nghiệp nặng nề, khó khăn của mình.

Chúng tôi bắt tay ngay vào việc, và trong mấy ngày đã giải quyết xong tất cả các vấn đề tổ chức. Cơ quan chỉ huy của phương diện quân Tây cũng hoàn toàn chuyển cho Tréc-ni-a-khốp-xki và đồng chí đặt đài chỉ huy tại Cra-xnôi-ê, còn I. E. pê-tơ-rôp thì sẽ lập cơ quan chỉ huy phương diện quán mới và chuyển sang khu vực Mơ-xti-xláp

Trước đó ba chúng tôi đã phân tích tỉ mỉ tình huống và đánh giá những khả năng của từng phương diện quân. Tình hình đã cho thấy rõ là việc tiêu diệt các cụm Vi-tép-xcơ, Oóc-sa và Mô-ghi-li-ốp của địch đều phải tiến hành cùng một lúc với yêu cầu phải hiệp đồng chặt chẽ với phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 đang có nhiệm vụ tiêu diệt quân địch ở khu vực Bô-brui-xcơ. Bốn cụm quân địch nói trên hợp thành một thể thống nhất, nằm trong biên chế các lực lượng chủ yếu của Cụm tập đoàn quân “trung tâm” và là xương sống của quân đội Đức đang phòng ngự ở Bê-lô- ru-xi-a.

Ở đây toàn bộ lực lượng quân địch tập trung chủ yếu trong vùng chiến thuật. Nói chung đó cũng là đặc điểm phòng ngự của quân Đức trong thời kỳ ấy. Như vậy, thực tế có nghĩa là muốn đột phá vào những trận địa quân địch thì phải có một số lượng lớn pháo binh để chế áp chắc chắn và đánh tan chúng ở ngay trong vùng chiến thuật.

Tuy vậy, cũng cần phải phát huy tác dụng, gây ảnh hưởng đến những đội dự bị trong tung thâm, dù cho chúng nhỏ yếu thế nào đi nữa. Vì vậy, chúng tôi đã thảo luận đến phương án dùng những quả đấm xe tăng mạnh đột kích sâu vào hướng Bô-ri-xốp Min-xcơ để tiêu diệt những lực lượng dự bị của chúng trước khi chúng bước vào chiến đấu. Mũi đột kích như vậy, theo dự đoán của chúng tôi, hẳn sẽ giữ vai trò quyết định để phát triển chiến dịch theo nhịp độ cao trên tất cả các hướng, kể cả hướng Bô-brui-xcơ.

Nhưng cả ba phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a, không phương diện quân nào có lấy một tập đoàn quân xe tăng, nên phải xin Đại bản doanh. Thỏa thuận là I. Đ. Tséc-nhi-a-khốp-xki thì đề nghi xin, còn Bộ tổng tham mưu thì ủng hộ.

Sau khi đã giải quyết việc tập trung những cô gắng chủ yếu vào đâu trong chiến cục mùa hè năm 1944, thì vấn đề thời hạn hành động lập tức được đặt ra trong chương trình thảo luận. Những tính toán sơ bộ cho biết rằng: trước lúc bắt đầu tiến công ở Bê-lô-ru-xi-a, cần có một thời gian tạm ngừng chiến dịch để điều quân, tích lũy và chuyển lên phía trước những phương tiện vật chất cần thiết, nhất là đạn dược và nhiên liệu. Rõ ràng, tất cả những vấn đề trên không tránh khỏi làm nảy sinh ra một tình trạng khẩn trương lớn trong ngành đường sắt. Khó khăn về vận tải cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho tất phải chuyển sang thế tạm thời phòng ngự.

Bộ tổng tham mưu không coi việc phòng ngự là mục tiêu chính, nhưng là một biện pháp bắt buộc, giúp ta có điều kiện chuẩn bị tốt cuộc tiến công quyết định sắp tới. Lại còn dự kiến nữa là việc chuyển sang phòng ngự trên toàn bộ mặt trận Xô – Đức, kết hợp với việc ngụy trang chiến dịch, sẽ làm cho quân địch mất phương hướng, khó đoán nổi những ý định xác thực của Bộ chỉ huy Lên Xô.

Giữa tháng Tư, khi đề nghị này được báo cáo lần đầu ở Đại bản doanh thì I. V. Xta-lin không đồng ý. Đồng chí có khuynh hướng cứ tiếp tục những hành động tiến công.

- Chúng ta cần suy nghĩ thêm – Tổng tư lệnh tối cao nói, mặc dầu biết rõ là nhiều tư lệnh phương diện quân phản đối việc tiến hành những chiến dịch đệm, vì thường thu được ít kết quả.

Đến ngày hôm sau, I. V. Xta-lin mới đồng ý cho hướng Tây – Bắc và hướng Tây chuyển sang phòng ngự. Những chỉ thị về việc này ban hành ngày 17 và 19 tháng Tư. Còn với những phương diện quân khác thì Tổng tư lệnh tối cao ra lệnh không được vội vã, mà như cách nói của đồng chí là phải “chuyển sang phòng ngự dần dần”, theo mức độ tạm ngừng tiến công. Thực tế thì, từ ngày 1 tới 7 tháng Năm, các nơi mới nhận được chỉ thị chuyển sang phòng ngự. Cần phải nói rõ rằng trong bất cứ trường hợp nào nội dung của những chỉ thị ấy cũng vẫn toát lên tinh thần chuẩn bị cho tiến công. Đại bản doanh yêu cầu:

“1. Tổ chức quan sát địch hằng ngày thật cẩn thận, có nhiệm vụ phát hiện hệ thống phòng ngự và hỏa lực từng hỏa điểm độc lập của địch, từng khẩu đội súng cối và pháo. Mọi biến động về tình hình địch phải được kịp thời cân nhắc và ghi vào những sơ đồ trinh sát và sơ đồ các mục tiêu.

2. Để ngụy trang hệ thống phòng ngự, phải che giấu những phương tiện hỏa lực của ta và tích lũy đạn dược, cần giảm bớt những hoạt động bắn phá của pháo binh, súng cối và vũ khí của bộ binh; quy định cho những phương tiện hỏa lực nào được tách riêng ra để phát huy hỏa lực. Tất cả những trận địa hỏa lực mà địch đã bắn vào đều phải đổi chỗ.

Chỉ được phép bắn từ những trận địa hỏa lực lâm thời hoặc dự bị.

Việc quy định giới hạn tiêu phí đạn dược trong ngày cho từng khẩu đội, nhất là pháo cỡ lớn (pháo cối 120 mi-li-mét, lựu pháo 122 mi-li-mét và 152 mi-li-mét), phải làm thật chặt chẽ”.

Bộ tổng tham mưu tiến hành xây dựng ý định tác chiến công, rồi sau đó xây dựng kế hoạch hành động trong chiến cục mùa hè năm 1944, trên cơ sở những đề nghị của các tư lệnh phương diện quân. Các đồng chí đều hiểu rõ tình huống đến từng chi tiết một.

Hội đồng quân sự phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 thấy nhiệm vụ của mình là phải tiêu diệt quân đội phát-xít Đức đang chiếm lĩnh khu vực rộng Min-xcơ, Ba-ra-nô-vi-tsi, Xlô-nim, Brét, Cô-ven, Lu-ni-nét, Bô-brui-xcơ; sau khi đạt được mục tiêu của chiến dịch, dự kiến sẽ cho các tập đoàn quân của ta tiến ra tuyến Min-xcơ, Xlô-nim, Brét, sông Tây Búc, nhờ đó chúng ta sẽ cắt đứt được tất cả những đường bộ và đường sắt chủ yếu của địch trên một chiều sâu tới 300 ki-lô-mét, nghĩa là sẽ phá vỡ việc hiệp đồng của những cụm chiến dịch của địch trên hướng Tây.

Chiến dịch dự kiến sẽ rất phức tạp. Theo ý kiến của tư lệnh C. C. Rô-cô-xôp-xki thì chiến dịch không thể tiến hành cùng một lúc với mọi lực lượng của phương diện quân, vì hệ thống phòng ngự của địch ở phía Đông Min-xcơ rất chắc, cứ đột phá chính diện vào đây thì thật nông nổi, thiếu thận trọng. Do đó, đồng chí đề nghị tiến hành chiến dịch là làm hai giai đoạn.

Trong giai đoạn thứ nhất, dài chừng 12 ngày, thì sử dụng lực lượng bốn tập đoàn quân bên cánh trái của phương diện quân để phá vỡ sự ổn định phòng ngự của địch ở mặt Nam. Vì vậy, dự định sẽ tiêu diệt toán quân địch đúng đối diện và đánh chiếm những trận địa bên bờ Đông sông Tây Búc, trên khu vực từ Brét đến Vla-đi-mia Vô-lưn-xki, và như vậy là đánh vu hồi vào sườn phải của Cụm tập đoàn quân “trung tâm”.

Còn trong giai đoạn thứ hai thì dự kiến toàn bộ lực lượng của phương diện quân sẽ hành động đồng thời, tiêu diệt cụm Bô-brui-xcơ và Min-xcơ của địch. Dựa vào những trận đánh chiếm được dọc theo sông Tây Búc và bảo đảm sườn trái của mình chống những cuộc phản kích của địch từ phía Tây và Tây – Bắc đến, những tập đoàn quân bên sườn trái của phương diện quân phải sử dụng những lực lượng chủ yếu của mình từ khu vực Brét đột phá vào phía sau lưng quân địch ở Cô-brin, Xlô-nim, Xtôn-bơ-txu. Đồng thời sẽ mở mũi đột kích thứ hai: dùng cánh phải của phương diện quân từ khu vực Rô-ga-tsi-ốp, Giơ-lô-bin đột kích vào hướng chung tới Bô-brui-xcơ và Min-xcơ.

Ước tính thời gian cần thiết cho việc điều động bộ đội, để hoàn thành những nhiệm vụ trên, ta thấy cần ít ra là 30 ngày. Muốn giành thắng lợi cho cuộc cơ động vu hồi này, cần phải tăng cường cho cánh trái vu hồi của phương diện quân từ một đến hai tập đoàn quân xe tăng.

Ý định ấy có tầm quan trọng lớn và là mẫu mực cho cách giải quyết độc đáo nhiệm vụ tiến công trên một chính diện rất rộng. Trước mặt tư lệnh phương diện quân là những vấn đề rất phức tạp về chỉ đạo hành động của bộ đội trên các hướng rất phân tán ở miền Pô-lê-xi-ê. Đến nỗi, Bộ tổng tham mưu đã nghĩ tới vấn đề: có nên chia phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 ra thành hai hay không?

Nhưng C. C. Rô-cô-xốp-xki lại chứng minh rằng những hành động ấy đều theo một kế hoạch chung và được một bộ tư lệnh phương diện quân chỉ đạo chung trong khu vực này thì sẽ hợp lý hơn. Đồng chí tin chắc rằng trong trường hợp này, Pô-lê-xi-e sẽ là một sự kiện không làm cho hành động của bộ đội bị phân tán, mà lại thống nhất được những hành động ấy.

Đáng tiếc là lúc này, Đại bản doanh chưa có khả năng tách ra và tập trung ở khu vực Cô-ven những lực lượng và phương tiện cần thiết, nhất là những tập đoàn quân xe tăng. Vì vậy, ý định cực kỳ hay của C. C. Rô-cô-xốp-xki không được thực hiện. Tuy vậy, ý định mở những mũi đột kích theo phương hướng ấy, với hành động liên tục của bộ đội trong điều kiện nhiều rừng và đầm lầy của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 nói lên, đã được Cục tác chiến Bộ tổng tham mưu sử dụng khi lập kế hoạch những chiến dịch sau này.

Gh. C. Giu-cốp trong thời gian ấy được cử giữ chức tư lệnh phương diện quân U-crai-na 1, thay N. Ph. Va-tu-tin hy sinh, cũng gửi lên Đại bản doanh ý kiến của mình về những hành động tiến công tiếp sau. Sau khi kết thúc việc tiêu diệt tập đoàn Prô-xcu-rốp – Ca-mê-nét – Pô-đôn-xki của địch, và sau khi chiếm lĩnh được Tséc-nốp-xư, đồng chí có ý định tiêu diệt địch ở khu vực Lơ-vốp và cho bộ đội mình tiến ra biên giới quốc gia. Nhiệm vụ trước mắt của những lực lượng chủ yếu trong phương diện quân là đánh chiếm Vla-đi-mia- Vô-lưn-xki bên cánh phải, Lơ-vốp ở giữa, và Đrô-gô-bứt bên cánh trái. Nhiệm vụ tiếp sau là giải phóng khu vực Pê-rê-mư-slơ. Cơ sở ý định của chiến dịch Lơ-vốp lại vẫn là cơ động vu hồi.

Tuy nhiên, chiến dịch này hồi ấy cũng không được thực hiện, chủ yếu là vì chưa có đủ lực lượng. Nhưng cái hạt nhân duy lý trong ý định của vị tư lệnh thì không mất đi. Đánh giá kỹ những khả năng phát triển tình huống khi tiến công, chúng tôi đã phát hiện ra mối quan hệ thật chặt chẽ giữa những tập đoàn quân sườn trái của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 với bộ đội của phương diện quân U-crai-na 1 và điều đó có ảnh hưởng quyết định đến trình tự và thời hạn tiến hành những chiến dịch mùa hè ở khu vực này.

Đến hạ tuần tháng Tư, Bộ tổng tham mưu đã thu thập xong mọi ý kiến về chiến cục mùa hè. Đó là hệ thống những chiến dịch lớn nhất trong lịch sử chiến tranh, tiến hành trong một không gian mênh mông từ miền Pri-ban-tích đến núi Các-pát, thu hút trên dưới năm, sáu phương diện quân vào những hành động tích cực gần như cùng một lúc. Nhưng trong quá trình tiếp tục nghiên cứu thực chất của công việc, chúng tôi đã nhận ra được rằng: việc tiến hành một chiến dịch lớn độc lập trên hướng Lơ-vôp và cả những chiến dịch trên các hướng Vư-boóc-gơ và Xvia – Pê-tơ-rô-da-vết-xcơ là hợp lý hơn.

Bây giờ, chiến cục mùa hè hiện ra theo trình tự như sau. Đầu tháng Sáu, phương diện quân Lê-nin-grát sẽ mở màn chiến cục bằng cuộc tiến công vào Vư-boóc-gơ, rồi sau đó, thu hút phương diện quân Ca-rê-li-a vào tiến công tiêu diệt tập đoàn Xvia – Pê-tơ-rô-da-vôt-xcơ của địch. Kết quả của các chiến dịch trên là phải loại ra khỏi vòng chiến ông bạn Phần Lan của nước Đức Hít-le.

Tiếp theo cuộc tiến công của phương diện quân Ca-rê-li-a, những hành động ở Bê-lô-ru-xi-a phải nổ ra ngay và cố đạt cho được tính bất ngờ. Đến khi bộ chỉ huy quân Đức hiểu ra rằng chính đó mới là những sự kiện quyết định, và điều những đội dự bị của chúng từ phía Nam đến, thì phương diện quân U-crai-na 1 phải triển khai ngay cuộc tiến công trời giáng vào hướng Lơ-vốp.

Tiêu diệt những tập đoàn quân địch ở Bê-lô-ru-xi-a và ở Lơ-vôp là nội dung cuộc đột kích chủ yếu của các Lực lượng vũ trang Liên Xô trong chiến cục mùa hè năm 1944. Trong thời gian này, lực lượng của phương diện quân Pri-ban- tích 2 phải hành động tích cực để kiềm chế những đơn vị của Cụm tập đoàn quân “bắc” của địch, vì cụm tập đoàn quân này nhất định sẽ cố bảo đảm cho đơn vị bạn bên phải là Cụm tập đoàn quân “Trung tâm” được ổn định.

Và cuối cùng, do kết quả của những mũi đột kích mạnh vừa kể, quân thù sẽ bị thất bại, đến lúc đó, ta có thể xác nhận rằng cuộc tiến công trên hướng mới ở Ru-ma-ni, Bun-ga-ri, Nam Tư và cả ở Áo, Hung, Tiệp Khắc – sẽ được bảo đảm.

Đến cuối tháng Tư thì kế hoach chiến cục mùa hè được báo cáo lên Đại bản doanh như vậy và được lấy làm cơ sở để xây dựng những mục tiêu chính trị của các Lực lượng vũ trang Liên Xô trong nhật lệnh ngày 1 tháng Năm của Tổng tư lệnh tối cao. Nhật lệnh kêu gọi bộ đội hãy quét sạch địch ra khỏi đất đai của Tổ quốc ta và giải phóng các dân tộc anh em: Ba Lan, Tiệp Khắc cùng những nước Đông Âu khác, khỏi ách chiếm đóng của quân Hít-le.

Bắt tay vào chuẩn bị chiến dịch Bê-lô-ru-xi-a, Bộ tổng tham mưu muốn lừa cho bộ chỉ huy Hít-le tin là mùa hè năm 1944 những mũi đột kích của Quân đội Liên Xô sẽ ở phía Nam và ở miền Pri-ban-tích. Ngay ngày 3 tháng Năm, tư lệnh phương diện quân U-crai-na 3 nhận được chỉ thị sau đây:

“Các đồng chí sẽ tiến hành những biện pháp nghi binh chiến dịch để lừa địch, làm cho chúng nhận lầm rằng bên sườn phải của phương diện quân đang tập trung từ 8 tới 9 sư đoàn bộ binh đã được tăng cường xe tăng và pháo binh, khu vực tập trung giả phải náo nhiệt, có vận động, bố trí từng nhóm, từng tổ bộ đội, xe pháo, xe tăng, đại bác và có thiết bị khu vực; những nơi đặt các mô hình xe tăng và pháo binh phải có pháo cao xạ, đồng thời có cả mạng lưới cao xạ phòng không trong toàn khu vực, có các máy bay tiêm kích bay tuần tiễu.

Phải dùng máy bay quan sát và chụp ảnh từ trên không để kiểm tra hình dáng các mục tiêu giả làm cho các mục tiêu ấy giống hệt như thật… Thời hạn tiến hành ngụy trang chiến dịch bắt đầu từ ngày 5 đến hết ngày 15 tháng Sáu năm nay”.

Phương diện quân Pri-ban-tích 3 cũng nhận được mệnh lệnh tương tự. Phương diện quân này phải thực hiện những công tác ngụy trang ở phía Đông sông Tre-re-khơ.

Quân địch cắn cả hai cái mồi ấy. Bộ chỉ huy Đức tỏ ra rất lo ngại, nhất là ở hướng Nam. Tăng cường trinh sát đường không để lấy tài liệu, bộ chỉ huy Đức muốn xác định chắc chắn ý định của ta ở phía Bắc Ki-si-ni-ôp.

Những tập đoàn quân xe tăng ở lại trên hướng Tây – Nam cũng có nghĩa là lừa địch. Quân trinh sát của địch theo dõi cả hai mồi ấy của ta, thấy những tập đoàn quân nói trên không rời khỏi vị trí, chúng liền kết luận rằng chúng ta chắc chắn sẽ tiến công ở đây. Thực ra, chúng ta đã chuẩn bị dần mũi đột kích của xe tăng ở chỗ khác hẳn. Được bổ sung trước hết về người và kỹ thuật là những binh đoàn xe tăng và cơ giới sắp được điều sang hướng Bê-lô-ru-xi-a.

Chúng ta còn áp dụng cả những biện pháp khác để bảo đảm bí mật ý định của ta. Chỉ có một số rất ít người trực tiếp xây dựng kế hoạch chiến cục mùa hè nói chung và chiến dịch Bê-lô-ru-xi-a nói riêng. Chỉ có năm người được biết toàn diện các kế hoạch này là: Phó tổng tư lệnh tối cao, Tổng tham mưu trưởng và Phó tổng tham mưu trưởng, cục trưởng Cục tác chiến và một cục phó Cục tác chiến. Tuyệt đối cấm thư từ, và cả những câu chuyện bằng điện thoại hay điện báo cũng không được đả động đến vấn đề này, lại có tổ chức kiểm tra theo dõi việc báo mật thật nghiêm ngặt.

Những ý định tác chiến của phương diện quân cũng chỉ có hai hay ba người xây dựng, thường phải viết tay và do chính vị tư lệnh phải tự mình đi báo cáo. Trong các đơn vị thì triển khai những công tác nhằm hoàn chỉnh việc phòng ngự. Báo chí của các phương diện quân, tập đoàn quân và sư đoàn chỉ được phép đăng những tư liệu về đề tài phòng ngự mà thôi.

Toàn bộ công tác cổ động, tuyên truyền miệng đều hướng vào việc cố thủ bám chắc lấy những trận địa đang chiếm lĩnh. Những đài phát thanh có sóng điện mạnh đều tạm thời ngừng hoạt động một thời gian. Trong mạng lưới điện đài dùng cho huấn luyện, chỉ sử dụng những đài phát có sóng yếu, bố trí cách tiền duyên ngoài 60 ki-lô-mét và hoạt động bằng dây ăng-ten thấp, dưới sự kiểm soát của điện đài đặc biệt.

Toàn bộ tổng hợp những biện pháp ngụy trang chiến dịch cuối cùng đã tỏ ra rất cần thiết. Lịch sử chứng minh là địch đã nhầm lẫn nghiêm trọng về những ý định thực sự của chúng ta. C. Típ-pen-xkhiếc-khơ, bấy giờ chỉ huy tập đoàn quân Đức 4, sau này có viết rằng tướng Mô-đen, chỉ huy mặt trận xứ Ga-li-xi-a, đã cho rằng quân Nga không thể tiến công ở đâu hết, ngoài khu vực của hắn ta. Và, bộ chỉ huy tối cao của Hít-le đã hoàn toàn đồng ý với hắn ta, nhưng công nhận thêm là mũi đột kích của chúng ta ở Ga-li-xi-a có thể kết hợp với mũi đột kích ở miền Pri-ban-tích, còn bộ đội xô-viết đang triển khai trước mặt Cụm tập đoàn quân “trung tâm” thì chỉ có ý nghĩa thứ yếu thôi.

Cả thượng tuần tháng Năm 1944, chúng tôi dành cho việc biên soạn kế hoạch chiến cục mùa hè. Những chi tiết của cuộc tiến công ở Bê-lô-ru-xi-a lại được xác định rõ thêm nhiều lần nữa. Vì không đủ lực lượng dự bị, nên chúng ta phải bỏ đề nghị của C. C. Rô-cô-xốp-xki định tiến công qua Cô-ven, nhằm đánh tan mặt sau quân địch ở phía Tây miền Pô-lê-xi-ê. Chúng ta tập trung vào phương án đã cắt giảm của chiến dịch ở phía Bắc những khu rừng và đầm lầy ven sông Pri-pi-át. Trước đó, chúng ta lại hỏi ý kiến tư lệnh phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1, đồng thời cho biết là trong thời gian sắp tới có thể cho tập đoàn quân 28 và quân đoàn xe tăng 9 phối thuộc vào phương diện quân.

C. C. Rô-cô-xốp-xki và cơ quan tham mưu của đồng chí nghiên cứu tất cả tình hình trên và báo cáo với Bộ tổng tham mưu ý kiến của mình vào ngày 11 tháng Năm. Các đồng chí cho rằng mục đích chiến dịch của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 là tiêu diệt cụm Giơ-lô-bin của bọn Hít-le, và sau đó phát triển thắng lợi tới Bô-brui-xcơ, Ô-xi-pô-vi-tri, Min-xcơ.

Trong chiến dịch ấy, những lực lượng chủ yếu của phương diện quân sẽ đột kích không phải chỉ một mũi, mà là hai mũi cùng một lúc và đều mạnh như nhau: mũi thứ nhất vào bờ phía Đông sông Bê-rê-di-na tiến ra Bô-brui-xcơ; mũi thứ hai vào bờ phía Tây từ phía Nam vu hồi vào Bô-brui-xcơ.

Tổ chức hai mũi đột kích chủ yếu, lực lượng tương đương với nhau như thế, một là để làm cho địch mất phương hướng và bị lâm vào thế bất ngờ, hai là cốt không cho chúng có thể cơ động chống lại cuộc tiến công của ta. Những hành động thứ yếu thì dự định diễn ra trên hướng Xlút-xcơ, Ba-ra-nô-vi-tsi.

Rô-cô-xốp-xki đặc biệt coi trọng ý nghĩa của việc tiến công liên tục. Nhằm loại trừ những thời gian tạm ngừng chiến thuật, và sau này là tạm ngừng chiến dịch, các đồng chí tính là đến ngày thứ ba của chiến dịch, khi đã chọc thủng tuyến phòng ngự chiến thuật của Đức thì sẽ điều tập đoàn quân 3 và quân đoàn xe tăng 9 vào dải tiến công để phát triển thắng lợi trên hướng Bô-brui-xcơ. Ngay lúc các tập đoàn quân 3 và 48 tiếp cận đến sông Bê-rê-di-na, cần điều ngay tập đoàn quân 28, sinh lực còn dồi dào, vào chỗ tiếp giáp giữa hai tập đoàn quân trên với nhiệm vụ phải đánh chiếm thành pha Bô-brút-xcơ và tiếp tục tiến công tới Ô-xi-pô-vi-tri, Min-xcơ.

Hành động theo phương pháp như thế quả là có khác thường đối với thời ấy, tư lệnh phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 dự định chia cắt những lực lượng địch đang chống cự, lần lượt tiêu diệt chúng, nhưng lại không ra sức bao vây ngay. Cục tác chiến Bộ tổng tham mưu giữ những ý kiến ấy để nghiên cứu.

Đến ngày 14 tháng Năm, xây dựng xong chiến dịch Bê-lô-ru-xi-a, chúng tôi tập hợp tất cả vào một kế hoạch thống nhất, lập thành văn kiện ngắn gọn và lên bản đồ tình huống. Tướng A. A. Grư-dơ-lốp viết tay văn kiện chiến dịch và ngày 20 tháng Năm, sau mấy hôm suy nghĩ tiếp nữa, A. I. An-tô-nốp mới ký vào văn kiện ấy.

Dù đã nghĩ nhiều đến tên gọi kế hoạch đó nhưng cho mãi đến lúc đệ trình lên Tổng tư lệnh tối cao, chúng tôi vẫn chưa tìm ra. I. V. Xta-lin đề nghị đặt tên cho kế hoạch ấy là “Ba-gra-chi-on” để nhớ đến vị tướng của dân tộc ta đã góp phần vào những chiến thắng của nước Nga trong cuộc chiến tranh chống ngoại xâm năm 1812.

Theo phương án đầu tiên của kế hoạch “Ba-gra-chi-on” thì mục tiêu chiến dịch là thanh toán chỗ lồi phòng ngự của địch ở khu vực Vi-tép-xcơ, Bô-brui-xcơ, Min-xcơ và tiến ra tuyến Đi-xna, Mô-lô-đê-tsnô, Xtôn-bơ-txư, Xta-rô-bin. Ý định chiến dịch nhằm tiêu diệt những tập đoàn hai bên sườn của quân địch, vu hồi vào hai bên sườn và đột phá phía giữa những trận địa của chúng, sau đó phát triển thắng lợi theo hai hướng, tiến tới hợp điểm ở Min-xcơ.

Tất cả lực lượng của bốn phương diện quân chúng ta, gồm ba phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a và phương diện quân Pri-ban-tích 1, đều hướng vào tiến công Cụm tập đoàn quân “trung tâm” của địch; còn một phần lực lượng không đáng kể thì phụ trách bảo đảm mặt phía Bắc và Tây – Nam của chiến dịch.

Lực lượng dự bị của Đại bản doanh cũng sẽ được cấp tốc điều vào hướng đột kích chủ yếu. Trong những ngày đầu tháng Sáu, phần tập trung ở đây hai tập đoàn quân lấy ở Crưm tới là tập đoàn quân 51 ở Đông – Nam Gô-men và tập đoàn quân cận vệ 26 khu vực I-ác-txê-vô.

Các lực lượng chủ yếu tham gia tiến công được chia thành hai cụm.

Cụm tập đoàn quân “A” gồm có phương diện quân Pri-ban-tích 1 và phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3, tất cả có 39 sư đoàn bộ binh, 2 quân đoàn xe tăng, 1 quân đoàn kỵ binh, 6 sư đoàn pháo binh (kể cả 2 sư đoàn súng cối cận vệ).

Cụm “B” có phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 và những tập đoàn quân bên sườn phải của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1, tất cả có 38 sư đoàn bộ binh, 1 quân đoàn xe tăng và một quân đoàn cơ giới, 3 sư đoàn pháo binh (trong đó có 1 sư đoàn súng cối cận vệ).

Nói chung, ta có tất cả 77 sư đoàn bộ binh, 3 quân đoàn xe tăng, 1 quân đoàn cơ giới, 1 quân đoàn kỵ binh, 6 sư đoàn pháo nòng dài và 3 sư đoàn súng cối cận vệ để tiến công 42 sư đoàn địch (theo tính toán hồi đó của chúng ta thì con số đó thấp hơn một ít), đang phòng ngự ở chỗ lồi Bê-lô-ru-xi-a.

Bộ tổng tham mưu cho là những lực lượng như thế đủ bảo đảm cho chúng ta hoàn thành được ý định của chiến dịch. Tuy vậy, ít lâu sau ta mới phát hiện ra rằng số những sư đoàn của địch cao hơn con số ta nắm được, còn phương diện quân Pri-ban-tích 2 của ta thì đang yếu đi, không đủ sức kiềm chế chặt được các đơn vị của Cụm tập đoàn quân “bắc” của địch, vì vậy cụm tập đoàn quân ấy có thể đột kích vào một bên sườn ta, trong dải của đơn vị cạnh nó ở bên phải là Cụm tập đoàn quân “trung tâm” và như thế thì quả rất nguy hiểm cho ta.

Bởi vậy, kế hoạch phải hiệu chỉnh lại, theo kết quả việc xác định lại những lực lượng và phương tiện của địch. Chúng tôi đã dự kiến là dù sao thì cũng khó tránh khỏi được những việc như thế. Vì vậy, Bộ tổng tham mưu đã tổ chức những buổi thảo luận kế hoạch với các tư lệnh phương diện quân khoảng một tháng trước lúc bắt đầu tiến công, có tính đến cả những tình huống mới nhất và đến xu hướng phải triển của tình hình trong thời gian tiếp theo đó.

Yếu tố quan trọng nhất trong kế hoạch của bất kỳ một chiến dịch nào là ý định chiến dịch. Kế hoạch “Ba-gra-chi-on” có ý định tiêu diệt hoàn toàn những lực lượng chủ yếu của địch phòng ngự ở Bê-lô-ru-xi-a. Vấn đề này được thảo luận nhiều lần và về mọi mặt với Tổng tham mưu trưởng A. M. Va-xi-lép-xki và Phó tổng tư lệnh tối cao Gh. C. Giu-cốp.

Bộ tổng tham mưu dự kiến rằng, ngay trong thời gian đột phá phòng ngự cũng đã tiêu diệt được phần lớn quân tinh nhuệ của địch trong dải phòng ngự thứ nhất của chúng, là nơi mà sinh lực của chúng tập trung dày đặc. Do chỗ quân địch dành ít đơn vị ra làm nhiệm vụ dự bị và ta lại đặt nhiều hy vọng vào đòn đột kích hỏa lực đầu tiên trong vùng chiến thuật của chúng, nên các phương diện quân của ta được tăng cường nhiều sư đoàn pháo binh đột phá.

Còn nói đến các phương pháp hành động về sau, thì chúng có khác nhau. Khu vực Vi-tép-xcơ thì đã hoàn toàn rõ ràng, ở đây hình thái chiến dịch của quân đội xô-viết sẽ là hình thái đánh vu hồi, sâu vào trung tâm căn cứ này; vì vậy hợp lý hơn hết là bao vây kết hợp với chia cắt và tiêu diệt tập đoàn địch từng bộ phận một. Thuật ngữ “bao vây” dùng ở đây không có nghĩa như ở các hướng khác. Giống như trong chiến dịch “Ru-mi-an-txép”, phương pháp hành động ở đây phải rất thận trọng.

Kinh nghiệm rút ra từ chiến dịch lịch sử Xta-lin-grát và từ những chiến dịch lớn khác chứng minh rằng bao vây và tiêu diệt quân địch trong vòng vây tốn rất nhiều bộ đội và binh khí kỹ thuật, lại mất nhiêu thời gian. Mà ở Bê-lô-ru-xi-a này thì bất kỳ một sự chậm trễ nào trên mặt trận tiến công rộng như vậy, cũng đều tạo cho địch khả năng điều những lực lượng dự bị lớn lên phía trước, để chống đỡ những đòn đột kích của ta. Đồng thời, chúng ta lại phải tính toán cả đến điều kiện địa hình rừng – đầm lầy của chiến dịch Bê-lô-ru-xi-a nữa: những điều kiện ấy không cho phép tổ chức một vòng vây dày đặc.

Trong tình huống cụ thể ấy, những phương pháp tiêu diệt địch như trước đây đều chưa thấy thích hợp. Cần phải nghĩ ra cái gì mới hơn kia. Chẳng hạn, đã nảy ra ý kiến là làm thế nào đánh tan đại bộ phận chủ yếu quân địch trong chiều sâu phòng ngự chiến thuật của chúng bằng những đòn đột kích pháo binh và không quân mạnh, hắt tàn quân của chúng ra khỏi những trận địa thiết bị sẵn, đẩy chúng vào rừng và đầm lầy, ở đó, địch sẽ lâm vào tình trạng bất lợi hơn, vì ta sẽ tiến công chúng từ chính diện, ở hai bên sườn và trên không và có cả du kích ở phía sau lưng chúng nữa. Và kết quả thì cũng sẽ như là đã hợp vây chúng và chúng ta cho rằng phương pháp hành động như vậy là tuyệt đối có lợi.

Vấn đề nhịp độ tiến công cũng được đặc biệt chú trọng trong khi xây dựng kế hoạch “Ba-gra-chi-on”. Rõ ràng, nhịp độ tiến quân của bộ đội tiến công mà cao, thì quân địch thật khó có thể tổ chức lại và tiến hành phòng ngự theo đúng kế hoạch của chúng, để rồi cuối cùng phải mất hẳn quyền chủ động phòng ngự và bị tiêu diệt hoàn toàn.

Nhưng muốn cho cuộc tiến công giữ nhịp độ cao, cần phải có những lực lượng cơ cộng, mà những lực lượng cơ động ấy thì trong thời gian xây dựng kế hoạch chiến dịch Bê-lô-ru-xi-a, chúng ta lại hầu như chưa có. Tất cả những tập đoàn quân xe tăng của ta đều ở bên cánh phía Nam của mặt trận Xô – Đức như trước.

Hơn nữa, chúng ta còn hiểu rõ là trên địa hình rừng – đầm lầy rất phức tạp của đất Bê-lô-ru-xi-a này, ta chỉ có thể sử dụng một số lượng tương đối nhỏ những đơn vị cơ động, chủ yếu là những trung đoàn, lữ đoàn, và quân đoàn xe tăng độc lập, giỏi lắm là một tập đoàn quân xe tăng.

Không còn nghi ngờ gì nữa là nếu trong biên chế của binh đoàn đang tiến công mà có một tập đoàn quân xe tăng, thì có thể làm cho nhịp độ tiến công của chiến dịch tăng rất nhanh. Thế là Bộ tổng tham mưu đã quyết định đưa vấn đề này ra khi thảo luận kế hoạch ở Đại bản doanh.

Kế hoạch được đem ra thảo luận tại Đại bản doanh ngày 22 và 23 tháng Năm, với sự tham gia của Gh. C. Giu-côp, A. M. Va-xi-lép-xki, tư lệnh bộ đội phương diện quân Pri-ban-tích 1 là I. Kh. Ba-gla-mi-an, tư lệnh bộ đội phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 là C. C. Rô-cô-xốp-xki, các ủy viên Hội đồng quân sự của các phương diện quân trên, và cả các đồng chí A. A. Nô-vi-côp, N. N. Vô-rô-nôp, N. Đ. I-a-cô-vlép, A. V. Khơ-ru-li-ốp, M. P. Vô-rô-bi-ép, L. T. Pê-rê-xứp-kin và những cán bộ Bộ tổng tham mưu, đứng đầu là A. I. An-tô-nôp. I. Đ. Tséc-ni-a-khôp-xki ốm nên vắng mặt. I. E. Pê-tơ-rốp hoạt động trên hướng thứ yếu nên không được triệu tập đến Đại bản doanh.

Họp suốt hai ngày, cuối cùng hội nghị đề ra được mục tiêu của chiến dịch Bê-lô-ru-xi-a là bao vây và tiêu diệt những lực lượng lớn của Cụm tập đoàn quân “trung tâm” trong khu vực Min-xcơ. Bộ tổng tham mưu, như đã nói ở trên, không muốn dùng cái từ “bao vây”, nhưng các đồng chí có nói rõ thêm cho thống nhất cách hiểu rằng bao vây bằng cách đồng loạt tiêu diệt trước những tập đoàn hai bên sườn của địch là tập đoàn Vi-tép-xcơ và Bô-brui-xcơ và cả những lực lượng của chúng tập trung ở Mô-ghi-li-ốp nữa, rồi nhân thể mà mở ngay đường ra tới thủ đô của Bê-lô-ru-xi-a bằng hai hướng vu hồi hợp điểm.

Trong quá trình thảo luận ý định chiến dịch, đã xác định phần những tập đoàn đột kích của các phương diện quân, giải quyết vấn đề tăng cường các đơn vị cơ động cho những tập đoàn ấy. Cả đề nghị của Bộ tổng tham mưu về việc sử dụng một tập đoàn quân xe tăng trên hướng chủ yếu của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3 đã được thỏa mãn, và tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 được điều động đến đây. Chiều sâu và nhịp độ chiến dịch đều dự kiến là sẽ tăng lên ngay lúc tung các tập đoàn quân binh chủng hợp thành trong đội dự bị của Đại bản doanh vào hoạt động. Và, quyết định tiến công bắt đầu vào ngày 15-20 tháng Sáu.

I. Kh. Ba-gra-mi-an đề nghị hướng những nỗ lực của phương diện quân Pri-ban-tích 1 chủ yếu vào việc bảo đảm cho chiến dịch không bị Cụm tập đoàn quân “bắc” phản đột kích trở lại. Các đồng chí đã đồng ý với Ba-gra-mi-an. Nhiệm vụ của phương diện quân này có thay đổi một ít: nó không được quy định là sẽ tham gia trực tiếp vào việc bao vây quân địch ở phía Đông Min-xcơ. Phương diện quân Pri-ban-tích 1 phải tiến công vu hồi từ phía Nam vào Pô-lat-xcơ. Cắt những lực lượng chủ yếu của Cụm tập đoàn quân “bắc” ra khỏi cánh quân địch đang hoạt động ở khu vực chính giữa. Ngoài ra, lại có dự kiến giải quyết việc bảo đảm chiến dịch ở mặt phía Bắc bằng những hành động tích cực của phương diện quân Pri-ban-tích 2 nữa.

Cỏn sườn phía Nam thì chúng ta ít lo lắng hơn, vì miền Pô-lê-xi-ê sẽ bảo vệ chắc chắn cho nó, và mũi đột kích từ trong tung thâm ra sẽ hạn chế việc phản cơ động của quân địch, hơn nữa là trong quá trình chiến dịch “Ba-gra-chi-on”, phương diện quân U-crai-na 1 phải mở cuộc tiến công trên hướng Lơ-vốp nên không cần phải tách những lực lượng lớn ra để bảo đảm cho mặt sườn ấy.

Phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 có nhiệm vụ kiềm chế quân địch càng nhiều càng tốt, không để cho bộ chỉ huy của bọn Hít-le sử dụng lực lượng của chúng chống lại mũi cơ động vu hồi của hai phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và 3. Về mặt này, I-van E-phi-mô-vích Pê-tơ-rốp đã có đầy đủ kinh nghiệm, và chúng ta có thể yên tâm được.

Ngày 24 tháng Năm, sau khi khỏi bệnh, I. Đ. Tséc-ni-a-khốp-xki đến Mát-xcơ-va. Cùng đi với đồng chí có ủy viên Hội đồng quân sự V. E. Ma-ca-rôp. Các đồng chí mang theo kế hoạch chiến dịch của phương diện quân do chính Gh. C. Giu-côp cùng với A. M. Va-xi-lép-xki nghiên cứu và căn bản tán thành.

Nhưng ngày 25 tháng Năm, lúc báo cáo kế hoạch ở Đại bản doanh, phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3 lại được đề nghị xây dựng kế hoạch mở hai mũi đột kích đồng thời vào hai hướng Bô-gu-sép-xcơ và Oóc-sa. I. Đ. Tséc-ni-a-khốp-xki, V. E. Ma-ca-rốp và chủ nhiệm hướng là đại tá V Ph. Me-rơ-nốp phải nghiên cứu suốt đêm kế hoạch ấy. Trong kế hoạch chiến dịch mới này, có nói rõ là phương diện quân được tăng cường tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 và một sư đoàn pháo binh đột phá.

Trước khi trời sáng, Tséc-ni-a-khôp-xki, Ma-ca-rôp và tôi đến “biệt thự xa” của Xta-lin trên đường phố Đi-mi-tơ-rô-xcôi-ê. Tổng tư lệnh tối cao nghe báo cáo của chúng tôi và phê chuẩn kế hoạch, không bổ sung gì thêm.

Sau đó, chúng tôi dốc hết tâm lực vào việc bảo đảm vật chất cho cuộc tiến công ở Bê-lô-ru-xi-a. Những đoàn tàu chở bộ đội, vũ khí, trang bị kỹ thuật và những vật tư quân sự khác ở khắp mọi nơi đổ về phía Bê-lô-ru-xi-a. Hai tập đoàn quân binh chủng hợp thành Crưm dần dần được điều tới. Chúng tôi cố tìm mọi cách giữ kín những việc ấy.

Ngày 21 tháng Năm, tư lệnh phương diện quân U-crai-na 4 nhận lệnh phải tuân thủ những biện pháp giữ bí mật hết sức nghiêm ngặt trong việc chuyên chở bằng đường sắt. Cấm chỉ việc trao đổi thư từ về vấn đề này và gần như đình hẳn việc đi công tác về Mát-xcơ-va của các sĩ quan và tướng lĩnh. Ở các ga, cứ tàu đến là các đội tuần tra nhanh chóng vây chặt lấy đoàn tàu; người ra khỏi toa phải có lệnh. Các cơ quan đường dây của cục giao thông vận tải quân sự và cán bộ trong Bộ dân ủy giao thông cũng không được thông báo gì hết ngoài số liệu của đoàn tàu.

Lúc bắt đầu điều động tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5, thì phát hiện ra rằng các đồng chí ở phương diện quân U-crai-na 2 muốn giữ lại một phần xe tăng và những trung đoàn pháo tự hành. Ý muốn của phương diện quân cố nhiên cũng có thể hiểu được, nhưng làm yếu tập đoàn quân là sai với dự tính của Bộ tổng tham mưu. Vì vậy, phương diện quân U-crai-na 2 nhận được chỉ thị sau đây:

“Điều tập đoàn quân xe tặng cận vệ 5 đi thì phải có trong biên chế quân đoàn của Vôp-tsen-cô và quân đoàn của Ki-ri-tsen-cô với toàn bộ số người, vật chất, khí tài và tài sản. Cả hai quân đoàn đều phải có ít nhất là 300 xe tăng”.

Trong khi thực hiện việc điều động bộ đội và tích lũy những phương tiện vật chất cần thiết cho cuộc tiến công sắp tới chúng tôi luôn luôn lo lắng đến khâu vận tải bằng đường sắt. Khâu này rất nặng và có thể làm cho chúng ta gặp khó khăn. Những ý nghĩ về việc phải kịp thời hoàn thành việc chuyên chở bằng đường sắt tựa hồ chiếc đinh nhọn cắm vào xương tủy của cán bộ Cục tác chiến Bộ tổng tham mưu.

Chúng tôi đã báo cáo nhiều lần mối lo lắng ấy với Xta-lin. Nhưng Tổng tư lệnh tối cao tin vào bộ trưởng Bộ dân ủy giao thông, và ít lâu sau đồng chí cũng phát hiện ra rằng chính mình đã đánh giá quá cao những khả năng của đồng chí đó. Đường sắt không giải quyết được nhiệm vụ đúng thời hạn, nên chiến dịch mở ra chậm mất mấy ngày.

Song song với công tác lớn là tập trung bộ đội và những thư dự trữ cho cuộc tiến công ở Bê-lô-ru-xi-a, cố nhiên chúng tôi vẫn phải tiếp tục hoàn chỉnh mọi chi tiết tác chiến của kế hoạch chiến cục mùa hè nói chung. Bộ tổng tham mưu nghiên cứu những ý kiến về các chiến dịch Vư-boóc-gơ và Via – Pê-tơ-rô Đa-vốt-xcơ, do bộ tư lệnh phương diện quân Lê-nin-grát, đứng đầu là đại tướng L. A. Gô-vô-rốp và bộ tư lệnh phương diện quân Ca-rê-li-a, đứng đầu là đại tướng K. A. Mê-rét-xcốp gửi lên.

Như đã nói ở trên, mọi người đều tin chắc vào kết cục thắng lợi của hai phương diện quân và chuỗi chiến thắng của Quân đội tiên Xô trong mùa hè năm 1944 sẽ bắt đầu bằng những hành động của các phương diện quân ấy. Sau đó, thắng lợi nối tiếp thắng lợi sẽ truyền qua tay bộ đội trên hướng chủ yếu là hướng Bê-lô-ru-xi-a và trong quá trình tiến công, lại truyền sang những tập đoàn quân của phương diện quân U-crai-na 1 hiện đang dưới quyền chỉ huy của I. X. Cô-nép.

Quy mô những hành động tích cực của quân đội xô-viết phải tăng lên không ngừng như vậy, để cho cuộc tiến công của ta đến cuối mùa hè sẽ biến thành tảng tuyết lở từ trên núi xuống như vũ bão cuốn phăng mọi chướng ngại, làm cho bộ máy chiến tranh của Đế chế thứ ba không thể nào đứng vững được nữa. Chính phủ chúng ta không giấu giếm các nước đồng minh của mình về việc đó.

Ngày 30 tháng Năm, những ý định tác chiến của Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô đã được thể hiện hoàn chỉnh trên bản đồ của Bộ tổng tham mưu. Ngày 31 tháng ấy, đã ra những chỉ thị thích hợp cho các phương diện quân, và đến ngày 6 tháng Sáu thì I. V. Xta-lin viết cho U Sớc-sin:

“Cuộc tiến công mùa hè của quân đội xô-viết tổ chức theo thỏa ước ở hội nghị Tê-hê-ran, đến giữa tháng Sáu sẽ bắt đầu trên một trong những khu vực quan trọng của mặt trận.

Cuộc tổng tiến công của quân đội xô-viềt sẽ triển khai thành từng giai đoạn liên tục điều những tập đoàn quân bước vào những chiến dịch tiến công. Cuối tháng Sáu và trong tháng Bảy, các chiến dịch tiến công sẽ biến thành cuộc tổng tiến công của quân đội xô-viết”.

Bức thông điệp ấy mang nội dung xác thực và khá chi tiết về những ý định tác chiến của chúng ta.

Tiếp theo chỉ thị về cuộc tiến công ở Bê-lô-ru-xi-a, các đồng chí đại diện của Đại bản doanh lập tức xuống ngay các mặt trận. Trước hết, các đồng chí có nhiệm vụ kiểm tra xem chỉ thị có được hiểu đúng đắn không, tất cả các đồng chí tư lệnh đã rõ nhiệm vụ của mình chưa và có hiểu như nhau không. Rồi các đồng chí đại diện của Đạt bản doanh phải cùng với bộ tư lệnh và các cơ quan tham mưu phương diện quân nghiên cứu những phương pháp tốt nhất để sử dụng các lực lượng và phương tiện sẵn có, tổ chức hiệp đồng và sau đó là kiểm tra chặt chẽ việc chấp hành kế hoạch đã được phê chuẩn. Các đồng chí còn có nhiệm vụ giúp đỡ các phương diện quân bảo đảm vật chất – kỹ thuật cho chiến dịch.

Gh. C. Giu-cốp có nhiệm vụ phối hợp những hoạt động của các phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và 2. A. M. Va-xi-lép-xki được cử xuống phối hợp những hành động của phương diện quân Pri-ban-tích 1 với phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3, là những phương diện quân mà các đồng chí tư lệnh còn chưa đủ kinh nghiệm tổ chức và tiến hành những chiến dịch của phương diện quân theo quy mô lớn. Tséc-ni-a-khôp-xki trước đó nói chung chưa chỉ huy phương diện quân. Vì vậy, A. M. Va-xi-lép-xki không những chỉ có thiên tài của một vị chỉ huy quân sự lớn, mà lại còn có tính cách của một nhà giáo dục, đến đây rất có ích.

Tôi được cử đến phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2, đứng đầu nhóm sĩ quan của Bộ tổng tham mưu. Tình hình công tác của tôi có đôi nét độc đáo: một mặt tôi trực thuộc quyền đồng chí Gh. C. Giu-cốp, đại diện của Đại bản doanh, nhưng mặt khác tôi lại có quyền quan hệ trực tiếp với Tổng tham mưu trưởng và cùng với đồng chí giải quyết tất cả những vấn đề trong quá trình chuẩn bị chiến dịch.

Song song với việc phải hoàn thành nhiều nhiệm vụ khác, tôi còn nhiệm vụ cùng với đồng chí G. Ph. Da-kha-rốp, tư lệnh mới của phương diện quân vừa được chỉ định thay I. E. Pê-tơ-rốp, tiến hành mọi công việc đưa phương diện quân đi vào nề nếp và giúp đồng chí ít nhất là trong thời kỳ đầu. Trong nhóm sĩ quan Bộ tổng tham mưu còn có thượng tướng I-a. T. Tsê-rê-vi-tsen-cô, chủ yếu đến để tổ chức kiểm tra việc huấn luyện chiến đấu.

Việc thay thế I. E. Pê-tơ-rốp là do chỉ thị riêng của I. V. Xta-lin. Một hôm, tôi cùng với An-tô-nôp đến báo cáo thường kỳ ở Đại bản doanh. Tổng tư lệnh tối cao nói là I. D. Mê-khơ-li-xơ, ủy viên Hội đồng quân sự phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2, có viết thư cho đồng chí biết rằng tính khí nhu nhược và sự bất lực của Pê-tơ-rôp không thể bảo đảm chiến dịch thắng lợi được. Mê-khơ-li-xơ còn báo cáo là Pê-tơ-rốp có vẻ bệnh hoạn, hay lui tới bác sĩ, mất rất nhiều thì giờ.

Việc này hoàn toàn bất ngờ đối với chúng tôi. Chúng tôi biết I. E. Pê-tơ-rốp là một người chỉ huy chiến đấu quên mình, toàn tâm toàn ý cống hiến cho sự nghiệp, là một người chỉ huy quân sự rất sáng suốt, một con người rất tốt, đồng chí đã bảo vệ Ô-đét-xa, Xê-va-xtô-pôn, xây dựng phòng ngự ở Tê-rếch. Tôi nhiều lần được công tác bên cạnh đồng chí trong Cụm Biển Đen, trong phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ, trong tập đoàn quân độc lập miền Duyên hải và tôi vững tin vào phẩm chất đảng viên cũng như phẩm chất người chỉ huy cua đồng chí.

Có lẽ, Xta-lin có một định kiến nào đấy đối với Pê-tơ-rốp. Mới tháng Giêng, I. E. Pê-tơ-rốp bị thôi giữ chức tư lệnh tập đoàn quân độc lập miền Duyên hải, sang tháng Năm đồng chí được cử giữ chức vụ cao hơn là tư lệnh phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2, và một tháng rưỡi sau lại bị bãi chức; rồi qua hai tháng nữa, đến ngày 5 tháng Tám cũng năm 1944 ấy, đồng chí lại được cử giữ chức tư lệnh phương diện quân, và lần này là tư lệnh phương diện quân U-crai-na 4.

Trung thực mà nói thì Pê-tơ-rốp đã dũng cảm chịu đựng những thử thách ấy và ở bất kỳ cương vị nào đồng chí cũng đã cống hiến cho Tổ quốc tất cả những cái gì mình có: tri thức, kinh nghiệm và sức khỏe.

Người kế tục I. E. Pê-tơ-rốp ở phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 là thượng tướng G. Ph. Da-kha-rop, một người tính tình dễ thay đổi, sôi nổi không đúng mức. Tôi rất lo ngại về việc đồng chí sẽ luận giải theo ý mình kế hoạch chiến dịch đã được Đại bản doanh phê chuẩn, gây khó khăn trong mối quan hệ với tham mưu trưởng phương diện quân là trung tướng A. N. Bô-gô-liu-bốp, một cán bộ có kinh nghiệm, nhưng cũng rất nóng tính. Thêm nữa L. D. Mê-khơ-li-xơ lại vẫn ở đây

Nhiệm vụ của tôi thật không dễ dàng: phải làm sao cho việc thay thế các đồng chí tư lệnh không gây hậu quả nghiêm trọng. Tại đài chỉ huy của phương diện quân, chính I. E. Pê-tơ-rốp tự mình báo cáo tình huống và kế hoạch những hành động sắp tới. Tôi có mặt trong buổi báo cáo ấy.

Trong biên chế của phương diện quân lúc này có ba tập đoàn quân binh chủng hợp thành: tập đoàn quân 33 do trung tướng V. Đ. Cri-u-tren-kin chỉ huy, tập đoàn quân 49 do trung tướng I. T. Gri-sin chỉ huy và tập đoàn quân 50 của trung tướng I. V. Bôn-đin. Thượng tướng không quân K. A. Véc-si-nhin, mà tôi biết khi ở Cu-ban và Crưm, chỉ huy tập đoàn quân không quân. Bộ máy chỉ huy phương diện quân khá vững; nòng cốt của nó là những tướng lĩnh và sĩ quan đã trải qua nhiều kinh nghiệm chiến đấu và thông thạo công việc của mình.

Nghĩ tới tâm trạng của I. E. Pê-tơ-rôp, ta có thể lo là khi báo cáo, đồng chí sẽ không tiếc lời nói đến những hoàn cánh phức tạp, phóng đại những khó khăn lên. Thật tôi chẳng muốn như thế chút nào, vì như thế thì chỉ làm cho người tư lệnh mới đâm ra thiếu tin tưởng. Nhưng không có gì xảy ra hết. Mọi việc vẫn bình thường. Pê-tơ-rốp báo cáo với thái độ rất chính trực. Đối với đồng chí, cả trong trường hợp ấy lợi ích công tác được đặt lên trên hết, còn những xúc phạm cá nhân thì đều gạt sang một bên.

Qua báo cáo, không thấy có chỗ nào khó hiểu, hoặc thiếu rõ ràng, minh bạch về nhiệm vụ của phương diện quân và những phương pháp giải quyết nhiệm vụ đó. Giá như nửa tháng trước đây, Đại bản doanh nhận được những ý kiến chín chắn như vậy của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 thì việc này làm sao lại có thể xảy ra được.

Mục tiêu tiến công hiện ra rất chính xác: tiêu diệt cụm Mô-ghi-li-ôp của địch và tiến ra sông Bê-rê-di-na. Hướng đột kích chủ yếu và đoạn đột phá được chọn đúng theo nguyên tắc là từ khu vực Đô-ri-bin, Đét-nhi-a, Ri-át-xna, vu hồi mặt phía Bắc vào Mô-ghi-li-ôp chia cắt những đơn vị địch đang chống cự và tiêu diệt chúng từng bộ phận một. Trong quá trình phát triển đột kích, dự kiến sẽ chiếm căn cứ bàn đạp bên bờ Tây sông Đni-ép-rơ ở phía Bắc Mô-ghi-li-ốp và đánh chiếm thành phố.

Bây giờ, Bộ tổng tham mưu chỉ không đồng ý về việc tập kết những lực lượng của phương diện quân và việc cơ động có phần nào rắc rối, phức tạp khi đột phá phòng ngự địch. Chẳng hạn tập đoàn quân 49 không những chỉ đột kích chỗ yếu mà còn làm cả nhiệm vụ đột kích thứ yếu vào Bô-rơ-đi-ni-tri, Gô-rơ-bô-vi-tri, Xlô-bốt-ca. Những tập đoàn quân khác thì hành động trên những hướng của mình và kết quả là làm cho lực lượng của phương diện quân bị phân tán, có hại tới kết cục của chiến dịch; cho nên tất nhiên không thể cho phép làm như vậy

Vì thế, trong chỉ thị đề ngày 31 tháng Năm, Đại bản doanh trực tiếp đề nghị là phải có ít nhất 11 hay 12 sư đoàn cùng với những phương tiện tăng cường trên hướng chủ yếu và đột kích thành một mũi chung; như vậy sẽ tập trung được những nỗ lực cần thiết của phương diện quân và bảo đảm đột phá vào toàn bộ chiều sâu hệ thông phòng ngự của địch.

Lúc bàn giao phương diện quân cho tư lệnh mới, Pê-tơ-rốp nói thẳng những điều ấy, hơn nữa còn nhấn mạnh tính chất hợp lý rõ rệt của những điểm mà Đại bản doanh đã sửa chữa và bổ sung. Sau đó, hội nghị lần lượt nghe những báo cáo của tham mưu trưởng, tư lệnh các binh chủng, chủ nhiệm các cơ quan. Xong, I-van E-phi-mô-vích Pê-tơ-rop chia tay với mọi người và lên đường.

Sáng hôm sau, đồng chí tư lệnh mới đi vào tìm hiểu bộ đội. Chúng tôi cùng nhau xuống tập đoàn quân 49 và xem xét ngay tại trận địa hai trung đoàn trong các sư đoàn bộ binh 290 và 95. Cả hai trung đoàn đều đưa lại cho chúng tôi một ấn tượng dễ chịu: biên chế được kiện toàn đầy đủ, bộ đội được huấn luyện tốt.

Tuy vậy, điều làm cho chúng tôi sửng sốt là trong các phân đội chiến đấu hầu như hoàn toàn không có ai được Chính phủ khen thưởng cả. Thậm chí có những chiến sĩ, trung sĩ, trung đội trưởng, đại đội trưởng và tiểu đoàn trưởng đã ở trong hàng ngũ ngay từ ngày đầu của cuộc chiến tranh và đã nhiều lần chiến đấu rất dũng cảm, bị một số thương tích, mà vẫn chưa được tặng thưởng huân chương và huy chương. Trái lại, trong các đơn vị hậu cần, số người được khen thưởng thấy khá nhiều. Tất nhiên, tôi đã cố gắng với tất cả khả năng của mình để sửa chữa tình trạng không công bằng ấy.

Đúng như chúng tôi dự kiến, Da-kha-rôp tuyên bố ngay rằng ở đây cái gì cũng đều xấu cả và buộc đồng chí phải sửa chữa lâu dài những khuyết điểm của người khác. Tiếp theo đó đồng chí phản đối cả hướng đột kích chủ yếu của cuộc tiến công đang chuẩn bị.

Bên ngoài thì những lý lẽ của đồng chí nghe như rất hợp với lô-gích: tại sao lại buộc bộ đội phải vượt sông Prô-nhi-a trong quá trình tiến công, trong khi tập đoàn quân 50 bạn đã có một căn cứ bàn đạp sẵn sàng rồi? Da-kha-rop yêu cầu chuyển những nỗ lực của phương diện quân vào dải của tập đoàn quân 50 mà không chịu nghiên cứu ngoài thực địa.

Trong khi đó, ở khu vực căn cứ bàn đạp thì địa hình lại bị địch khống chế không cho phép ta sử dụng được triệt để lực lượng đột kích chủ yếu là pháo binh. Còn trên địa đoạn đột phá do Pê-tơ-rôp quy định và đã được Bộ tổng tham mưu tán thành thì pháo binh có đủ khả năng chế áp chắc chắn toàn bộ vùng chiến thuật phòng ngự của địch, cho nên càng thấy rõ sự cần thiết phải vượt sông. Mà con sông Prô-nhi-a này cũng chẳng phải là vật chướng ngại nghiêm trọng lắm.

Mãi tới khi tôi đã trình bày tất cả những ý kiến trên và tuyên bố dứt khoát rằng: quyết định này đã được Đại bản doanh phê chuẩn và muốn thay đổi đi mà không được sự đồng ý của Đại bản doanh là không được, thì Da-kha-rốp mới chịu thu mình lại, xin rút ý kiến.

Một việc không dễ chịu thứ hai nữa cũng xảy đến do đồng chí vào ngày 7 tháng Sáu. Hôm ấy ở đài chỉ huy của I. T. Gri-sin có triệu tập một cuộc họp các tư lệnh quân đoàn vả sư đoàn, để nghe báo cáo của các đồng chí ấy về tình huống và giao một số nhiệm vụ huấn luyện cho bộ đội và những cơ quan chỉ huy chuẩn bị cho tiến công.

Hội nghị họp trong căn lán kiểu như lán quân y. Mọi người đều chú ý nhìn đống chí tư lệnh mới. G. Ph. Da-kha-rốp bắt gặp những cái nhìn ấy và mở đầu hội nghị bằng chuyện kể chi tiết về tiểu sử của mình, nhất là các chặng đường chiến đấu đã qua. Bỗng nhiên, chẳng rõ vì nguyên cớ gì, đồng chí chuyển sang nghị luận về sự khác nhau giữa cuộc họp trong chiến đấu với các hội nghị thông thường. Cái từ “chiến đấu” được nhấn mạnh rất hăng, rồi sau đó đồng chí kéo một hơi:

- Ở đây tôi sẽ nói, còn các đồng chí thì chỉ có nghe và ghi những chỉ thị của tôi.

Đồng chí tư lệnh yêu cầu chứng minh ngay tại trận là mọi người sẽ ghi chép vào đâu. Những cánh tay cầm những tờ giấy và sổ tay rách nát giở lên. G. Ph. Da-kha-rốp liền ra lệnh phải phát ngay những cuốn sổ công tác đã đóng sẵn và giải thích khá dài dòng về tác dụng của những quyển sổ ấy.

Tất nhiên là mọi người đều được phát những cuốn sổ đó để chuẩn bị ghi những chỉ thị, nhưng nào có thấy chỉ thị gì. Thay cho việc ra chỉ thị, đồng chí tư lệnh bèn chỉ định một số người tham gia hội nghị đứng dậy, và lần lượt hỏi từng người một về điều lệnh, về chiến thuật chiến đấu binh chủng hợp thành. Nhiều đồng chí nhầm lẫn, trả lời sai. Da-kha-rốp lại càng nóng tiết và đi tới chỗ nói năng thô bạo. Không khí thật căng thẳng, cần phải tìm cách ra khỏi tình trạng này. Nhận thấy hội nghị đã khá dài, tôi bèn đề nghị tạm ngừng để giải lao.

Trong lúc các đồng chí tư lệnh các quân đoàn, sư đoàn ra khỏi lều hút thuốc và dè dặt trao đổi cảm tưởng với nhau, tôi đã kịp thời góp ý với Da-kha-rôp. Tôi cố thuyết phục đồng chí là không nên tiếp tục giữ mãi tinh thần và thái độ như vậy. Sau khi nghỉ giải lao, đồng chí có thay đổi, nói chuyện thiết thực hơn, và chỉ thị nhiều điều quan trọng nhằm chuẩn bị đột phá phòng ngự địch.

Dù hội nghị lúc ban đầu không được dễ chịu cho lắm, nhưng về sau giữa đồng chí tư lệnh mới với các thính giả đã bắt đầu có sự thông cảm. Các đồng chí chỉ huy đã bình tĩnh lại và chăm chú nghe.

Nhưng đến khi đồng chí tư lệnh lấy cuốn “Sổ tay đột phá phòng ngự” ghi lại những trận chiến đấu ở Crưm ra làm mẫu mực cho mọi người noi theo, mà lại không bổ khuyết gì thêm, thì mọi người lại xôn xao lên. Như thế cùng dễ hiểu thôi, vì ở Ta-vri-a địa hình toàn là đồng cỏ, bằng phẳng như mặt bàn, trận địa của hai bên trên mặt trận của tập đoàn quân cận vệ 2, do Da-kha-rốp chỉ huy ở đấy, gần như giáp sát nhau. Trong tình huống ấy, cuốn “Sổ tay” khuyên người ta phải áp dụng bước lao nhanh vượt qua khoảng cách đến chiến hào địch ngay sau khi pháo chuyển làn bắn, điều đó là hợp lý.

Nhưng ở đây, trên đất Bê-lô-ru-xi-a này, phía trước tiền duyên của chúng ta là dải đất trũng thấp của con sông Prô-nhi-a rộng đến 2 ki-lô-mét, mà địch lại bố trí ngay ở bờ bên kia có rừng che khuất, thì không thể nào áp dụng phương pháp lao nhanh băng qua khoảng trống như vậy được. Bởi thế, những phương pháp hành động ấy đem dùng ở Ta-vri-a thì đúng, nhưng không thích hợp ở đây.

Trước cảnh xôn xao của cử tọa, đồng chí tư lệnh nói chữa là phải có sáng tạo khi vận dụng bất kỳ kinh nghiệm nào. Cuốn “Sổ tay” mang từ Crưm đến thế là thôi không phát nữa, và hội nghị kết thúc bình thường. Về sau này, G. Ph. Da-kha-rốp lại say sưa theo dõi những phương pháp hành động của bộ đội luôn luôn đáp ứng với những điều kiện của tình huống, phù hợp với những đặc điểm của tình hình.

Việc chọn những phương pháp hành động hợp lý nhất của bộ đội trong cuộc tiến công sắp tới đã được các đồng chí tư lệnh các cấp, đặc biệt quan tâm. Cơ quan tham mưu nào cũng suy nghĩ đến vấn đề ấy. Cả các đồng chí đại điện Đại bản doanh đã làm việc rất nhiều về mặt này.

Chẳng hạn, Gh. C. Giu-cốp ít ra cũng suốt hai tuần liền làm việc từ sáng sớm đến tận đêm khuya, nghiên cứu vấn đề: làm thế nào để kết liễu số phận quân địch ở khu vực Bô-brui-xcơ một cách tốt nhất?

Để tìm câu giải đáp, Ghê-oóc-ghi Côn-xtan-ti-nô-vích Giu-cốp đã xuống cánh phải của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1, ở phía Bắc miền Pô-lê-xi-e, cùng với C. C. Rô-cô-xôp-xki triệu tập hội nghị, lấy ý kiến của các tư lệnh tập đoàn quân P. I. Ba-tốp, A. V. Goóc-ba-tốp, P. L. Rô-ma-nen-cô, X. I. Ru-đen-cô. Đồng chí chủ nhiệm pháo binh phương diện quân V. I. Ca-da-côp và chủ nhiệm bộ đội xe tăng thiết giáp G. N. Ô-ren cũng được mời đến họp.

Sau khi nghiên cứu đặc điểm địa hình và hệ thống phòng ngự của địch, mọi người thông nhất ý kiến là: nếu ta chiếm được ở đây một khu vực rộng trong hệ thống phòng ngự của địch, và sau khi đột phá, hợp vây được quân Đức, thì cơ sở của toàn bộ tập đoàn của chúng ở Bê-lô-ru-xi-a sẽ bị bóc trần và hệ thống phòng ngự của chúng sẽ bị sụp đổ hoàn toàn. Nhưng muốn làm được việc ấy thì phải tin tưởng triệt để là ta sẽ thực hiện được việc bao vây trong một thời gian ngắn, và cũng chỉ trong một thời gian không lâu, quân địch sẽ bị tiêu diệt. Còn trong trường hợp để chiến dịch kéo dài ra, thì nó sẽ kéo theo nhiều hậu quả nặng nề.

Đồng chí đại diện của Đại bản doanh làm việc ngoài thực địa trong dải của từng tập đoàn quân, cân nhắc nhiều điều, tính toán kỹ lưỡng những phương án của chiến dịch, cuối cùng thừa nhận dứt khoát rằng phương pháp giải quyết nhiệm vụ của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 – bao vây địch ở khu vực Bô-brui-xcơ rồi tiếp đó tiêu diệt quân bị bao vây của chúng – là phương pháp tốt nhất. Vàn đề đau đầu này, có thể nói mãi đến ngày 19 tháng Sáu mới được giải quyết.

Trên những hướng khác, tình hình cũng tương tự như vậy. Chẳng hạn ở phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3 và phương diện quân Pri-ban-tích 1, A. M. Va-xi-lép-xki đang công tác ở đây và nghiên cứu rất cẩn thận tình huống trong dải của từng tập đoàn quân.

Chúng ta lại đặc biệt quan tâm tới phương pháp sử dụng các binh chủng, nhất là pháo binh và không quân. Vì căn cứ ý định của chiến dịch, pháo binh và không quân bắt buộc phải đột kích hỏa lực vào vùng phòng ngự chiến thuật của quân Đức, để cho quân ta nhanh chóng thọc vào vùng phòng ngự chiến dịch của chúng.

Tất cả, từ các đồng chí đại diện Đại bản doanh và tư lệnh phương diện quân tới các đại đội trưởng và khẩu đội trưởng đều nghĩ cách làm sao để pháo bắn chuẩn bị xung phong được tốt hơn. Ta đã áp dụng mọi biện pháp để xác định cho thật rõ những mục tiêu quan trọng nhất, tính toán những khả năng của màng lưới pháo binh các loại, những biện pháp tiến hành hỏa lực, xác định những điều kiện và nội dung hiệp đồng giữa pháo binh, không quân, xe tăng và bộ binh.

Vì thế đã ra đời những kiểu bắn ứng dụng thật đặc sắc. Như ở phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 đã thiết kế ra một kiểu bắn gọi là “phi lôi”, rất đơn giản. Các đồng chí dùng đai thùng bằng sắt lắp một thùng gỗ tròn có hình dạng hợp với khí động học vào đầu đạn phản lực M- 13. Trong thùng có chứa chất nổ tô-lít lỏng. Trọng lượng chung của trái phi lôi từ 100 tới 130 ki-lô-gam. Các đồng chí lắp một bộ phận điều chỉnh vào phía đuôi “phi lôi” để giữ thăng bằng khi bay. Khi phóng thì dùng một chiếc hòm gỗ, trong đặt hai thanh sắt làm đà trượt; hòm đặt xuống một hố đào sẵn, chếch với góc độ phóng tương ứng. Tùy ý ta, có thể phóng “phi lôi” từng loạt, 5 đến 10 trái một lúc cũng được.

Ngày 9 tháng Sáu, chúng ta đã tiến hành bắn thử: bắn 26 trái, từng trái một và bắn từng loạt. Cự ly đạn rơi xa tới 1.400 mét, với tiếng nổ cực mạnh, và đào thành một hố đạn đường kính 6 mét, sâu 3 mét trên đất sét. Bộ tư lệnh phương diện quân cho việc sử dụng những trái “phi lôi” này vào giai đoạn pháo bắn chuẩn bị là hợp lý, và ít ra cũng phải dùng tới 2.000 trái.

Như vậy là phải kiếm cho ra một số đạn phản lực M-13 tương đương. Lúc này, tất cả các phương diện quân đều cần đến những đạn phản lực ấy, cho nên phải dựa vào uy tín của Bộ tổng tham mưu mới xong. Kết quả là có đủ số đạn và những trái “phi lôi” tự tạo đã góp phần thắng lợi cho uy lực của đòn đột kích hỏa lực vào hệ thống phòng ngự địch.

Chúng ta cũng đã nghĩ nhiều đến việc sử dụng xe tăng. Địa hình ở đây gây nhiều khó khăn cho xe tăng cơ động vị toàn là rừng và đầm lầy. Trong điều kiện đó, đã có nhiều đồng chí cho rằng chỉ có thể sử dụng xe tăng thành từng phân đội nhỏ, làm nhiệm vụ trực tiếp chi viện cho bộ binh. Nhưng như vậy lại sinh ra nguy cơ phải xé nhỏ những quân đoàn xe tăng: đó là điều mà chúng ta không được phép làm. Bộ tổng tham mưu vẫn tin chắc rằng: muốn phát triển chiến dịch thắng lợi thì nhất thiết phải tập trung những mũi đột kích của xe tăng vào sâu trong tung thâm.

Số xe tăng cần thiết cấp bách nhất cho hai tập đoàn quân 28 và 48 để trực tiếp chi viện cho bộ binh được giải quyết bằng cách lấy những trung đoàn xe tăng độc lập và pháo tự hành. Vì vậy những quân đoàn xe tăng vẫn được giữ nguyên vẹn và sau đó đã hành động với hiệu lực cao trên hướng Bô-brui-xcơ và Xlút-xcơ.

Đối với tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 thì vấn đề số xe tăng cũng được giải quyết đúng. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 là một binh đoàn chiến dịch mạnh, có những cán bộ và chiến sĩ giàu kinh nghiệm. P. A. Rốt-mi-xtơ-rốp làm tư lệnh tập đoàn quân này. Ý định lúc ban đầu là cho tập đoàn quân bước vào hành động ngay sau khi đột phá phòng ngự chiến thuật của địch, để phát triển thắng lợi trên hướng Oóc-sa, hồi đó được coi là hướng chủ yếu.

Nhưng ngày 17 tháng Sáu, trong khi thảo luận báo cáo của A. M. Va-xi-lép-xki về kế hoạch hành động của các phương diện quân Pri-ban-tích 1 vả Bê-lô-ru-xi-a 3 ở chỗ Tổng tư lệnh tối cao, ta thấy là hướng Oóc-sa ít triển vọng. Vì vậy, mới nảy ra ý kiến là có thể sử dụng tập đoàn quân xe tăng ở phía Bắc Oóc-sa trong dải của tập đoàn quân binh chủng hợp thành 5, vì ở đấy trận địa quân Đức yếu hơn. Dự kiến cũng vẫn là đưa xe tăng vào giao chiến, sau khi đột phá phòng ngự chiến thuật của địch.

Lựa chọn phương án sử dụng xe tăng hợp lý nhất thuộc quyền đồng chí đại diện Đại bản doanh, còn thời gian giao tập đoàn quân xe tăng cho phương diện quân thì do Bộ tổng tham mưu chịu trách nhiệm và phải được chính Tổng tư lệnh tối cao phê chuẩn. Như vậy, cho đến khi làm thật rõ vấn đề sử dụng tập đoàn quân xe tăng ở đâu là tốt nhất và vào thời gian nào thì Đại bản doanh vẫn trực tiếp nắm tập đoàn quân ấy.

Việc phát triển thắng lợi chiến dịch ở phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 được tiến hành theo những phương pháp khác, phương diện quân không có những binh đoàn xe tăng lớn. Nhưng nghiên cứu kỹ nhiệm vụ mới, ta thấy rằng nếu không có tập đoàn cơ động thì phương diện quân cũng khó làm trọn nhiệm vụ. Vì vậy, yêu cầu phải có tập đoàn cơ động, trước hết là để sử dụng vào thời cơ quyết định, thọc sang bờ phía Tây Sông Đni-ép-rơ, ở phía Bắc Mô-ghi-li-ốp, chiếm lấy căn cứ bàn đạp và chốt tại đấy, chờ những lực lượng chủ yếu của tập đoàn quân 49 tiếp cận đến. Chúng tôi lo rằng nếu không thì địch có thể rút quân về tăng cường cho phòng ngự để cố thủ bên bờ sông Đni-ép-rơ.

Tập đoàn cơ động của ta được thành lập, với biên chế gồm 1 sư đoàn bộ binh, 2 lữ đoàn xe tăng, 1 lữ đoàn pháo tiêm kích chống tăng và những phân đội đặc chủng khác. Tướng A. A. Ti-u-rin, phó tư lệnh tập đoàn quân 49, chỉ huy tập đoàn cơ động ấy. Trong quá trình chiến dịch, đồng chí thực sự đã chỉ huy tập đoàn của mình tiến lên phía trước, tiến công vượt sông Đni-ép-rơ trong khu vực Đô-bơ-rây-ca và hiệp đồng với tập đoàn quân không quân 4 đánh lui những đợt phản xung phong của địch, tạo điều kiện cho toàn thể tập đoàn đột kích của phương diện quân tiến công.

Chúng ta đã đặt hy vọng rất lớn vào không quân trên tất cả các hướng. Chuẩn bị tiến công trong điều kiện địa hình rừng – đầm lầy, ta không thể không dự kiến rằng lúc bắt đầu truy kích địch, pháo binh của ta sẽ phải tụt lại sau. Vì không có những đường hành quân riêng cho pháo binh, nên dù muốn hay không, để cho pháo cơ động thay đổi trận địa hỏa lực cũng phải sử dụng những con đường mà bộ đội các binh chủng đã đi chật như nêm. Vì vậy, khó lòng tránh khỏi bị giảm sút hỏa lực của pháo binh chi viện lúc phát triển thắng lợi. Cho nên chỉ có không quân mới bù vào chỗ trống này được.

Ngay từ ngày 7 tháng Sáu, A. M. Va-xi-lép-xki đã cùng với I. Đ. Tséc-ni-a-khôp-xki và phó tư lệnh các lực lượng không quân Ph. I-a. Pha-la-lê-ép nghiên cứu chi tiết kế hoạch tiến công bằng không quân. Tuy vậy, về sau có bổ sung thêm những điều sửa đổi quan trọng, vì Gh. C. Giu-cốp nảy ra ý định sử dụng không phải chỉ không quân của phương diện quân, mà cả không quân hoạt động tầm xa nữa, để góp sức vào việc tiêu diệt Cụm tập đoàn quân “trung tâm” của địch.

Ngày 10 tháng Sáu, theo đề nghị của Ghê-oóc-ghi Côn-xtan-ti-nô-vích Giu-cốp, Tổng tư lệnh tối cao cử tư lệnh các Lực lượng không quân A. A. Nô-vi-cốp đến Bê-lô-ru-xi-a. Sau đó, cả đồng chí tham mưu trưởng các Lực lượng không quân X. A. Khu-đi-a-cốp, tư lệnh A. E. Gô-lô-va-nôp và phó tư lệnh không quân hoạt động tầm xa N. X. Xcơ-ríp-cô cũng đến đấy.

Ngày 19 tháng Sáu, dưới sự lãnh đạo của Gh. C. Giu-cốp, với sự tham gia của chủ nhiệm Tổng cục pháo binh N. Đ. Ia-côp-lép và của hai đồng chí tư lệnh các tập đoàn quân không quân X. I. Ru-đen-cô và C. A. Véc-si-nhin đã chuẩn xác dứt khoát việc cơ động số máy bay hiện có, nhằm bảo đảm cho hai phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và 2. Những đòn đột kích bằng không quân đã hiệp đồng chặt chẽ với pháo binh về thời gian, mục tiêu và từng giai đoạn tiến công. 350 máy bay hoạt động tầm xa đã được tách ra bổ sung cho phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3.

Nhưng dẫu thế nào, sau này cũng không phải là mọi việc đều trôi chảy cả mà không có những điều phiền phức. Tôi lo nhất là những hoạt động của không quân trong phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2. Có đủ cơ sở để lo điều ấy.

Vấn đề trước hết là ở chỗ, trong dải của phương diện quân có con đường cái từ Mô-ghi-li-ốp đi Min-xcơ tuy bị phá hoại nặng, nhưng vẫn đi lại được; nó như sợi chỉ dài vắt ngang qua một miền có nhiều rừng rộng. Đại bộ phận chủ yếu quân địch bị đánh tan sẽ rút về theo con đường này và tập đoàn quân không quân 4 tất nhiên sẽ đột kích từ trên không xuống, tạo ra nhiều nút ùn lại trên đường, gây thêm cho địch nhiều thiệt hại về sinh lực và khí tài.

Những bến vượt sông Bê-rê-di-na – một con sông tương đối rộng, nhưng lại ít cầu – cũng đều là những mục tiêu đáng đột kích hơn cả. Cố nhiên là không quân cần có nhiều nhiên liệu, nhưng lúc ấy thì ta còn thiếu. Nhiên liệu nằm trong những kho tàng ở vùng ngoại ô Mál-xcơ-va. Các đồng chí hứa sẽ chở đến, nhưng chỉ còn mấy ngày nữa là bắt đầu chiến dịch mà vẫn chưa thấy gì hết. Mãi tới sát ngày tiến công mới thấy tới.

Không quân hoạt động tầm xa cũng có nhiều điều phải lo lắng. Về nguyên tắc, thì mọi cách sử dụng không quân hoạt động tầm xa đã rõ ràng, nhưng trong thực tế có lắm điều khác. Hai nguyên soái Giu-côp và Va-xi-lép-xki tổ chức cuộc chiến đấu ở bên phải và bên trái phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2, nắm toàn bộ hoạt động của không quân tầm xa. Sau khi nhận được đề nghị khẩn cấp của chúng tôi, Ghê-oóc-ghi Côn- xtan-ti-nô-vích Giu-côp tách ra cho chúng tôi một số máy máy hoạt động tầm xa, nhưng việc ấy mới còn ở trên giấy.

Thật vậy, đến tận giờ phút cuối cùng, chúng tôi cũng vẫn không thể giao nhiệm vụ cho những máy bay ném bom hạng nặng được, vì chưa có đại biểu của không quân hoạt động tầm xa trong cơ quan tham mưu của phương diện quân Bê-lô- ru-xi-a 2. Lực lượng ấy dường như thôi không nằm trong kế hoạch hỏa lực của phương diện quân nữa. Nhưng, khi chiến dịch bắt đầu thì lại có sự thay đổi mới: phương diện quân Bê-iô-ru-xi-a 1 chuyển sang tiến công chậm lại một ngày sau những phương diện quân khác và không quân hoạt động tầm xa theo kế hoạch cho phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1, bây giờ lại bảo đảm cho phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2.

Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu đã dùng đủ mọi phương pháp, cố gắng triệt để xóa bỏ những yếu tố thiếu tổ chức. Và phải nói rằng trong thời gian này, Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu đã thực hiện được việc đó một cách dễ dàng hơn nhiều so với trước đây. Các đồng chí chỉ huy dần dần vững vàng hơn, tác phong chỉ huy và công tác tham mưu được nâng cao lên. Các đồng chí đã trở thành những người thợ cả, thực sự lành nghề trong công việc của mình, ở đâu cũng đều thấy các sĩ quan và tướng lĩnh trưởng thành vô cùng nhanh chóng, trình độ tổ chức của các đồng chí phát triển cao, những hiểu biết về quân sự càng thêm sâu. Vì vậy, trước mọi khó khăn đề ra trên đường giành lấy mục tiêu, cuối cùng chúng ta đều đã vượt qua thắng lợi.

Trong suốt thời gian chuẩn bị cho chiến dịch Bê-lô-ru-xi-a, các đồng chí chỉ huy và cán bộ tham mưu của ta từ trên xuống dưới đều chăm chú theo dõi địch. Trinh sát viên ngày đêm sục sạo, bắt tù binh để lấy khẩu cung. Bộ đội nói chung tiến hành quan sát không ngừng mọi hoạt động bên trận địa địch. Các đồng chí trợ lý ra sức đi sâu phát hiện cho được những ý định còn giữ kín của đôi phương. Típ-pen-xkiếc, tư lệnh tập đoàn quân Đức 4, như ta biết, là một viên tướng có trình độ cao. Bày giờ hắn đang nghĩ gì, đang ôm ấp những kế hoạch như thế nào?

Ngày 10 tháng Sáu, ở khu vực Mô-ghi-li-ôp, các đội viên du kích thuộc đội du kích 540 của I. I. Đôm-brốp-xki là trung úy Ni-gma-tu-lin, Vô-xpa-nốp, Mô-xca-lép, Pô-giô-van-nưi và Cô-xma-trép bắt được một tên sĩ quan tham mưu thuộc sư đoàn mô-tô 60 của địch. Lúc hỏi khẩu cung, ta được biết rõ là binh đoàn này từ Nác-va đến, đang ở trong tình trạng thiếu hụt lớn, cần được bổ sung gấp, và hiện đang bố trí ở dọc đường cái Mô-ghi-li-ốp – Min-xcơ. Như vậy là thế nào? Đó là một việc ngẫu nhiên hay quân địch đã đánh hơi thấy cuộc tiến công của ta và đang chuẩn bị kế hoạch để đánh lui cuộc tiến công ấy?

Việc giữ bí mật những hành động tiến công, càng gần tới ngày mở đầu chiến dịch càng thêm khó khăn. Thật khó mà che giấu việc vận chuyển, triển khai và huấn luyện bộ đội. Nhưng dù sao chúng ta vẫn tin chắc là sẽ làm được tốt những việc ấy

Dĩ nhiên, việc xuất hiện một sư đoàn mô-tô mới của địch trong dải của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 đã làm cho chúng ta lo lắng. Chúng ta càng chú ý nghiên cứu kỹ hơn những thông báo hàng ngày về chế độ hoạt động của hỏa lực pháo binh địch, về đặc điểm hành động không quân của chúng. Hình như mọi thứ vẫn như trước, không thấy có gì thay đổi quan trọng. Dần dà, dựa vào nhiều dấu hiệu, chúng ta tin chắc rằng cái sư đoàn mô-tô 60 kia đến đây chỉ là để bổ sung mà thôi.

Rồi những công việc bận rộn khác cũng đều trôi qua cả, đặc biệt là việc huấn luyện cho bộ đội những hành động thiết thực trên địa hình độc đáo ở Bê-lô-ru-xi-a này, và trong những tình huống thật sát với chiến đấu. Nguyên tắc thì mọi người đều nắm vững, nhưng trong thực tế không phải lúc nào ta cũng đều làm đúng.

Ngày 11 và 12 tháng Sáu, tôi cùng với G. Ph. Da-kha-rốp dự những cuộc diễn tập của các sư đoàn bộ binh 32 và 290. Nom bề ngoài thì những cuộc diễn tập ấy hết sức bình thường. Các chiến sĩ ngụy trang tốt, bò rất khéo và dũng mãnh hô “u-ra!”, xung phong vào “quân địch”. Nhưng dầu vậy vẫn không cảm thấy tinh thần chiến đấu thực sự. Không một ai bắn đạn thật cả, thậm chí đến bia cũng không có. Cần phải có ý kiến. G. Ph. Da-kha-rôp liền ra lệnh là từ nay về sau trong những cuộc diễn tập như thế phải bắn đạn thật.

Trong hoàn cảnh ở tiền tuyên, những vấn đề ấy thật không đơn giản. Ở đây, không có thao trường và trường bắn có thiết bị sẵn. Nhưng chỗ rắc rỗi chủ yếu không phải ở đấy. Khó khăn hơn cả là phải làm sao huấn luyện cho thật sát với tình huống thực tế của cuộc tiến công sắp tới và đồng thời lại không làm lộ những ý định thực của ta. Trong việc tổ chức những cuộc diễn tập như vậy ở phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2, I-a. T. Tsê-rê-vi-tsen-cô đã tỏ ra rất xuất sắc, đúng là một chuyên gia lớn của công tác huấn luyện. Đồng chí xuống tận các phân đội và sự giúp đỡ của đồng chí thật là lớn. Những cố gắng của ta trong thời gian ấy về sau đều được đền bù xứng đáng.

Những viên tướng phát-xít Đức bị bắt làm tù binh ở Min-xcơ đều hết sức kinh ngạc khi thấy những binh đoàn thiện chiến của chúng lại bị thất bại dễ dàng đến thế. Còn đối với chúng ta thì việc đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Kết quả những hành động chiến đấu ấy đã được đặt nền móng từ thời kỳ chuẩn bị đột kích. Trước lúc bắt đầu tiến công, chúng ta đã tiến hành ít nhất là mười cuộc diễn tập cho từng tiểu đoàn trong các sư đoàn của thê đội một.

Và trong những phương diện quân khác, tình hình huấn luyện cũng tương tự như vậy. Bộ đội và các cơ quan tham mưu đã nghiên cứu để nắm chắc chính những nhiệm vụ sẽ phải giải quyết trong chiến đấu. Hiệp đồng giữa bộ binh, pháo binh và xe tăng được tổ chức rất chính xác, mà chủ yếu là ở khâu tiểu đoàn bộ binh và pháo binh. Bộ binh được huấn luyện “áp sát” những điểm đạn rơi của pháo binh; còn pháo binh thì bắn và chuyển làn bắn khớp với những hành động của bộ binh và xe tăng.

Trong quá trình diễn tập hợp đồng các binh chủng, tình hữu nghị chiến đấu giữa những đại biểu các binh chủng càng được củng cố. Các tiểu đoàn trưởng bộ binh và pháo binh thân thiết nhau hơn, và điều đó đã góp phần rất quan trọng vào việc phối hợp tuyệt đẹp các hành động chiến đấu

Chiến dịch Bê-lô-ru-xi-a có một số đặc điểm về việc chỉ huy bộ đội. Xuất phát từ những chỉ thị của Đại bản doanh ngày 31 tháng Năm, cơ sở chỉ huy ở khâu chiến dịch được chỉ ra như sau: nhiệm vụ trước mắt của phương diện quân chỉ hạn chế trong chiều sâu từ 60 tới 70 ki-lô-mét, còn nhiệm vụ tiếp sau không được quá 200 ki-lô-mét. Đối với phương diện quân Pri-ban-tích 1 và phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 thì nhiệm vụ tiếp sau nói chung chỉ được quy định dưới dạng chỉ thị về hướng tiến công.

Bây giờ có một số đồng chí chỉ trích điểm này. Cá biệt có đồng chí cho rằng, đặt kế hoạch như vậy không bảo đảm cho cơ quan tham mưu phương diện quân quan niệm được rõ ràng những hành động sau này của phương diện quân và có ảnh hưởng tiêu cực đến việc nghiên cứu trước những biện pháp bảo đảm chiến dịch của phương diện quân.

Trong chừng mực nào đó, sự việc có thể diễn ra như vậy. Nhưng Bộ tổng tư lệnh tối cao xô-viết đã có ý không giao ngay cho bộ đội nhiệm vụ trong toàn bộ chiều sâu của chiến dịch có tính chất chiến lược này.. Đã có nhiều ý kiến phản đối việc ấy.

Trước hết, việc giao nhiệm vụ cho các phương diện quân toàn bộ chiều sâu của chiến dịch, tất nhiên có nghĩa là sẽ phải sử dụng tương đối chặt chẽ những lực lượng và phương tiện của các phương diện quân trên hướng đã chọn, trong lúc tình huống buộc ta phải có những cách xử trí ngược lại: phải giữ gìn mọi khả năng để cơ động linh hoạt và nhanh chóng.

Vì ý định của những chiến dịch là phải tiêu diệt địch trong vùng phòng ngự chiến thuật và chỉ bao vây những lực lượng lớn của chúng sau khi đã đánh bật chúng ra khói trận địa. Những việc ấy sẽ diễn ra ở đâu, nơi nào cụ thể thì ta chỉ mới dự kiến trước mà thôi. Cũng không thể loại trừ trường hợp: địch sẽ cơ động rút những lực lượng chủ yếu của chúng về những trận địa phòng ngự mới, ở sâu mãi trong tung thâm phòng ngự của chúng.

Ngày nay, chúng ta mới biết rõ là bộ chỉ huy Đức đã thực sự thảo luận phương án ấy. Mà như vậy thì sẽ nguy hiểm, vì mũi đột kích của ta sẽ đánh vào chỗ trống, và bắt buộc Bộ tổng tư lệnh Liên Xô phải hoàn toàn xây dựng lại kế hoạch tiến công. Nếu như đã giao nhiệm vụ cho các phương diện quân toàn bộ chiều sâu của chiến dịch, thì việc xây dựng lại kế hoạch như thế càng gặp khó khăn hơn nữa.

Do vậy, phải giao nhiệm vụ cho các phương diện quân thế nào để từng phương diện quân có khả năng hành động chủ động, thích hợp với hoàn cánh. Theo quan điểm của chúng tôi cách giao nhiệm vụ của Đại bản doanh như vậy đã hoàn toàn đáp ứng những yêu cầu đó.

Cũng không thể quên rằng bộ đội ta ở Bê-lô-ru-xi-a đã nhiều lần chịu thất bại. Các cuộc tiến công của ta đã bị chặn lại ở nơi gần tuyến phía sau của vùng phòng ngự chiến thuật. Vì trong chiến dịch sắp đến, vùng phòng ngự chiến thuật rất mạnh, ta cần phải làm tất cả những gì có thể, để cho bộ đội tập trung sự chú ý và lực lượng trước hết vào việc đột phá những tuyến chiến thuật. Với quan điểm như vậy, việc quy định nhiệm vụ hạn chế trong một chiều sâu nhất định đối với thê đội một của các phương diện quân cùng là hợp lý.

Cuối cùng, chiều sâu nhiệm vụ của các phương diện quân hạn chế nhất định như vậy sẽ đặt ra cho các tư lệnh phương diện quân một trách nhiệm cao đối với việc dự kiến tiến trình phát triển về sau của các sự kiện. Đồng thời, Đại bản doanh cũng tính là trong hai ngày 22 và 23 tháng Năm, việc tiến hành thảo luận rộng rãi cùng với những hội đồng quân sự của các phương diện quân về chiến dịch có tính chất chiến lược nói chung, đã giúp cho các hội đồng quân sự của các phương diện quân tất cả những gì cần thiết để thực hiện huấn luyện bộ đội chặt chẽ đúng với tinh thần những quyết tâm đã được thông qua. Các đồng chí tư lệnh các phương diện quân đều có đầy đủ khái niệm về khả năng phát triển của chiến dịch, nghĩa là các đồng chí ấy có thể vững lòng để chỉ huy và bảo đảm chiến dịch.

Thêm nữa, lại có những đồng chí đại diện của Đại bản doanh, một là Phó tổng tư lệnh tối cao, hai là Tổng tham mưu trưởng, ở trực tiếp tại chỗ để theo dõi và giúp đỡ việc chấp hành thật đúng nội dung và tinh thần các chỉ thị của Đại bản doanh. Và, các đồng chí ấy lại là những thành viên am hiểu tường tận nhất việc xây dựng kế hoạch tấn công với những quy mô chiến lược, nghĩa là trong những trường hợp khẩn cấp, bao giờ cũng có thể ra chỉ thị trực tiếp bổ sung nhiệm vụ cho các phương diện quân, và trong thực tế các đồng chí cũng đã làm như vậy.

Các đồng chí ấy giữ một vai trò hết sức lớn trong việc tập trung những phương tiện vật chất, kỹ thuật cần thiết cho cuộc tiến công. Chẳng hạn có vấn đề sau đây, thật khó mà giải quyết trong các phương diện quân Pri-ban-tích 1 và Bê-lô-ru-xi-a 3, là hai phương diện quân phải đưa vào chiến đấu một số lượng xe tăng lớn, kể cả tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5. Ngay ngày mồng 8 tháng Sáu, A. M. Va-xi-lép-xki điện báo cáo lên Đại bản doanh:

“Việc chuyển giao những gì đã định cho Tséc-ni-a-khôp-xki bị chậm. Chẳng hạn như ở chỗ Ô-bu-khốp, hết ngày 5 tháng Sáu phải đưa đến đủ, nhưng đến ngày hôm nay mới có 50%”

Ba ngay sau, A-lếch-xan-đrơ Mi-khai-lô-vích Va-xi-lép-xki lại trực tiếp đề nghị với bộ trưởng Bộ dân ủy giao thông phải đẩy mạnh tốc độ vận chuyển, và phải chuyên chở cho hết, không được để chậm quá ngày 18 tháng Sáu. Tuy vậy, ngày 17 tháng Sáu, đồng chí lại gửi một báo cáo khẩn về Đại bản doanh:

“Công tác vận chuyến đường sắt rất căng, gây nên mối lò ngại không tập trung được kịp thời một số đơn vị cho phương diện quân, và cả việc chuyển giao một số hàng tiếp tế”

Ở phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1, tình hình cũng hệt như vậy. Ngày 11 tháng Sáu, Gh. C. Giu-cốp báo cáo cho Tổng tư lệnh tối cao:

“Công tác vận chuyển đạn dược cho phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 tiến hành rất chậm. Trong một ngày đêm, phương diện quân nhận được chỉ có một hay hai chuyến… Có cơ sở để tin chắc rằng phương diện quân sẽ không được bảo đảm đúng thời hạn đã định”.

Nhịp độ chuyên chở bộ đội cũng rất chậm: chẳng hạn lữ đoàn pháo binh có uy lực mạnh và ba trung đoàn pháo tự hành có nguy cơ đến muộn. Quân đoàn cơ giới Cra-xnô-grát 1 của trung tướng X. M. Cri-vô-sê-in bị nghẽn dọc đường, và đến hết ngày 12 tháng Sáu mới có tất cả 5 đoàn xe của quân đoàn tới nơi.

Những tiểu đoàn ô-tô cần thiết và nhiên liệu cho máy bay không làm sao đến được phương diện quân Bê-lô-ru-xỉ-a 2.

Những báo cáo của các đồng chí đại diện Đại bản doanh đã khiến cho I. V. Xta-lin phải chú ý phòng ngừa. Tổng tư lệnh tối cao hỏi ý kiến các phương diện quân xem có thể bắt đấu chiến dịch đúng thời hạn được không. A. M. Va-xi-lép-xki thẳng thắn trả lời Tổng tư lệnh tối cao rằng: “thời hạn dứt khoát bắt đầu chiến dịch nói chung phụ thuộc vào công tác vận chuyển của đường sắt; về phía mình, chúng tôi đã và đang làm hết mọi việc để giữ được đúng thời hạn đồng chí đã quy định”.

Chắc là Xta-lin đã có tác động đến các đồng chí làm công tác vận tải. Kế hoạch vận chuyển đường sắt chưa thỏa mãn được các phương diện quân, đã phải đem ra nghiên cứu lại. Cuối cùng, công tác vận tải cũng bắt đầu tiến hành với tốc độ cao hơn. Việc tập trung bộ đội nhờ thế được đầy mạnh. Tuy vậy, thời hạn bắt đầu chiến dịch cũng vẫn bắt buộc phải lùi từ ngày 19 tới ngày 23 tháng Sáu.

Và từ ngày ấy cho đến cuối tháng Tám, chiến dịch vĩ đại Bê-lô-ru-xi-a không một phút im tiếng súng. Ngay ngày đầu chiến dịch, phòng ngự của quân địch đã bị chọc thủng trên nhiều hướng, và bộ đội chúng ta tiến nhanh lên phía trước, không một sức gì ngăn nổi.

Nhưng, cuộc chiến đấu không phải chỉ thuận chiều, dễ dàng. Những tù binh bị bắt khai rằng chúng được lệnh phải cố thủ trong những trận địa đang chiếm lĩnh bằng bất cứ giá nào. Và, chúng đã hành động với đầy đủ dã tâm cuồng bạo và quyết liệt. Nhưng, sức chống cự của quân địch vẫn bị bẻ gãy và đợt sóng tiến công của quân đội xô-viêt ngày càng lan xa mãi sang phía Tây.

“Cuộc kết thúc đang đến gần… Chỉ còn những tàn quân bị hoang mang của 30 sư đoàn thoát khỏi chết và không bị bắt làm tù binh), – một trong những viên tướng sừng sỏ của bọn Hít-le là Xíc-phơ-rít Phôn Vét-phan đã nhận xét đặc điểm cuộc tiến công của quân đội xô-viêt ở Bê-lô-ru-xi-a như vậy.

Chiến dịch “Ba-gra-chi-on” một lần nữa chứng minh hùng hồn tính ưu việt của nghệ thuật quân sự xô-viết so với nghệ thuật quân sự của cái Đế chế phát-xít Đức. Địch bị hất tung ra khỏi những trận địa kiên cố của chúng, rồi sau đó trong một số ngày nhất định đã bị hợp vây và tiêu diệt.

Trong quá trình chiến dịch, quân đội ta đã tạo ra ba lò lửa bao vây lớn những khu vực Vi-tép-xcơ, Bô-brui-xcơ và Min-xcơ. Min-xcơ là lò lửa bao vây hết sức lớn; tuy vậy cũng vẫn không giữ chân những lực lượng lớn của Quân đội xô-viết ở đây lâu. Cuộc tiến công triển khai trên một chính diện hơn một nghìn ki lô mét đã tiến hành với tốc độ tiến quân trung bình mỗi ngày hơn 20 ki-lô-mét.

Cũng cần nhấn nhấn mạnh điều này nữa, là bộ chỉ huy tối cao của quân địch không những đã bị lừa nên phán đoán sai những hướng nỗ lực chủ yếu của quân ta trong giai đoạn chiến tranh này, mà lại còn không ngờ rằng đòn đột kích của ta lại mạnh đến thế, sắc như mũi kiếm.

Việc chuẩn bị chiến dịch, do Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu phối hợp chặt chẽ với các bộ tư lệnh phương diện quân và cơ quan tham mưu của các phương diện quân, cùng tiến hành lâu dài và thận trọng, đã được chứng minh là hoàn toàn đúng. Ý định sâu xa và những kế hoạch chiến dịch xây dựng tỉ mi trong tay Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô là một trong những phương tiện để giành thắng lợi có tầm quan trọng lịch sử.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx