sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Các Thông Điệp Chánh Trị Mà Kim Dung Đưa Ra Trong Một Số Đề Tài Quan Trọng Được Ông Trình Bày Và Mổ Xè.

Ngoài thông điệp mà Kim Dung nhắn gởi cho những ngưởi hoạt động chánh trị qua sự tích các nhơn vật chánh yếu trong các bộ truyện võ hiệp nổi tiếng của ông, lại còn một sổ thông điệp chánh trị khác mà ta có thể nhận thấy qua các vấn đềquan trọng được ông trình bày và mổ xẻ một cách sâu sắc và hấp dẫn.

Người tranh đấu chánh trị có thể phân ra làm hai hạng: một hạng chỉ biết có quyền lợi của mình và trắng trợn nhìn nhận điều này, và một hạng công khai dựa vào một chánh nghĩa. Trong hạng sau này, lại có người thật sự tin tưởng nơi chánh nghĩa mình nêu ra, và người chỉ lợi dụng nó chớ không thành tâm phục vụ nó. Vậy, chánh nghĩa được nêu ra trước hết là để thâu hút sự tán thành và ủng hộ của quần chúng. Nhưng đối với một số người, nó cũng là một lý tưởng biểu tượng cho một lẽ phải cao qui thúc đẩy họ tranh đấu một cách dũng mãnh và liên tục. Dầu thế nào thì vấn đề chánh nghĩa cũng là một vấn đề quan trọng vào bực nhứt trong công cuộc tranh đấu chánh trị. Nó là một trong những yếu tố mang sự thành công đến cho người tranh đấu, vì kẻ tranh đấu cho quyền lợi mình và trắng trợn nhìn nhận điều này thường bị nhiều người chống đối và khó có thể triệt hạ hay chế ngự hết mọi người để đem phần thắng lợi cuối cùng về cho mình.

Trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung, ta có thể nhận thắy hai loại chánh nghĩa: một loại dựa vào dân tộc và một loại dựa vào một đạo lý có tánh cách tổng quát hơn.

I. Chánh nghía dựa vào dân tộc.

a. Bản chất của chánh nghĩa dựa vào dân tộc.

Từ khi đã được văn minh, loài người đã thành lập những cộng đồng có tổ chức, nếu nhỏ và thuần túy về huyết thống thì gọi là bộ tộc, còn lớn và có huyết thống phần nào bị pha trộn thì gọi là dân tộc. Ai cũng sanh ra bên trong một cộng đồng như vậy và được nhàu nắn từ nhỏ theo nếp sống vật chất và tinh thần của bộ tộc hay dân tộc của mình nên tự nhiên có những mối liên hệ tình cảm rất sâu đậm với nó. Nói chung thì phần lớn con người đều xem bộ tộc hay dân tộc của mình cao quí hơn bộ tộc hay dân tộc khác. Họ cũng muốn cho bộ tộc hay dân tộc minh vượt lên trên và chế ngự các bộ tộc và dân tộc khác, hay it nhứt cũng không bị bộ tôc hay dân tộc khác chế ngự. Bởi đó, việc phục vụ bộ tộc hay dân tộc tự nhiên trở thành một chánh nghĩa làm động lực cho cuộc tranh đấu chánh trị. Chánh nghĩa này lại càng trở thành cấp thiết để huy động người theo phục vụ nó khi bộ tộc hay dân tộc bị sự uy hiếp hay bị sự chế ngự của bộ tộc hay dân tộc khác.

Giai đoạn làm khung cảnh cho các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung là một giai đoạn trong đó người Hán tộc đã bị sự uy hiếp hay sự chế ngự của những người thuộc bộ tộc khác. Người Khiết Đơn lập nước Đại Liêu đã gây áp lực nặng nề ở phía đông bắc Trung Quốc. Họ Thát Bạt thuộc tộc Tiên Ti lập nước Tây Hạ cũng đã nhiều lần lấn vào biên cảnh của Trung Quốc ỏ phía tây bắc để cướp bóc. Sau đó, người Nữ Chân lập nước Đại Kim đã chiếm đoạt Hoa Bắc trong tay người Hán. Người Mông Cổ đi xa hơn, đã chinh phục cả Trung Quốc để lập nên nhà Nguyên. Sau nữa, người Mãn Châu, một giống dân thuộc tộc Nữ Chân, cũng đã chinh phục Trung Quốc và lập nhà Thanh. Bởi đó, trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung, chánh nghĩa dân tộc đã đóng một vai tuồng rất quan trọng đổi với những người Trung Hoa thuộc Hán tộc.

Nói chung thì việc đề cao bộ tộc hay dân tộc mình dễ đưa đến việc xem các bộ tộc hay dân tộc khác là thù địch. Bởi đó, chánh nghĩa dân tộc thường xây dựng trên lòng căm hận bộ tộc hay dân tộc thù địch với mình và điều này làm cho người xem bộ tộc hay dân tộc thù địch đó là tàn bạo hung ác và còn ở trong tình trạng mọi rợ dã man.

Kim Dung dĩ nhiên là đã mô tả điều này trong các bộ truyện võ hiệp nổi tiếng của ông. Nhưng ông cũng đồng thời nêu ra nhiều khía cạnh khác rất đặc biệt để cho chúng ta thấy rằng vấn đề thật sự rất phức tạp chớ không phải là đơn giản như người ta có thể lầm tưởng.

b. Chánh nghĩa dân tộc và các nhân vật chánh yếu trong các truyện võ hiệp Kim Dung.

Nếu chì lấy sự tích các nhân vật chánh yếu đã được nêu ra trên đây để nghiên cứu về vấn đề này, chúng ta có thể nhận thấy rằng chỉ có Lịnh Hồ Xung là hoàn toàn không có liên hệ gì đến sự giiao tiếp giữa Hán tộc với các bộ tộc khác. Phần Hư Trúc thì chỉ có liên hệ đến sự giao tiếp đó ở chỗ ông đã cưới một công chúa Tây Hạ làm vợ. Nhưng điều này không gây trở ngại gì cho công việc của ông hav của các bạn ông.

Mộ Dung Phục và Đoàn Dự thì ở trong những hoàn cảnh rất đặc biệt. Mộ Dung Phục vốn là người thuộc tộc Tiên Ti và mưu đồ chiếm một phần lãnh thổ người Hán để lập nước Đại Yên. Đoàn Dự là người của nước Đại Lý, nhưng tổ tiên ông lại là người Hán tộc và nói chung thì nước Đại Lý của ông trước sau vẫn có sự giao hảo với ngưởi Hán tộc chớ không có sự thù hiềm.

Riêng Dương Khang là người Hán tộc nhưng lại vì ham mê phú quí mà nhận làm con của Hoàng Nhan Liệt, thân vương nước Đại Kim. Ông đã tận lực giúp đỡ nước Đại Kim trong mưu đồ chinh phục đất của Đại Tống. Vậy, ông đã hoàn toàn đi ngược lại chánh nghĩa dân tộc. Do đó, ông đã bị sỉ vả là người nhận giặc làm cha và phản dân hại nước. Trong số những nhơn vật có vấn đề cần phải giải quyết khi muổn phục vụ chánh nghĩa dân tộc thì người ít bị rắc rối nhứt là Trương Vô Kỵ. Ông là người cầm đầu cuộc tranh đấu của người Hán để tự giải phóng khỏi ách thống trị của người Mông Cổ đã thành lập nhà Nguyên. Nhưng người yêu ông là Triệu Minh lại là con gái của một thân vương Mông Cổ đương cầm binh đánh lại các tổ chức người Hán chống đối triều đình. Tuy nhiên, Triệu Minh đã yêu Trương Vô Kỵ đến mức từ bỏ gia tộc và địa vị của mình để theo ông. Lúc đã theo Trương Vô Kỵ rồi, Triệu Minh mặc dầu không trực tiếp giúp đỡ ông chọi lại quân Mông Cổ, cũng đã không chút nào ngăn trở ông trong việc thi hành nhiệm vụ của ông đối với Hán tộc, nên Trương Vô Kỵ đã không phải lọt vào một hoàn cảnh khó xử.

So với Trương Vô Ky, Quách Tĩnh ở vào một tình trạng rắc rối hơn. Lúc nhỏ, ông đã ở đất Mông Cổ và đã được người Mông Cổ tiếp nhận và dưỡng dục. Ổng đã từng hợp tác với các nhà lãnh đạo Mông Cổ đi tranh đấu cho quyền lợi dân Mông Cổ. Do đó, ông đã được Thành Cát Tư Hán yêu mến và hứa gả con gái là Công Chúa Hoa Tranh. Riêng Đà Lôi là con trai của Thành Cát Tư Hãn đã kết nghĩa anh em với ông. Vậy, có thể nói rằng Quách Tĩnh đã có những liên hệ tình cảm và quyền lợi sâu đậm với người Mông Cổ. Nhưng sau đó, các nhà lãnh đạo Mông Cổ lại có ý định xâm chiếm lãnh thổ nhà Đại Tổng của người Hán Tộc. Họ đã tỏ ý sẵn sàng trọng dụng Quách Tĩnh và cho ông một địa vị cao và một thế lực lớn nếu ông chịu hợp tác với họ. Do đó, Quách Tĩnh đã phải chọn lựa giữa chánh nghĩa dân tộc với quyền lợi cùng tình cảm cá nhơn của ông. Tuy bản tánh chậm chạp, ông đã quyết định về vấn đề này một cách nhanh chóng và đã cương quyết đứng về phia chánh nghĩa dân tộc. Ổng đã sẵn sàng lén vào đại bản dinh Mông Cổ để hành thích vị chủ tướng của địch quân mặc dầu vị chủ tướng đó chính là Đà Lôi, người đã từng kết nghĩa anh em với ông.

Có lẽ Quách Tĩnh phần nào dễ quyết định vì thân mẫu ông đã dạy ông bài học yêu nước từ lúc bé. Bà lại đã tự tử sau khi bị Thành Cát Tư Hãn ra lịnh bắt đi để Quách Tĩnh khỏi bị uy hiếp và bắt buộc phải phục vụ người Mông Cổ. Vậy, bà đã vì Thành Cát Tư Hãn mà chết. Mặt khác, Quách Tĩnh thật sự không yêu Công Chúa Hoa Tranh mà lại yêu Hoàng Dung. Điều này thêm vào việc mẹ mất vì Thành Cát Tư Hãn làm cho ông dễ dàng đứng về phía dân tộc minh để chống lại Mông Cổ.

So với Quách Tĩnh, hoàn cảnh Dương Quá lại càng éo le hơn. Dương Quá vổn đã thấy cảnh người Mông Cổ sát hại ngưởi Hán tộc và rất căm phẫn. Nhưng sau khi được biét rằng Quách Tĩnh và Hoàng Dung có dính dáng đến cái chết của thân phụ mình là Dương Khang mà không biết rõ thật sự Dương Khang đã làm những gì, ông đã nảy sanh ý định dựa vào người Mông Cổ để sát hại Quách Tĩnh và Hoàng Dung để báo thù cho thân phụ. Đó là vì ông nhận chân rằng võ công mình còn kém Quách Tĩnh, mà Hoàng Dung lại là người rất có mưu cơ, nên ông không thể thành công nếu không được sự yểm trợ của một thế lực mạnh. Tuy nhiên, khi thấy Quách Tĩnh và Hoàng Dung tận lực bảo vệ thành Tương Dương trước cuộc tấn công của người Mông Cổ, ông lại cảm thấy cố chỗ không ổn nên hóa ra ngần ngại trong việc hãm hại họ. Cuổi cùng, ông đã tránh được việc sa vào lầm lỗi trước đây của thân phụ ông khi đã biết được sự thật về ông này. Chẳng những không sát hại Quách Tĩnh và Hoàng Dung, ông còn giúp họ trong việc chặn đứng một cuộc tấn công của người Mông Cổ trong dịp chúc thọ cho Quách Tường.

c. Hai khía cạnh đặc biệt của vấn đề chánh nghĩa dân tộc, biểu lộ qua trường hợp của Tiêu Phong và Vi Tiều Bảo.

Nhưng về vấn đề chánh nghĩa dân tộc, hai nhơn vật có sự tích đáng lưu ý hơn hết là Tiêu Phong và Vi Tiểu Bảo. Với trường hợp hai nhơn vật này, Kim Dung đã nêu ra hai khía cạnh đặc biệt của vấn đềchánh nghĩa dân tộc.

1) Tiêu Phong vốn là người thuộc bộ tộc Khiết Đơn. Nhưng từ bé, ông đã được giao cho một gia đình người Hán nuôi dưỡng, rồi lại theo người Hán đi học tập văn võ. Cho đến khoảng 30 tuổi, ông đã mang tên là Kiều Phong và chỉ sổng với người Hán. ông đã được nuôi dưỡng và giáo dục trong tinh thần căm thù và khinh thị người Khiết Đơn. Khi hoạt động cho Cái Bang, ông đã lấy việc phá vở các mưu đồ của người Khiết Đơn và giết hại người Khiết Đơn làm những công trạng đáng được khen ngợi.

Đến khoảng 30 tuổi, trong lúc giữ chức vụ Bang Chủ Cái Bang, Kiều Phong mới bị những người thù nghịch vạch rõ chơn tướng ông là người Khiết Đơn. Ông xem việc làm người Khiét Đơn là một sỉ nhục nên rất xấu hổ và bực tức. Trong khi đi điều tra thêm về thân thế mình, có lẽ ông vẫn ngầm hy vọng rằng ông thật sự là người Hán. Nhưng đến lúc đã có bằng chứng không thể chổi cãi được rằng ông là người Khiết Đơn, Tiêu Phong đã chứng kiến được việc quân Đại Tống thuộc giống Hán cư xử một cách tàn bạo dã man đổi với những người dân Khiét Đơn yếu đuối và vô tội. Nhờ đó, ông ý thức rằng sự tàn bạo dã man không phải là bản chất riêng của người Khiết Đơn. Mặc dầu có một nền văn hóa mà họ tự hào là cao hơn văn hóa Khiết Đơn, người Hán cũng có những hành động tàn bạo dã man. Mặt khác, tình yêu của A Châu là một cô gái Hán tộc lúc đã biết chắc ông là người Khiết Đơn còn làm cho Tiêu Phong thấy rằng sự phân biệt giữa các dân tộc không ngăn chận được các cá nhơn dị chủng thông cảm nhau và thương yêu kính mến lẫn nhau.

Những điều trên đây làm cho Tiêu Phong xét lại vấn đề chánh nghĩa dân tộc. Ông đã nhận chân rằng nó không phải có tánh cách khách quan và biểu lộ một chơn lý tuyệt đối, mà là một quan niệm chủ quan và do đó mà có thể đưa đến những cái nhìn và những hành động thiên vị. Người phụng thờ chánh nghĩa dân tộc một cách tuyệt đối lúc nào cũng xem dân tộc minh là giỏi nhứt và luôn luôn có lý. Họ luôn luôn binh vực dân tộc mình và chỉ biết có quyền lợi của dân tộc mình. Do đó, họ có thể tỏ ra bất công và tàn nhẫn đối với dàn tộc khác.

Sau khi đã thấy rõ sự thật về chánh nghĩa dân tộc, Tiêu Phong đã điều chỉnh lại thái độ của mình. Ông vẫn theo chủ trương phục vụ quyền lợi dân tộc mình: đó là dân tộc Khiết Đơn từ khi ông biết chắc là ông thuộc nòi giổng Khiết Đơn. Chắc hẳn là ông không ngần ngại hy sinh quyền lợi và cả tánh mạng mình để bảo vệ nước Đại Liêu nếu nước này bị dị tộc xâm lấn. Nhưng Tiêu Phong đã không tán thành việc nhà vua Đại Liêu mở cuộc xâm lăng Đại Tổng để mở rộng bờ cõi Đại Liêu và làm cho dân Khiết Đơn chế ngự được dân Hán. Ổng đã treo ấn từ quan để khỏi phải tham dự chiến dịch xâm lăng đó. Và ông thà chịu ngồi tù chớ không đổi ý mặc dầu nhà vua Đại Liêu đã tìm mọi cách thuyết phục ông. Cuổi cùng, khi đã được các bạn giải thoát khỏi ngục thất Đại Liêu, ông đã uy hiếp cả vua Đại Lièu để ép ông này chấp nhận xem nước Đại Tống là nước anh em và bỏ ý định xâm lăng của minh. Nhưng ông ý thức rằng đó là một hành động trái với quyền lợi dân tộc mình và đụng chạm đến uy quyền của nhà lãnh đạo nước mình và đã vung gươm tự sát.

2). Vi Tiểu Bảo không phải bị dồn vào thế phải hủy mình như Tiêu Phong, nhưng cũng đã phải rời bỏ chánh trường. Nỗi khổ tâm của ông có khác nỗi khổ tâm của Tièu Phong, nhưng cũng phát xuất từ một khía cạnh đặc biệt của vấn đề chánh nghĩa dân tộc.

Nhà Thanh vốn do người Mãn Châu xây dựng và khi xâm lăng Trung Quốc, người Mãn Châu đã sát hại rất nhiều người Hán tộc. Thièn Địa Hội là một đoàn thể chủ trương chống lại nhà Thanh để khôi phục nhà Minh: đó là một tổ chức của người Hán ái quốc nhằm mục đích giải phóng dân Hán khỏi ách thống trị của người Mãn Châu. Khi theo Thiên Địa Hội, Vi Tiểu Bảo không phải đã gượng gạo chấp nhận gia nhập vì tình thế bắt buộc mà đã thật sự ngưỡng mộ đoàn thể này, vì từ lúc nhỏ, ông đã bị ảnh hưởng của những người trong giới giang hồ khích động tinh thần dân tộc. Người bạn đầu tiên của Vi Tiểu Bảo trong giới này lại là Mao Thập Bát, một người có nhiệt tâm trong việc giải phóng Hán tộc khỏi sự cai trị của nhà Thanh.

Đối với Vua Khương Hy, Vi Tiểu Bảo chỉ ngẫu nhiên mà được gần gũi. Nhưng về sau, Vi Tiểu Bảo đã có sự thương mến và kính trọng Vua Khương Hy, mà điều này không phải chì vì Khương Hy là một nhà vua và có ban nhiều ơn huệ cho ông. Một trong những lý do làm cho Vi Tiểu Bảo trung thành với Khương Hy là vì qua nhiều cuộc nói chuyện với nhà vua này, ông đã nhận thấy rằng đó là một người thật sự thương nhơn dân và hết lòng lo cho nhơn dân. Vua Khương Hy đã khẳng định rằng dưới quyền mình, bá tánh còn được dễ chịu hơn dưới quyền các nhà vua triều Minh. Điều này đã được chính các học giả Cố Viêm Võ, Tra Kế Tá, Hoàng Lê Châu và Lữ Lưu Lương công nhận với Vi Tiểu Bảo. Tuy vẫn chống vua Khương Hy vì ông này là người Mãn Châu, các học giả người Hán trên đây cũng nhận thấy rằng các vua nhà Minh từ vua khai quốc là Thái Tổ (t.v. 1368-1398) cho đến vua chót là Sùng Trinh (t.v. 1628-1644), người thì tàn nhẫn bạo ngược, người thì mê muội hồ đồ, chẳng ai sáng suốt và tốt bằng Vua Khương Hy.

Vi Tiểu Bảo đã rút lui khỏi chánh trường vì không muốn bị kẹt giữa hai yêu cầu: một bên của những người nhứt định chống Vua Khương Hy vì đó là một nhà vua dị tộc, một bên của Vua Khương Hy bắt buộc ông phải tuyệt đối trung thành với mình và triệt hạ những người chống mình. Tuy không nói một cách rõ ràng, Kim Dung đã cho chúng ta thoáng thấy rằng một trong những lý do làm cho Vi Tiểu Bảo không chịu đứng hẳn về phía chánh nghĩa dân tộc và phản bội Vua Khương Hy là vì ông đã phần nào có cảm giác là nhà vua di tộc đó đã sáng suốt và thương dân Hán hơn là các nhà vua Hán tộc của triều đại trước.

d. Những khổ tâm nan giải mà người theo chánh nghĩa dân tộc có thể gặp.

Với cái chết của Tiêu Phong và sự rút lui khỏi chánh trường của Vi Tiểu Bảo, Kim Dung đã nêu ra những khổ tâm nan giải mà người theo chánh nghĩa dân tộc có thể gặp. Nói chung thì việc phục vụ dân tộc là một việc hợp chánh nghĩa và không ai phủ nhận được điều này. Nhưng liệu con ngưởi có thể chấp nhận làm bất cứ việc gì để phục vụ dân tộc minh hay không?

1). Vấn để này được đặt ra khi các nhà lãnh đạo dân tộc có chủ trương thống trị tất cả các dân tôc khác và áp dụng một chánh sách bạo tàn đổi với tất cả mọi người để đạt mục đích của mình. Việc nhà vua Đại Liêu muốn xâm lăng nước Đại Tống cố thể so sánh với việc Hitler muốn chinh phục các nước Âu Châu khác để tiến đến việc chinh phục hoàn cầu. Và nỗi khổ tâm cùa Tiêu Phong thật cũng chẳng khác nỗi khổ tâm của những người Đức ái quốc, nhưng theo lý tưởng tự do và nhơn bản trong thời Đảng Quốc Xã cầm quyền. Những người này đã bị giằn vặt giữa hai yêu cầu trái ngược nhau. Với tư cách là người Đức, họ thấy phải phục vụ dân tộc Đức. Nhưng với tư cách là người theo lý tưởng tự do và nhơn bản, họ thấy phải chống chọi lại Hitler và do đó mà phải chống chọi lại chánh quyền Đức đương hữu. Họ không phải đã tự tử như Tiêu Phong. Nhưng dầu cuối cùng đã chọn con đường nào, chắc hẳn là họ cũng hết sức khổ tâm.

Một trường hợp khổ tâm tương tự là trường hợp nhà bác học Nga lừng danh Sakharov. Ồng chắc chắn là một người thương nước. Trong lúc còn tin tưởng rằng Liên Sô bị Mỹ uy hiếp và cần tăng cường lực lượng để tự vệ, ông đã tận lực phục vụ chánh quyền cộng sản Nga. Chính ông là người đã chế tạo quả bom khinh khí đầu tiên cho nước mình. Nhưng với việc chánh quyền cộng sản Nga dùng võ lực thanh toán phong trào đòi tự do hóa ở Tiệp Khắc năm 1968, Sakharov đã nhận chân rẳng chính quyền cộng sản Nga có một chánh sách tàn bạo phi nhân và có chủ trương chế ngự cả hoàn cầu để xây dựng một chế độ độc tài toàn diện trên toàn thế giới. Do đó, ông đã chống lại chánh quyền này. Tuy chưa đi đến mức chót như Tiêu Phong là ép được các nhà lãnh đạo nước mình từ bỏ chánh sách của họ rồi tự tử, Sakharov đã thực hiện bước đầu của Tiêu Phong là treo ấn từ quan rồi đi ngồi tù: Ông Sakharov đã bỏ hết các quyền lợi mà ông đã hưởng được trong chế độ cộng sản Liên Sô với tư cách là một nhà bác học xuất sắc lại có công lớn, và hiện đang sổng trong cảnh “nội lưu”, tức là bị bắt buộc phải đến ở một vùng xa thủ đô Moscow do chánh quyền cộng sản Liên Sô chì định.

a.Vấn đề chánh nghĩa dựa vào một đạo lý có tánh cách tổng quát.

Câu chuyện của Tiêu Phong và Vi Tiểu Bảo đã cho thấy rằng ngoài chánh nghĩa dân tộc, con người còn có thể phụng thờ một loại chánh nghĩa khác đặt nền tảng trên một đạo lý có tánh cách tổng quát hơn. Loài người vốn có nhiều ý kiến khác nhau. Do đó, về mặt chánh trị, đã có nhiều lý tưởng khác nhau xuất hiện. Mặt khác, người muốn tranh đấu cho lý tưởng của mình thường phải kết hợp nhau lại. Vì thế, trong xã hội nào cũng có nhiều đoàn thể khác nhau, mỗi đoàn thể thờ một lý tưởng và xem việc phục vụ lý tưởng đó là một việc làm hợp với chánh nghĩa. Do chỗ có lý tưởng khác nhau, các đoàn thể đã xung đột nhau nhiều khi rất mãnh liệt.

Tuy nhiên, vì nhu cầu, một vài đoàn thể có thế giúp đỡ nhau hoặc kết hợp với nhau một cách chặt chẽ trong một liên minh.

Nhưng trong khi liên minh với nhau, các đoàn thể lại có thể ngầm chống chọi hay phá hại nhau. Mặt khác, bên trong một đoàn thể, có thể có sự bất đồng ý kiến về cách giải thích một nguyên lý chung, hoặc về phương pháp phải áp dụng để đạt mục đích chung. Sự bất đồng ý kiến này có thể đưa đến sự xung đột làm cho đoàn thể phân hóa thành nhiều phe chống chọi nhau. Khi có sự phân hóa như vậy, người của các phe chống chọi nhau có thể áp dụng nguyên tắc “phải diệt kẻ nội thù trước khi chống nhau với ngoại hoạn” và đối phó với nhau một cách quyết liệt. Bởi đó, sự xung đột giữa các phe chống chọi nhau bên trong một đoàn thể lắm lúc còn dữ dội hơn sự xung đột giữa các đoàn thể khác nhau. Các phe chống chọi nhau bên trong một đoàn thể có thể đi đến chỗ hợp tác với đoàn thể khác để triệt hạ phe đối địch với mình.

Việc thành lập phe phái phụng thờ lý tưởng khác nhau và hợp tác với nhau hoặc xung đột với nhau là một hiện tượng tự nhiên và thường trực của mọi xã hội và trong mọi thời kỳ lịch sử. Bởi đó, nó dĩ nhiên phải được Kim Dung mô tả trong các bộ truyện võ hiệp của ông. Có thể nói rằng tác phẩm nào của Kim Dung cũng có những phe nhóm môn phái hợp tác với nhau hoặc xung đột tranh đấu với nhau. Nhung về mặt hợp tác, xung đột và tranh đấu giữa các môn nhái, các tác phẩm có ý kiến đặc biệt đáng lưu ý hơn hết là hai bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ và CÔ GÁI ĐỒ LONG.

1) Đề tài của bộ TIẾU NGẠO GIANG HỔ là cuộc xung đột và tranh đấu giữa các môn phái bên trong một xã hội không có ngoại hoạn. Trong bộ truyện võ hiệp này, Kim Dung đã mô tả hoạt động của một số phe phái trong đó có vai tuồng cốt yếu là Triêu Dương Thần Giáo, chùa Thiếu Lâm, phái Võ Đương, năm kiếm phái của năm hòn núi lớn là Tung Sơn, Thái Sơn, Hành Sơn, Hoa Sơn và Hằng Sơn, và phái Thanh Thành.

Triêu Dương Thần Giáo có những nhà lãnh đạo võ nghệ cao cường và có một kỹ thuật tổ chức và tranh đấu rất tàn độc nhưng rất hữu hiệu. Đoàn thể này chủ trương làm yếu các môn phái khác để bắt các môn phái ấy tùng phục mình, môn phái nào không chấp nhận thì bị tiêu diệt.

Các đoàn thể khác đã được tổ chức theo lề lối cổ truyền khác với lề lối hữu hiệu nhưng tàn độc của Triêu Dương Thần Giáo. Trong sự đối phó với họ, Triêu Dương Thần Giáo lại tỏ ra hết sức hung bạo. Bởi đó, họ tự cho rằng họ thuộc bạch đạo tức là chánh phái trong khi Triêu Dương Thần Giáo bi họ gọi là Ma Giáo tức là tầ đạo. Họ rất thù hằn Ma Giáo và nhứt quyết phải trừ diệt đoàn thể này.

Để đối phó Với Triêu Dương Thần Giáo, các đoàn thể thuộc bạch đạo đáng lẽ phải đoàn kết với nhau một cách thành thật. Hai phái Thiếu Lâm và Võ Đương đã có một thái độ rất đứng đắn. Nhưng các vị cầm đầu hai phái này là những nhà tu hành nê chỉ chấp nhận tham dự việc chống chọi lại Triêu Dương Thần Giáo mà không chịu đứng ra lãnh đạo công cuộc tranh đấu. Nuôi mộng lãnh đạo phe bạch đạo là các cao thủ võ lâm điều khiển các kiếm phái của năm hòn núi lớn. Bề ngoài, các kiếm phái này có vẻ đã hợp tác với nhau một cách chặt chẽ. Nhưng nhà lãnh đạo hai phái Tung Sơn và Hoa Sơn là Tả Lãnh Thiền và Nhạc Bất Quần đã có tham vọng chế ngự hết các phái khác và đã dùng những thủ đoạn thâm hiểm tàn độc để đạt mục đích nên cuối cùng chính họ đã chết mà các kiếm phái trên đây cũng bị suy yếu và tan rã, chỉ còn lại phái Hằng Sơn.

Riêng phái Thanh Thành là một phái nhỏ, ít thế lực, uy tín kém các phái khác. Để tự tăng cường, Chưởng Môn Nhơn phái này là Dư Thanh Hải đã tìm cách lấy TỊCH TÀ KIẾM PHỔ của nhà họ Lâm làm chủ Phước Oai Tiêu Cục. Ông đã xử sự một cách rất ác độc đối với Phước Oai Tiêu Cục và nhà họ Lâm. Phái ông đã sát hại nhiều người của tiêu cục này với những đòn hung bạo, và tra khảo vợ chồng Lâm Chấn Nam một cách tàn nhẫn. Tuy thế, ông vẫn không tim được bộ kiếm phổ để rèn luyện cho võ công tăng tiến hơn. Về sau, ông và đệ tử ông đã bị con Lâm Chấn Nam là Lâm Bình Chi dùng Tịch Tà Kiếm Pháp vũ nhục và sát hại để báo thù cho cha mẹ mình.

Lịnh Hồ Xung chính là nhơn vật đóng vai tuồng chủ yếu trong các cuộc xung đột môn phái này. Trong khi còn là đệ tử phái Hoa Sơn, ông đã có dịp nhận thấy rằng trong các đoàn thể tự xưng là chánh phái, đã có những người tham lam gian xảo. Tệ hơn nữa, một số người tự xưng là thuộc chánh phái, ngay cả trong giới lãnh đạo, lại cũng có những hành động tàn ác bất nhân không khác hành động của Ma Giáo mà họ thù hằn và sỉ vả. Trái lại, trong Ma Giáo lại có những nhơn vật ngay thẳng và hào hiệp.

Các nhận xét trên đây đã làm cho Lịnh Hồ Xung lần lần tách rời quan điểm của các môn phái tự cho mình là chánh và nhứt định triệt để chống lại tất cả những nguời thuộc Triêu Dương Thần Giáo. Ổng đã rất bất bình khi chứng kiến việc Tả Lãnh Thiền lấy danh nghĩa Minh Chủ của Ngũ Nhạc Kiếm Phái để ngăn trở Lưu Chánh Phong trong dự định rửa tay treo kiếm, và tàn sát cả nhà Lưu Chánh Phong vì ông này không chịu trở mặt giết người bạn của mình là Khúc Dương vốn là một Trưởng Lão của Triêu Dương Thần Giáo. Vậy, Lịnh Hồ Xung đã không tán thành thái độ quá khich cuả các đoàn thể tự xưng là chánh phái thuộc phe bạch đạo. Điều này không có nghĩa là ông chấp nhận lập trường của Triêu Dương Thần Giáo. Tuy đã kết bạn với Huớng Vấn Thiên là một nhơn vật quan trọng của đoàn thể này, lại có công giúp Nhậm Ngã Hành thoát khỏi sự giam cầm và đoạt lại ngôi Giáo Chủ, rồi được Nhậm Ngã Hành chịu gả con gái là Nhậm Doanh Doanh cho mình, Lịnh Hồ Xung trước sau vẫn từ khước không chịu gia nhập Triêu Dương Thần Giáo. Ngay cả khi Nhậm Ngã Hành bảo ông rằng sau này, ông có thể lên làm Giáo Chủ và sửa đổi lại lề lối tổ chức và tranh đấu của đoàn thể này theo ý muốn, Lịnh Hồ Xung vẫn không thay đổi lập trường.

Đối với Lịnh Hồ Xung, vấn đề chỉ được giải quyết khi Nhậm Ngã Hành chết một cách thình lình và Nhậm Doanh Doanh được đưa lên làm Giáo Chủ rồi thay đổi hẳn chánh sách của Triêu Dương Thần Giáo làm cho đoàn thể này hết còn là thù địch của các môn phái khác. Lúc làm lễ thành hôn với Nhậm Doanh Doanh, Lịnh Hồ Xung đã từ chức Chưởng Môn Nhơn phái Hằng Sơn, Nhậm Doanh Doanh cũng đã từ chức Giáo Chủ Triêu Dương Thần Giáo. Tuy nhiên, trước sau, họ vẫn có liên hệ mật thiết đến các đoàn thể này. Và trong tiệc cưới, hai vợ chồng đã hòa tấu bản nhạc Tiếu Ngạo Giang Hồ do Khúc Dương và Lưu Chánh Phong sáng tác xưa kia, lúc hai người kết bạn với nhau nhưng bị các chánh phái không chấp nhận sự kết bạn này và sát hại cả hai.

2). Đề tài được Kim Dung nêu ra trong bộ cô GÁI ĐỒ LONG khác đề tài của bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ ở chỗ cuộc xung đột giữa các môn phái đã xảy ra trong lúc các môn phái này còn phải chống lại người Mông cổ đương thống trị đất nước mình. Trong bộ cô GÁI ĐỒ LONG, các môn phái đã đóng một vai tuồng quan trọng là Minh Giáo, chùa Thiếu Lâm, phái Võ Đương, phái Nga Mi và Cái Bang.

Minh Giáo là một đoàn thể tôn giáo đã có ở Trung Quốc từ đời nhà Đường. Nó dạy người theo nó tận lực giúp đỡ lẫn nhau. Người theo Minh Giáo thường chống đối sự bóc lột của tham quan ô lại. Do đó, Minh Giáo thường bị triều đình gọi là Ma Giáo. Đã vậy, từ khi Giáo Chủ Dương Phá Thiên chết một cách bất ngờ, đoàn thể này không chỉ định được người kế vị thành ra hàng ngũ phân hóa, một trong các hộ pháp là Hân Thiên Chánh đã tách ra lập Bạch Mi Giáo. Mặt khác, kỷ luật đã không được áp dụng đứng đắn nên có nhiều người làm việc sai quấy. Vì thế, cả Minh Giáo lẫn Bạch Mi Giáo đều bị xem là những đoàn thể tà khúc và bị các đoàn thể tự cho mình là chánh phái chống lại. Sự chống báng này càng có tính cách mãnh liệt hơn vì âm mưu của một người thù Minh Giáo là Thành Khôn đã đưa đến việc gây thêm hiềm khích giữa hai bên.

Trong các chánh phái chống lại Minh Giáo thì quyết liệt nhứt là phái Nga Mi. Chưởng Môn Nhơn phái này là Diệt Tuyệt Sư Thái. Bà có tánh dũng cảm cương nghị và không để cho tình cảm chi phối. Do đó, bà chủ trương sát hại không chút xót thương tất cả những người có liên hệ với tổ chức mà trước sau bà vẫn gọi là Ma Giáo. Mặt khác, bà biết được sự bí mật liên hệ đến kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long và nuôi giấc mộng tìm đủ hai võ khí này để lấy các bí kíp cần thiết giúp Chưởng Môn Nhơn của phái Nga Mi trở thành Minh Chủ Võ Lâm. Lúc chết, bà đã truyền chức vụ Chưởng Môn Nhơn lại cho đệ tử là Châu Chỉ Nhược và dặn cô này phải thực hiện giấc mộng của bà bằng mọi giá.

Vì cha là người của phái Võ Đương còn mẹ là người của Bạch Mi Giáo, Trương Vô Kỵ đã cố gắng vận động cho các chánh phái hòa giải với Minh Giáo, nhứt là từ khi được biết rằng Minh Giáo vốn là một đoàn thể tốt. Ông đã thực hiện được nguyện vong này nhờ nhiều lý do. Trước hết, ông đã may mắn luyện được một võ công siêu tuyệt lại đã giúp cho Minh Giáo khỏi bị các chánh phái tiêu diệt nên được tất cả những người trong Minh Giáo đồng ý tôn lên làm Giáo Chủ của họ. Vì thế, ông đã có thể tổ chức lại Minh Giáo để cho đoàn thể này trở lại có tư cách của một chánh phái. Mặt khác, ông đã xử sự một cách khéo léo đối với các môn phái chống lại Minh Giáo làm cho họ không mất thể diện và sau đó, Minh Giáo duới quyền ông lại còn giúp đỡ họ một cách tận tình. Nhưng quan trọng nhứt là việc Minh Giáo và các môn phái khác cùng có một kẻ thù chung là người Mông Cổ, một dị tộc đương thống trị người Hán. Chỉ có phái Nga Mi không chấp nhận hợp tác với Minh Giáo vì Châu Chỉ Nhược lúc đầu đã tuân theo lời trối của Diệt Tuyệt Sư Thái. Nhưng sau cùng, Châu Chỉ Nhược lại đã trao chức vụ Chưởng Môn Nhơn của phái này cho Trương Vô Kỵ.

Với các câu chuyện trong hai bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ và CÔ GÁI ĐỒ LONG, Kim Dung đã nêu ra một số khía cạnh đáng lưu ý liên hệ đến cái chánh nghĩa đặt nền tảng trên một đạo lý có tánh cách tổng quát.

1) Ông đã cho chúng ta thấy rằng cũng như chánh nghĩa dân tộc, chánh nghĩa dựa trên đạo lý không phải có tính cách tuyệt đối và khách quan mà chỉ là một nhận thức chủ quan dễ dàng đưa đến sự thiên vị.

Nói chung thì đoàn thể nào cũng xem đạo lý mình tôn thờ là đúng, còn đạo lý của đoàn thể khác là sai. Bởi đó, mỗi đoàn thễ đều tự cho mình là chánh và xem đoàn thể chống đối mình hay khác hơn mình là tà.

Mặt khác, dầu cho người ta có lấy nền đạo lý cố hữu của xã hội làm tiêu chuẩn cho sự chơn chánh và xem các nền đạo lý mới lạ là tà, sự phân biệt chánh tà cũng không phải là đơn giản. Trước hết, trong các đoàn thể được xem là chánh phái theo quan điểm trên đây, có cái thật sự theo đúng đạo lý mà nó chánh thức tôn thờ, nhưng cũng có cái đã phản bội lại đạo lý đó và có những chủ trương hành động y hệt phái tà mà nó sỉ vả. Trong hai bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ và CÔ GÁI ĐỒ LONG, chùa Thiếu Lâm và phái Võ Đương đã cư xử thật sự như là chánh phái. Trong khi đó, các nhà lãnh đạo của các phái Tung Sơn, Hoa Sơn và Thanh Thành trong bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ và nhà lãnh đạo của phái Nga Mi trong bộ CÔ GÁI ĐỒ LONG lại có những chủ trương và hành động không khác với Triêu Dương Thần Giáo và Minh Giáo mà họ gọi là Ma Giáo. Ngoài ra, trong mọi đoàn thể, dầu là chánh phái thật sự, chánh phái giả hiệu hay là tà phái, đều có người tốt và người xấu, chớ không phải người của chánh phái là nhứt định tốt còn người của tà phái là nhứt định xấu. Qua sự mô tả của Kim Dung, ta có thể thấy rõ rằng có khi những người tự xưng là thuộc chánh phái còn gian trá và tàn độc hơn là người của Ma Giáo.

2) Một ý tưởng khác của Kim Dung mà chúng ta có thể nhận thấy về vấn đề này là hai phe chánh và tà khó có thể tiêu diệt nhau được. Bởi đó, theo ý ông, hay nhứt là hai bên nên hòa giải với nhau. Nhưng sự hoà giải thật ra không phải dễ đạt. Trương Vô Kỵ đã thành công được nhờ một số điều kiện thuận tiện trong đó quan trọng nhứt là nhu cầu đoàn kết để đổi phó với kẻ thù chung của dân tộc. Nhưng phần Lịnh Hồ Xung thì sự thành công chỉ là kết quả của sự ngẫu nhiên. Ta có thể bảo rằng kết cuộc của bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ không phải là một cáo chung tự nhiên, hợp lý, phát xuất từ sự diễn tiến của tình thế đương có. Nó chỉ biểu lộ một mơ ước của tác giả mà thôi.

Những điều mà Kim Dung mô tả trong hai bộ TIẾU NGẠO GIANG HỔ và CÔ GÁI ĐỒ LONG không phải là không có xuất hiện trong thực tế. Cuộc tranh đấu giữa Ma Giáo và các chánh phái trong các tác phẩm này chỉ là phản ảnh của cuộc tranh đấu ò Trung Quốc giữa Trung Cộng và các đoàn thể gọi chung là Quốc Gia.

Với một chủ nghĩa hoàn toàn xa lạ đối với nền văn hóa Trung Hoa, với một kỹ thuật tổ chức và hoạt động hữu hiệu nhưng trái với đạo nghĩa Trung Hoa cổ truyền, Trung Cộng thật không khác các Ma Giáo trong các tác phẩm của Kim Dung. Chống đối lại Trung Cộng là các đoàn thể dựa vào đạo lý cổ truyền, hoặc nếu có phần nào theo các tư tưởng và lề lối làm việc của Tây Phương thì cũng không hoàn toàn chọi lại nền đạo lý cổ truyền. Trong các đoàn thể này, có những cái làm đúng theo chủ trương thật sự của mình, nhưng cũng có đoàn thể sỉ vả Trung Cộng mà lại áp dụng đúng các lề lối làm việc của Trung Cộng mà nó chánh thức kết án. Đó là trường hợp của Trung Hoa Quốc Dân Đảng, bề ngoài thì chủ trương dân chủ và đề cao đạo lý cổ truyền, nhưng thật sự, lại cũng áp dụng chế độ độc đảng, và cũng dùng bạo lực cũng như mọi thủ đoạn hiểm độc tàn ác để đối phó với đối lập y như Trung Cộng. Vậy, các đoàn thể chống Trung Cộng ở Trung Quốc có thể đồng hóa với các tổ chức gọi là chánh phái trong hai bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ và CÔ GÁI ĐỒ LONG.

Giữa Trung Cộng và các đoàn thể quốc gia Trung Hoa, đặc biệt là Trung Hoa Quốc Dân Đảng, đã có sự hợp tác để chống lại cuộc xâm lăng của người Nhựt, giổng như sự hợp tác giữa Minh Giáo và các chánh phái trong CÔ GÁI ĐỒ LONG để chống lại người Mông Cổ. Nhưng khi Nhựt đã thua trận, sự xung đột giữa hai bên Trung Cộng và Trung Hoa Quốc Dân Đảng đã bộc phát trở lại.

Mặc dầu Trung Cộng đã thắng thế và chiếm cả lục địa Trung Hoa, Trung Hoa Quốc Dân Đảng vẫn còn giữ được Đài Loan và cuộc tranh đấu giữa hai bên vẫn tiếp tục. Có lẽ với lối kết thúc bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ, Kim Dung đã nêu ra một hy vọng là sau một thời kỳ chống chọi nhau, hai bên sẽ lại hòa giải nhau được vì hạnh phúc của nhơn dân Trung Hoa. Nhưng liệu hy vọng này có thành sự thật được hay không? Đó là một vấn đề hiện còn đương được đặt ra. Dầu sao thì ý kiến Kim Dung cũng rất rõ rệt: sự hòa giải chỉ có thể thực hiện được khi Triêu Dương Thần Giáo (tức là Trung Cộng) đã thật sự thay đổi chánh sách của mình.

Vấn đề tranh thủ một mục tiêu trọng đại cũng đã được Kim Dung dùng để trình bày một số ý kiến chánh trị.

Trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung, có nhiều cao thủ võ lâm hướng đến việc đạt một mục tiêu trọng đại riêng cho cá nhơn mình hay cho gia tộc hoặc cho môn phái của mình. Có người muốn được công nhận là người có võ công cao nhứt hoặc muốn thấy môn phái mình được xem là môn phái giỏi nhứt. Trong những người có tham dự các cuộc luận võ ở Hoa Sơn, Tây Độc Âu Dương Phong là người lúc nào cũng cố tiến lên để giành lấy danh hiệu “đệ nhứt bá võ lâm”. Phần Diệt Tuyệt Sư Thái thì nuôi hy vọng thấy phái Nga Mi của mình được xem là môn phái có địa vị cao nhứt. Dư Thương Hải của phái Thanh Thành cũng nuôi một ý đồ tương tự. Tiến xa hơn một bước, một số cao thủ muốn được công nhận làm Minh Chủ Võ Lâm. Đó là trường hợp của Kim Luân Pháp Vương, Tả Lãnh Thiền và Nhạc Bất Quần. Nuôi mộng lớn hơn thì có các Giáo Chủ của Triêu Dương Thần Giáo là Nhậm Ngã Hành và Đông Phương Bất Bại nghĩ đến việc thống nhứt cả võ lâm dưới quyền điều khiển của mình. Sau hết, cũng có những người như Hồng An Thông, Giáo Chủ Thần Long Giáo muốn chiếm được một lãnh thổ để làm chúa một nước nhỏ, hay như cha con Mộ Dung Bác và Mộ Dung Phục nhắm mục tiêu khôi phục nước Đại Yên.

Trong số các cao thủ võ lâm nhắm các mục tiêu đã kể, có người không ngần ngại công bố chủ trương của mình như các Giáo Chủ của Triêu Dương Thần Giáo và Giáo Chủù của Thần Long Giáo, một bên bắt giáo chúng tung hô mình với khẩu hiệu “thiên thu trường trị, nhứt thống giang hồ”, một bên tập cho giáo chúng chúc mình “hưởng phúc trọn đời, thọ ngang Thượng Đế”. Tả Lãnh Thiền và Nhạc Bất Quần thì kín đáo hơn, nhưng hoạt động của họ, nhứt là của Tả Lãnh Thiền, cũng đã bộc lộ cho người khác thấy. Riêng Diệt Tuyệt Sư Thái đã hoàn toàn giấu kín ý đồ của mình, chỉ đến lúc sắp chết mới dặn đồ đệ mình là Châu Chỉ Nhược tìm mọi cách để nối chí mình.

Để đạt mục tiêu chánh yếu của mỉnh, các cao thủ vỗ lâm nhiều khi đã phải nhắm một mục tiêu phụ thuộc, nhưng cần thiết, như tìm những bí kíp về võ thuật loại CỬU ÂM CHƠN KINH, TỊCH TÀ KIẾM PHỔ, hoặc những bảo vật loại kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long, mặc dầu có người không biết tác dụng thật sự của hai võ khí này. Trường hợp của tám bộ TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH của nhà Thanh cũng là một trường hợp đáng lưu ý: nó chứa đựng một bản đồ chỉ chỗ chốn giấu một kho tàng đồng thời với long mạch nhà Thanh và đã được nhiều người tìm kiếm mặc dầu có người không biết rõ tác dụng của nó.

Trong việc thực hiện chủ trương của mình, một số cao thủ võ lâm đã khơng lui bước trước biện pháp nào. Họ có thể có những thủ đoạn lưu manh đê tiện, hay những hành động tàn ác đối với người khác, hoặc ngay cả đối với những người thuộc một phe với họ. Một số đã đi đến chỗ tự hủy hoại một phần thân thể của mình để đạt mục đích. Nói chung thì nguyên tắc được các cao thủ võ lâm này áp dụng là “cứu cánh biện minh cho phương tiện”. Đối với họ, chỉ có việc đạt được mục tiêu mà họ nhắm là đáng kể và mọi hành động lợi cho việc đạt mục tiêu như vậy đều là tốt cả, dầu cho hành động này không phù hợp với đạo lý chánh thức họ phụng thờ.

Vì theo nguyên tắc “cứu cánh biện minh cho phương tiện”, Dương Khang đã giết Âu Dương Công Tử để có thể làm đệ tử Âu Dương Phong; Mộ Dung Phục đã nhận làm con nuôi Đoàn Diên Khánh và để cho ông này tin cậy, đã hạ sát một bộ hạ trung thành với mình là Bao Bất Đồng; Diệt Tuyệt Sư Thái đã dạy Châu Chỉ Nhược dùng sắc đẹp mê hoặc Trương Vô Kỵ để đoạt đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên; Nhạc Bất Quần đã đánh cắp TỊCH TÀ KIÉM PHỔ của học trò là Lâm Binh Chi, ông đã cũng như Đông Phương Bất Bại chịu tự thiến để có thể học kiếm pháp vô địch này; các nhà lãnh đạo Triêu Dương Thần Giáo và Thần Long Giáo thì dùng chắt độc để kềm chế bộ hạ làm cho họ phải trung thành với mình.

Theo dõi kết quả mà các cao thủ võ lâm đã đạt được trong việc tranh thủ mục tiêu, chúng ta cỏ thể nhận thấy một số thông điệp chánh trị của Kim Dung.

Qua sự tích các nhơn vật trong các bộ truyện võ hiệp của ông, Kim Dung đã nhấn mạnh trên chỗ con người khó có thể làm hết các việc mình mong muốn nên phải biết hạn chế mục tiêu của mình.

1) Trong việc học hỏi và luyện tập về bất cứ bộ môn nào, người cũng đều gặp một vấn đề nan giải là khả năng thể chất và tinh thần của mình bị giới hạn trong khi những điều cần biết lại vô cùng. Biển học vốn mênh mông không bờ bến, không ai đi đến tận cùng được. Vả lại, nếu mình đi được rất xa trên một con đường thì người khác có thể đi được rất xa trên con đường khác. Bởi vậy, không người nào có thể thông suốt được hết mọi việc trong một môn học để chắc chắn là không ai có thể thắng được mình và nắm giữ địa vị người số một trong môn học của mình một cách chắc chắn và lâu dài. Người phải hao phí không biết bao nhiêu thời gian và công lực mới có thể được xem là đệ nhứt bá võ lâm. Nhưng sau đó, người có thể bị người khác, có khi là người trẻ hơn, đánh bại. Hiện tượng này đã được diễn tả một cách sống động trong hai câu thơ:

(Trên Sông Cái, sóng sau xô sóng trước;

Giữa cõi đời, người mới chận người xưa)

Trong các nhơn vật chánh yếu của Kim Dung, chỉ có Trương Vô Kỵ là người được học nhiều hơn hết. Chẳng những tinh thông y lý, thạo về độc dược, ông còn luyện được cả ba môn võ Thái Cực Quyền Kiếm của người Trung Hoa, cửu Dương Thần Công của Đạt Ma Tổ Sư vốn là người Thiên Trúc (An Độ), và Càn Khôn Đại Nã Di Tâm Pháp của người Ba Tư. Ông là Giáo Chủ Minh Giáo, lại được tôn là Minh Chủ Võ Lâm và được xem là người có võ công cao nhứt thời ông. Nhung khi phản lại ông, Châu Nguyên Chương chỉ cần bỏ thuốc mê vào rượu cho ông uống là đã bắt được ông một cách rất dễ dàng. Người được xem là “đệ nhứt bá võ lâm” và được tôn trọng suốt đời là Vương Trùng Dương. Nhưng ông này đã chết sớm hơn những người đồng tài với ông và những người này về sau võ công rất tăng tiến nên chưa hẳn là ông có thể giữ được địa vị “đệ nhứt bá” này một cách chắc chắn. Như thế, địa vị “đệ nhứt bá võ lâm” không phải là dễ đạt và dễ duy trì.

Mặt khác, việc tham lam luyện tập các thứ võ công trác tuyệt không phải là không có mối hại. Một số võ công thượng thặng đòi hỏi người phải chịu thương tổn rồi mới học theo nó được. Muốn luyện Thất Thương Quyền thì phải làm cho nội tạng mình bị thương và quyền công càng cao siêu bao nhiêu thì nội tạng càng bị thương nặng bấy nhiêu, về võ công đirợc dạy trong QUÌ HOA BẢO ĐIỂN hay TỊCH TÀ KIẾM PHỔ có thể làm cho người thành vô địch thì trước khi luyện tập người phải tự thiến.

Các thứ võ công thượng thặng tự nó không làm cho người bị tổn thương như vậy, nhưng nếu tham lam luyện tập quá nhiều, người cũng có thể bị hại, nhứt là khi cố luyện tập nhiều môn võ khác nhau. Võ học của phái Thiếu Lâm có thể nói là tuyệt cao, nhưng các môn võ của phái này phải được học tập với tinh thần từ bi. Nếu không có tinh thần từ bi mà học võ công thượng thặng của phái Thiếu Lâm thì bị bại hoại thân thể hay bị nội thương. Người có võ công cao nhứt của phái này là Huyền Trừng Đại Sư đã tự nhiên bi đứt cân mạch và thành phế nhơn. Cưu Ma Trí, Mộ Dung Bác và Tiêu Viên Sơn đều đã bi nội thương trầm trọng khi lén vào chùa Thiếu Lâm lấy sách về võ học để luyện tập. Đặc biệt đáng lưu ý là trường hợp của võ học trong bộ DỊCH CÂN KINH. Chính nhờ nó mà Lịnh Hồ Xung đã chữa được nội thương của mình phát xuất từ việc trong người có nhiều luồng chơn khí mạnh khác nhau. Nhưng khi luyện theo nó, Cưu Ma Trí đã bị nội thương trầm trọng. Rốt cuộc, Mộ Dung Bác và Tiêu Viễn Sơn chỉ thoát hiễm được nhờ vị sư già mặc áo xám trong chùa Thiếu Lâm đánh chết rồi cứu sổng lại, còn Cưu Ma Trí thì cũng chỉ nhờ bị Đoàn Dự thâu hút hết công lực mới khỏi bị nạn phát điên mà chết.

Các câu chuyện trên đây cho thấy rằng dầu người có thông minh, dũng cảm và có nghị lực bao nhiêu, người cũng khó luyện tập hết các môn võ công thượng thặng để chắc chắn trở thành một nhơn vật vô địch trong võ lâm. Áp dụng ra lãnh vực chánh tri điều này có nghĩa là dầu người có thiên tư tốt và cố gắng đến đâu, người cũng không thể nắm vững hết các vấn đề và vượt lên trên cả thiên hạ được. Bởi đó, người phải có ý thức rõ rệt về sự hạn chế của tri thức mình và có thái độ thích ứng.

2) Nếu không thể luyện tập hết các môn võ công thượng thặng để chắc chắn trở thành một nhơn vật vô địch trong võ lâm người cũng không thể thống nhứt hết thiên hạ dưới quyền điều khiến của mình. Giới võ lâm vốn có nhiều nhơn vật và nhiều môn phái khác nhau. Tuy khả năng có thể hơn kém khác nhau, mỗi nhơn vật, mỗi môn phái đều có bản sắc của mình và đều phần nào tự hào về bản sắc đó nên muốn duy trì nó. Dầu có theo phương pháp nào, người cũng khó chế ngự được hết mọi nhơn vật và mọi môn phái để đi đến sự thống nhứt hoàn toàn mọi lực lượng đương có.

Xét tất cả các đoàn thể được Kim Dung mô tả trong các bộ truyện võ hiệp của ông, ta có thể nói rằng đoàn thể có tổ chức hoàn bị hơn hết để đạt mục tiêu nhứt thống giang hồ là Triêu Dương Thần Giáo. Kỹ thuật làm việc của đoàn thể này khai thác đúng mức tâm lý con người. Nó dùng những biện pháp tàn độc nhưng hữu hiệu để kềm chế người của mình, làm cho họ phải hết sức trung thành và tận lực thi hành thượng lịnh. Tuy nhiên, đoàn thể này rốt cuộc vẫn không đạt được mục tiêu thống nhứt giang hồ dưới quyền thống trị muôn năm của mình. Sự tích của Triêu Dương Thần Giáo theo Kim Dung mô tả có mấy điểm đáng lưu ý.

Trước hết là cuộc tranh giành ngôi Giáo Chủ giữa Nhậm Ngâ Hành và Đông Phương Bất Bại. Tổ chức chặt chẽ của Triêu Dương Thần Giáo đã không ngăn chận được việc người phụ tá của Giảo Chủ Nhậm Ngã Hành là Đông Phương Bất Bại âm mưu triệt hạ ông để lên giữ ngôi vị tối cao. Nó cũng không ngăn chận được việc Nhậm Ngã Hành được người bộ hạ trung thành giúp và thoát khỏi ngục thất rồi đoạt lại ngôi Giáo Chủ đã mất. Chung qui, các biện pháp mà người lãnh đạo đương nhiệm dùng để chế ngự thuộc hạ làm cho các thuộc hạ này tuyệt đối phục tùng mình cũng đã làm cho họ tuyệt đối phục tùng kẻ đối thủ của mình để chống lại mình khi kẻ đối thủ đó nắm được cái thế chế ngự họ.

Cái chết của Nhậm Ngã Hành cững có một ý nghĩa đặc biệt. Cứ theo Kim Dung mô tả thì ông đã có kế hoạch rất hoàn bị để triệt hạ cả phái Hằng Sơn lẫn hai phái Thiếu Lâm và Võ Đương. Nhưng kế hoạch này thật sự không phải thích ứng như Nhậm Ngã Hành tưởng. Nó vốn dựa trên giả thuyết là khi về núi Hằng Sơn, Lịnh Hồ Xung cho người thông báo với hai phái Thiếu Lâm và Võ Đương để cầu viện và hai phái này sẽ đem hết lực lượng đến núi Hằng Sơn để viện trợ. Tuy nhiên, Lịnh Hồ Xung đã không cầu viện nơi hai phái Thiếu Lâm và Võ Đương như Nhậm Ngã Hành dự liệu. Dầu vậy, một số cao thủ lãnh đạo hai phái này cũng đã đến Hằng Sơn gặp Lịnh Hồ Xung. Người của họ cũng được đưa đến Hằng Sơn nhưng đã hóa trang đi tránh con mắt dò xét của địch. Và thay vì đem lực lượng đối chọi với lực lượng Triêu Dương Thần Giáo, họ đã lập kế để hại Nhậm Ngã Hành và giáo chúng Triêu Dương Thần Giáo đến tấn công Hằng Sơn. Vậy, nếu Nhậm Ngã Hành thi hành kế hoạch ông nghĩ ra thì cuộc diện không biết đã xảy ra như thế nào. Nhưng thật sự Nhậm Ngã Hành đã chết trước khi thi hành kế hoạch.

Sở dĩ Nhậm Ngã Hành chết thình lình như vậy là vì với môn Hấp Tinh Đại Pháp, ông đã thâu hút vào người nhiều luồng chơn khí và các luồng chơn khí này thỉnh thoảng xung đột nhau làm cho ông đau đớn. Để trừ khử các luồng chơn khí mình đã thâu hút vào cơ thể mà không hóa tán và dung hợp được, Nhậm Ngã Hành đã phải dùng một thứ nội công cực kỳ bá đạo và do đó mà hao tổn rất nhiều chơn nguyên thành ra bị tổn thọ. Tuy tình trạng này liên hệ đến cá nhơn của Nhậm Ngã Hành, nó cũng phản ảnh tình trạng đoàn thể do ông lãnh đạo. Nó có thể biểu hiện sự kiện Triêu Dương Thần Giáo gồm nhiều lực lượng khác nhau được kết hợp nhau dưới quyền thống suất của môt nhà lãnh đạo chuyên chế, nhưng vẫn có sự xung khắc nhau. Việc kềm giữ cho sự xung khắc này không bùng nổ lớn làm tiêu hao nhiều thì giờ và nghị lực của đoàn thể. Với cái chết của Nhậm Ngã Hành, Kim Dung cho chúng ta thấy rằng nó làm cho đoàn thể không thực hiện được mục tiêu căn bản của mình.

Về mặt chánh trị thì như chúng tôi đã trình bày trước đây, Triêu Dương Thần Giáo đã được Kim Dung dùng để tượng trưng cho Đảng Trung Cộng. Sự thất bại của Triêu Dương Thần Giáo có thể được xem như là để ám chỉ việc Đảng này không đạt được mục tiêu nó đưa ra làm lý tưởng tối hậu. Đảng Trung Cộng vốn theo chủ nghĩa Marx-Lenin là một chủ nghĩa hướng đến việc thực hiện một thế giới đại đồng dưới quyền lãnh đạo chuyên chế của người vô sản. Nhưng mặc dầu được tổ chức theo lề lối của Lenin, một lề lối phi nhân nhưng hữu hiệu, Đảng Trung Cộng đã không thực hiện được mục tiêu mà Marx nêu ra.

Thế giới hiên tại không phải đã bị Cộng sản chế ngự, mà Trung Cộng lại cũng không giành được quyền lãnh đạo phong trào tranh đấu cho vô sản thế giới. Riêng Cộng sản Việt Nam cũng theo chủ nghĩa Marx-Lenin và trước đây đã được Trung Cộng tận lực ủng hộ trong cuộc chiến đấu với người Pháp rồi người Mỹ, ngày nay cũng đã thành thù địch với Trung Cộng. Ngay ở Trung Hoa, Trung Cộng cũng chưa phải đã thành công. Đảo Đài Loan hiện vẫn còn nằm trong tay Trung Hoa Quốc Dân Đảng và một số Hoa kiều khá đông ở các nước vẫn còn theo Trung Hoa Quốc Dân Đảng để chống lại Trung Cộng một cách mãnh liệt. Trong việc điều khiển khối người sổng ở Hoa lục, Trung Cộng đã gặp nhiều khó khăn và không thực hiện được các kế hoạch phát triển kinh tế của mình như dự liệu. Mặt khác, chính nội bộ Trung Cộng đã trải qua những cuộc khủng hoảng trầm trọng làm cho xã hội Trung Hoa dưới quyền lãnh đạo của họ nhiều lần bị xáo trộn và người Trung Hoa phải chịu nhiều đau khổ.

Với câu chuyện Triêu Dương Thần Giáo, Kim Dung đã có ý cho thấy rằng việc thống nhứt thiên hạ chỉ là một giấc mộng, và ngay cả việc bắt tất cả mọi người trong một nước hoàn toàn tùng phục mình cũng là một mục tiêu khó đạt, dầu cho người cầm quyền có áp dụng những biện pháp phi nhân tàn độc để khủng bố và kềm chế người dân.

Trong hai bộ ANH HÙỪNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Kim Dung có mô tả một tuyệt kỹ của Châu Bá Thông là Song Thủ Hỗ Bác cũng gọi là Phân Thân Song Kích. Người luyện được thuật này có thể một mình đóng hai vai tuồng đối nghịch nhau y như là hai người phân biệt nhau và tranh đấu với nhau. Do đó, khi phải chiến đấu với kẻ khác, người ấy có thể đồng thời sử dụng hai môn võ hoàn toàn dị biệt và người đối địch với họ cũng gặp khó khăn y như là phải đương đầu với hai cao thủ. Muốn học được thuật Song Thủ Hỗ Bác, việc mà người ta phải tập trước hết là đồng thời dùng tay trái vẽ một hình vuông và tay mặt vẽ một hình tròn. Đó không phải là một việc dễ làm nên không phải ai cũng học được thuật trên đây của Châu Bá Thông. Người sáng tác nó vốn có biệt hiệu là Lão Ngoan Đồng, vì tuy đã lớn tuổi, ông có tánh tình bình dị chất phác và ham vui chơi như trẻ con, và luôn luôn cư xử một cách hồn nhiên, không suy nghĩ tính toán. Cứ theo Kim Dung thì những người lanh lợi thông minh, hay suy nghĩ tính toán không thể học được thuật Song Thủ Hỗ Bác. Trong các tác phẩm của ông, hai người thành công trong việc luyện thuật nay là Quách Tĩnh và Tiểu Long Nữ. Cả hai đều chất phác và chậm chạp không biết suy nghĩ tính toán khi đứng trước một vấn đề.

1) Việc tự phân thân thành hai người làm hai việc khác nhau và đối chọi nhau hoặc hoàn toàn khác nhau, như một tay vẽ hình tròn, một tay vẽ hình vuông, có thể được Kim Dung dùng để ám chỉ một diễn trình tâm lý làm cho người có thể vừa là mình, vừa tự đặt mình trong địa vị một người khác để biết người đó suy nghĩ và phản ứng như thế nào. Diễn trình tâm lý này rất cần thiết cho việc cư xử theo đạo Nhân là đức tánh căn bản của Nho Giáo. Chữ Nhân vốn gồm có hai chữ: nhị là hai và nhơn là người. Căn bản của nó là làm cho con người lúc nào cũng nhớ rằng trên đời không phải chỉ có một mình mình, và ngoài mình ra, còn có người khác. Người khác này cũng có tâm lý y như mình, điều mình ghét thì họ cững ghét và điều mình ưa thì họ cũng ưa. Người học theo đạoNhân có hai nguyên tắc phải áp dụng, về mặt tiêu cực hay thụ động, là nguyên tắc “hễ cái gì mình không muốn cho kẻ khác làm đối với mình thì mình không làm đối với kẻ khác” (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân: LUẬN NGỮ, Vệ Linh Công), về mặt tích cực hay chủ động là nguyên tắc “hễ mình muốn hưởng được cái gì thì mình cũng làm cho người khác cùng hưởng được cái đó như mình” (Kỷ dục lập nhi lập nhơn, kỷ dục đạt nhi đạt nhơn: LUẬN NGỮ, Ung Dã).

Trên lý thuyết thì vấn đề rất giản dị. Nhưng trên thực tế đạo Nhân không phải dễ đạt vì người thường có tánh chủ quan, chỉ biết phần mình mà không thèm biết đến phần người khác. Bởi đó, người ít khi tự đặt mình vào địa vị kẻ khác để xét xem họ thấy việc mình làm như thế nào và phản ứng ra sao. Lúc tự đặt mình ở địa vị kẻ khác thì người lại có thể không xét ra được phản ứng của họ một cách đúng đắn. Sau hết, cũng có thể người ta đã biết đúng phản ứng của người khác, nhưng lại vẫn không cư xử đúng cách đi tránh những phản ứng không tốt.

Để có một thí dụ cụ thể về vấn đề, ta có thể lấy trường hợp của những người lái xe đi trên đường phố. Khi đến một ngã tư có đèn đỏ và phải ngừng lại, người lái xe có thể lơ đãng và không rồ máy chạy ngay lúc đèn xanh đã bật cháy. Nếu người lái xe ở phía sau bóp còi để thúc giục, người lái xe này có thể bực tức và chửi thề. Nhưng khi xe mình ngừng ở phía sau xe khác mà thấy xe trước mình chưa chạy lúc đã có đèn xanh, chính người lái xe đã bực tức và chửi thề nói trên đây lại bóp còi thúc giục xe trước. Có người lái xe không hề nghĩ đến thái độ hoàn toàn chủ quan và thiếu hợp lý của mình trong hai trường hợp trên đây. Cũng có người đã nghĩ đến nó rồi, nhưng không thay đổi lề lối cư xử của mình trong hai trường hợp đã kể trên. Điều này cho thấy rằng việc tự phân thân thành hai người đi học theo đạo nhân không phải là ai cũng thực hiện được với kết quả mỹ mãn.

2) Thuật Song Thủ Hỗ Bác được Kim Dung mô tả có thể xem như là một giải pháp lý tưởng cho võ lâm cũng như cho trường chánh trị. Cộng đồng nào cũng có nhiều nhơn vật, nhiều đoàn thể đồng thời hiện diện. Nhưng ta đã thấy trên đây, một nhơn vật hay một đoàn thể khó có thể vượt lên trên tất cả các nhơn vật hay đoàn thể khác để chế ngự tất cả và bắt tất cả phải hoàn toàn tùng phục mình. Như vậy, nếu không muốn có sự xung đột hỗn loạn với nhau một cách quyết liệt làm hại cho tất cả, người ta chỉ còn một phương pháp là chấp nhận sự tồn tại của tất cả, nhưng điều chỉnh sự hoạt động giữa các nhơn vật và đoàn thể hiện diện sao cho tất cả có thể hòa hợp với nhau những khi cần và khi tranh đua với nhau thì cũng không phải với tinh thần thù nghịch quá độ.

Cũng như thuật Song Thủ Hỗ Bác mà bước đầu là đồng thời dùng tay trái để vẽ hình vuông và tay mặt để vẽ hình tròn, việc điều chỉnh nói trên đây không phải là dễ dàng. Nếu sự thành công trong việc luyện thuật Song Thủ Hỗ Bác đòi hỏi người phải hồn nhiên chất phác, không suy nghĩ tính toán thì việc làm cho các nhơn vật và đoàn thể trong giới võ lâm hay trong chánh trường chung sống và hòa hợp nhau mặc dầu có thể cạnh tranh nhau, cũng đòi hỏi nơi mọi người một tinh thần cởi mở và tôn trọng sự công bằng.

Đứng riêng về mặt định chế chánh trị mà nói thì thuật Song Thủ Hỗ Bác đã được các nước theo chủ trương dân chủ tự do áp dụng với chế độ đối lập chánh trị. Ở các nước này, có nhiều chánh đảng khác nhau, mọi chánh đảng đều có đường hướng và chủ trương của mình. Đại khái các chánh đảng nói trên đây được phân ra làm hai cánh tả và hữu, có lập trường khác nhau, như hình ảnh một bên vẽ hình vuông, một bên vẽ hình tròn. Các chánh đảng chia ra làm hai cánh tả và hữu như vậy đã phân công phân nhiệm với nhau, hễ một bên nắm chính quyền thì một bên đối lập. Bình thường thì hai bên cạnh tranh nhau ráo riết. Tuy nhiên, khi quyền lợi chung của quốc gia đòi hỏi, như trong trường hợp phải đối phó với một cường địch hay phải giải quyết một vấn đề quan trọng can hệ đến sự tồn vong của dân tộc, họ vẫn có thể hợp tác với nhau.

Chế độ đối lập chánh trị này chỉ có thể duy trì và vận dụng khi các chánh đảng đều chấp nhận tôn trọng một Hiến Pháp chung, cũng như hai tay tuy chia nhau, một bên vẽ hình vuông, một bên vẽ hình tròn, nhưng vẫn còn thuộc chung một cơ thể có một ý chí chung. Gặp trường hợp có một chánh đảng mưu toan phục vụ đường lối riêng của mình, bất chấp các chánh đảng khác thì chế độ đối lập bị gãy đổ. Đó là việc xảy ra ở nước Ý và nước Đức trong thời kỳ giữa hai trận Thế Chiến. Hai Đảng Phát Xít và Quốc Xã sau khi nắm được chánh quyền bằng lề lối hợp hiến đã đàn áp các chánh đảng khác để xây dựng chế độ độc tài toàn diện của mình.

Đứng về mặt chánh sách mà nói thì thuật Song Thủ Hỗ Bác có thể dùng để so sánh với chủ trương dung hòa những biện pháp thuộc hai hệ thống suy luận và tổ chức khác nhau. Trong thuật Song Thủ Hỗ Bác, hai tay chia nhau một bên vẽ hình vuông, một bên vẽ hình tròn nhưng đều thuộc một người và người này không thiên về bên nào nếu thiên về một bên thì không áp dụng được thuật ấy. Vậy, sự thành công trong việc áp dụng thuật Song Thủ Hỗ Bác hàm ý không thiên vị, tức là không có sự cố chấp một lập trường nhứt định. Sự thành công trong việc dung hòa những biện pháp thuộc hai hệ thống suy luận và tổ chức khác nhau cũng đòi hỏi sự không thiên vị và không cố chấp. Bởi đó, các nước dân chủ tự do dễ thực hiện sự dung hòa nói trên đây hơn là các nước theo chế độ độc tài.

3) Chánh trường thế giới đã cống hiến cho chúng ta những thí dụ cụ thể về vấn đề này.

Chế độ dân chủ tự do được áp dụng ở một số nuớc Tây Phương vốn có tinh thần khoan dung. Nó chấp nhận sự tự do hoạt động của nhiều chánh đảng khác nhau về mặt chánh trị, đồng thời với quyền tư hữu và quyền tự do kinh doanh của các tư nhơn. Lúc khởi thủy, các nước theo chế độ dân chủ tự do không chủ trương kế hoạch hoá kinh tế vì sự kế hoạch hóa hàm ý dùng chánh quyền điều khiển sự hoạt động kinh tế là điều trái với nguyên tắc dân chủ tự do. Nhưng về sau, vì sự tự do kinh doanh hoàn toàn đã đưa đến nhiều mối hại cho xã hội, nhứt là nạn khủng hoảng kinh tế, các nước theo chế độ dân chủ tự do đã ít nhiều áp dụng một số biện pháp liên hệ đến chánh sách kế hoạch hóa kinh tế để tránh nạn này. Tuy nhiên, loại kế hoạch kinh tế được các nước dân chủ tự do áp dụng là loại kế hoạch nhu tánh và các biện pháp được đem ra thi hành đã dung hợp được với chế độ kinh tế tự do. Do đó, các nước dân chủ tự do đã cải thiện được tình thế về vấn đề này.

Phần các nước cộng sản thì áp dụng chế độ độc tài toàn diện. Trong chế độ này, chỉ có một chánh đảng duy nhứt quyết định hết mọi việc và tài sản dùng vào việc sản xuất đều thuộc quyền sở hữu của Nhà Nước. Do đó, Đảng Cộng Sản cầm quyền cũng là đoàn thể quản trị luôn cả nền kinh tế của quốc gia theo những kế hoạch được soạn trước và được áp dụng một cách cứng rắn. Sau này, các nhà lãnh đạo cộng sản ở nhiều nước đã nhận chân rằng chế độ kinh tế tập sản hóa của họ không khích lệ người dân trong sự sản xuất và làm cho nền kinh tế của quốc gia không phát triển mạnh mẽ được.

Để cải thiện tình thế, một số nước bị Cộng sản cai trị như Nam Tư, Hung Gia Lợi, Lỗ Ma Ni, Trung Hoa và..Việt Nam đã áp dụng một số biện pháp của nền kinh tế tự do. Các biện pháp này đặt căn bản trên việc cho người hoạt động sản xuất được hướng nhiều quyền lợi hơn. Nó có làm cho sự sản xuất chung được tăng gia, nhưng cũng đồng thời đưa đến một vài chứng bịnh của chế độ kinh tế tự do như lạm phát, tham nhũng, chênh lệch tài sản v.v.. và gây sự chống đối của các nhà lãnh đạo cộng sản tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Marx-Lenin. Chủ nghĩa này vốn không dung nạp cho con người được có tư lợi, và phe trung thành với nó đã nhiệt liệt chỉ trích những người chấp nhận mượn một số biện pháp của chế độ dân chủ tự do để khích lệ người dân sản xuất. Kết quả là bên trong Đảng Cộng sản cầm quyền đã có những cuộc tranh luận sôi nổi. Sự giằng co giữa hai phe chống đối nhau đã làm cho các nước cộng sản áp dụng các biện pháp mượn của chế độ dân chủ tự do phải nhiều lần điều chỉnh chánh sách mà không đi hẳn được theo chiều hướng nào thành ra không thể thâu hoạch được những kết quả tốt. Với sự lóng ngóng của chúng, bọn Cộng sản Việt Nam hiện nay thật chẳng khác nào một người không có khả năng luyện theo thuật Song Thủ Hỗ Bác mà đương cố gắng một tay vẽ hình vuông một tay vẽ hình tròn.

Trung Cộng mặc dầu bên trong cũng có những nhà lãnh đạo trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Marx-Lenin, đã tiến mạnh hơn trong việc áp dụng một số biện pháp của chế độ dân chủ tự do để tăng gia sản xuất. Họ đã thâu hoạch được nhiều kết quả khả quan, nhưng cũng bị một số những chứng bịnh của chế độ kinh tế tự do mà các biện pháp này mang đến. Do đó, họ cũng phải ít nhiều điều chỉnh chánh sách của họ.

Nhưng trắc nghiệm để xem Trung Cộng có thể thực hiện được sự dung hòa giữa chủ nghĩa Marx-Lenin và các nguyên tắc kinh tế tự do cằn thiết cho sự phát triển kinh tế hay không hãy còn ở trong tương lai. Năm 1997, Hongkong sẽ được trả về cho Trung Hoa Nhơn Dân Cộng Hoà Quốc. Cứ theo bản hiệp ước đã ký giữa Trung Cộng với nước Anh về vấn đề này, Hongkong sẽ trở thành một Đặc Khu Tự Trị với một quyền tự trị khá rộng: nó sẽ do người địa phương quản trị theo một đạo luật căn bản giống như một Tiểu Hiến Pháp và sẽ có thể tiếp tục duy trì nếp sống theo chế độ tư bản và tự do hiện tại trong 50 năm sau 1997. Vậy, khi Hongkong đã sáp nhập vào lãnh thổ Trung Hoa, người dân Hongkong sẽ tiếp tục được hưởng một số quyền mà dân Trung Hoa ở lục địa không được hưởng. Ngoài sự cam kết của các nhà lãnh đạo Trung Cộng khi ký hiệp ước về Hongkong với người Anh, việc duy trì phần nào chế độ được áp dụng ở Hongkong hiện nay cũng phù hợp với quyền lợi Trung Cộng vì nó giúp vào việc giữ cho Hongkong được yên ổn và phồn thạnh. Nhưng với việc sáp nhập Hongkong vào lãnh thổ mình trong những điều kiện như vậy, Trung Hoa Nhơn Dân Cộng Hoà Quốc sẽ có hai chế độ khác nhau dưới quyền một chánh phủ duy nhứt. Điều này không khỏi gây ra những sự xung khắc và xu hướng đòi hủy diệt qui chế đặc biệt của Hongkong sẽ xuất hiện, lại có thể tăng cường lần lần. Chỉ khi nào các nhà lãnh đạo Trung Cộng trong tương lai vẫn duy trì chế độ của Hongkong đúng như lời cam kết với người Anh, họ mới chứng minh được rằng họ có đủ tinh thần cởi mở để dung hòa hai hệ thống kinh tế khác nhau và đáng được xem như là những cao thủ võ lâm luyện được thuật Song Thủ Hỗ Bác.

1) Trong các cốt chuyện của Kim Dung, các nhơn vật đã nhứt quyết đạt cho bằng được một mục tiêu quan trọng đã không thành công trong các mưu đồ của họ. Sự cố gắng kiên trì của họ nhiều khi đã đưa đến những họa hại, và họ càng có nhiều mưu cơ hiểm độc thì mối họa hại lại càng lớn. Trái lại, những người đã thành công phần lớn là những người không cố tâm tranh đoạt một mục tiêu. Họ là những người tốt và hành động theo lẽ phải, theo lương tâm, chỉ lo hành hiệp giang hồ, nhưng cuối cùng lại được hưởng những kết quả mà những kẻ cố tâm tranh đoạt đã đeo đuổi một cách vô ích.

Hai cha con Mộ Dung Bác và Mộ Dung Phục suốt đời đeo đuổi giấc mộng khôi phục nước Đại Yên, nhưng không thực hiện được giấc mộng này mặc dầu đã đưa ra trăm phương ngàn kế. Riêng Mộ Dung Phục đã nhẫn tâm sát hại một bộ hạ trung thành nên cuối cùng bị mất hết thế lực và thành điên rồ, đi làm vua với đám trẻ con.

Tây Độc Âu Dương Phong trước sau vẫn không tìm ra được bộ CỬU ÂM CHƠN KINH thật để luyện tập theo đó cho đúng cách, và bị Hoàng Dung gạt, ông đã luyện tập theo một chiều hướng ngược lại chiều hướng được dạy trong bộ Kinh thật. Tuy nhờ đó mà có một võ công đặc biệt, ông đã mất trí và chỉ còn di động bằng cách dộng đầu xuống đất, trổ cẳng lên trời.

Đông Tà Hoàng Dược Sư cũng là một nhơn vật cố sức tìm CỬU ÂM CHƠN KINH. Nhưng mặc dầu đã tốn nhiều tâm cơ, ông chỉ lấy được có phân nửa bộ Kinh ấy, mà công việc này lại còn làm cho người vợ mà ông hết mực mến yêu bị chết non, để lại cho ông một vết thương lòng không lúc nào hàn gắn được..

Phần Quách Tĩnh thì không hề tìm học CỬU ÂM CHƠN KINH, nhưng lại vô tình mà học được cả bộ Kinh này.

Dương Khang thì vì quyết tâm muốn làm đệ tử của Âu Dương Phong mà hạ sát Âu Dương Công Tử. Nhưng chính vì hành động này mà ông khổng được Âu Dương Phong cho thuốc giải khi ông bị nọc rắn độc vào mình và đã phải chết một cách thê thảm.

Kim Luân Pháp Vương đã không làm được Minh Chủ Võ Lâm như ông ước muốn mà lại còn bị chết trong biển lửa. Trong khi đó, Châu Bá Thông, Quách Tĩnh và Dương Quá không nghĩ đến việc giành một địa vị cao trong võ lâm lại được liệt vào hàng bá chủ với các ngoại hiệu Trung Ngoan Đồng, Bắc Hiệp và Tây Cuồng.

Trong tất cả các nhơn vật và đoàn thể tìm cách chiếm đoạt đao Đồ Long, chỉ có Tạ Tốn là đạt mục đích. Nhưng ông đã không tìm ra được công dụng của đao này. Diệt Tuyệt Sư Thái biết các bí mật của kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long thì lại không lúc nào cùng có hai võ khí này trong tay. Châu Chỉ Nhược với sự chỉ dẫn của bà đã chiếm được cả kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long và lấy các bí kíp trong đó. Nhưng cô đã không thành công trong việc thực hiện giấc mộng của Diệt Tuyệt Sư Thái. Cuối cùng, chính Trương Vô Kỵ, một người không hề nuôi ý muốn tranh đoạt địa vị hay bảo vật lại trở thành Minh Chủ Võ Lâm và có được các bí kíp chứa trong kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long.

Trọng việc tìm TỊCH TÀ KIẾM PHỔ, Chưởng Môn Nhơn phái Thanh Thành đã tỏ ra hết sức tàn độc, nhưng đã không lấy được kiếm phổ này mà về sau còn bị vũ nhục và chết thảm vì kiếm pháp mà ông nhứt định tìm học. Phần Nhạc Bất Quần thì đã đánh cắp được bản kiếm phổ lừng danh này. Nhưng chính vì nó mà ông bị thân bại danh liệt và cuối cùng chết trong tay một hậu bối võ công tầm thường là Nghi Lâm.

Các Giáo Chủ của Triêu Dương Thần Giáo cũng đã thất bại trong việc mưu đồ nhứt thống giang hồ để trường trị muôn năm. Nhậm Ngã Hành đã chết vì môn võ công tàn độc của mình là Hấp Tinh Đại Pháp. Phần Đông Phương Bất Bại thì đã luyện được công phu ghi trong QUÌ HOA BẢO ĐIỂN và thành vô địch về võ công. Nhưng chính công phu này đã làm cho ông thành ái nam ái nữ và luyến ái Dương Liên Đình, thành ra ông đã bị chết dưới tay những người võ công thấp kém hơn mình.

2) Về phía những người đã ít nhiều thành công trong việc xây dựng một sự nghiệp trong võ lâm hay trong chánh trưởng, ta có thể nhận thấy rằng phần lớn đều đã gặp rất nhiều may mắn.

Hu Trúc đã tình cờ mà được các cao thủ thượng thặng của phái Tiêu Dao dồn hết công lực của họ vào mình và dạy cho các tuyệt nghệ của họ. Phần Đoàn Dự thì nhờ nuốt con Mãnh Hổ Châu Cáp để tự tử mà lại có khả năng thâu hút công lực người khác và đã ngẫu nhiên thâu hút được công lực của một số cao thủ, đặc biệt là Cưu Ma Trí, thành ra có một nội công thâm hậu. Ông đã vô tình lạc vào cái động kín mà Kiếm Phái Vô Lượng đã cố công tìm kiếm năm này sang năm khác nhưng không ra. Nhờ đó, ông đã học được phép Lăng Ba Vi Bộ. Mặt khác, mặc dầu không muốn học võ, ông đã vô tình học đuợc môn Lục Mạch Thần Kiếm. Vậy, Hư Trúc và Đoàn Dự đã nhờ sự may mắn mà trở thành những cao thủ võ lâm thượng thặng.

Vương Trùng Dương sở dĩ có một công lực siêu phàm giúp ông đoạt được danh hiệu “đệ nhứt bá võ lâm” là nhờ lúc bé ông đã ăn được cái nấm mọc trên bã nhơn sâm. Đoàn Nam Đế và Âu Dương Phong được liệt vào hàng Võ Lâm Ngũ Bá vì đã ngẫu nhiên hút được huyết con lươn thần Kim Thiện Vương hay con rắn quí Bạch Long Xà. Quách Tĩnh cũng đã tăng thêm công lực sau khi tình cờ hút được huyết con rắn của Lương Tử Ông. Dương Quá trở thành một cao thủ vượt lên trên những người khác nhờ gặp được con thần điêu đưa ông đến chỗ ẩn cư trước đây của Độc Cô Cầu Bại rồi giúp ông luyện tập theo phương pháp của vị kiếm khách này, lại cho ông ăn một loại trái cây trân quí làm ông tăng thêm công lực.

Trương Vô Kỵ cũng như Lịnh Hồ Xung đều toàn nhờ duyên may mà chữa đuợc nội thương và học được các môn võ siêu tuyệt. Về phần Vi Tiểu Bảo, ông đã lấy được hết tám bộ TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH mà nhiều nhơn vật và đoàn thể thèm muốn, phần lớn nhờ những gặp gỡ tình cờ hơn là vì sự cố công tìm kiếm.

Phần lớn các nhơn vật trên đây đã có một bản lãnh trước rồi mới lợi dụng được sự may mắn tình cờ đến với mình. Một số đã nhờ có tâm tánh tốt và đã giúp đỡ người hoặc đã gây được cảm tình với người, hay một con vật — như trường hợp của Dương Quá và Trương Vô Kỵ — rồi mới hưởng được những kết quả tốt đẹp của một cuộc gặp gỡ phi thường. Nhưng nói chung thì đối với tất cả các nhơn vật, sự thành công đã nhờ cơ vận tốt nhiều hơn nhờ tài năng.

Sự lấn thế của cơ vận đối với tài năng biểu lộ rõ rệt nếu chúng ta đem đối chiếu sự tích của Vi Tiểu Bảo và của Tiêu Phong, về các mặt thân thế, khả năng, tâm địa và tác phong, Tiêu Phong đều vượt xa Vi Tiếu Bảo. Con người Tiêu Phong là một con người đáng được mọi người kính trọng và mến phục. Nhưng đời ông toàn gặp những gian truân. Lúc thoát khỏi ngục thất của nhà vua Đại Liêu, Tiêu Phong đã có một ý nguyện rất đơn giản là tiễn các bạn Đại Lý và Đại Tống của mình về nước họ, rồi phần mình thì cùng A Tử sang ở với người Nữ Chân. Nhưng cái nguyện vọng rất nhỏ đó cũng không thực hiện được và cuối cùng ông đã phải tự sát. Trái với Tiêu Phong, Vi Tiễu Bảo tài đức kém, nhưng lại đã gặp rất nhiều cơ hội may mắn và làm được nhiều việc trên tài sức mình. Ngay đến lúc rời khỏi chánh trường, ông cũng đã cùng với cả gia đình thoát thân được một cách êm thắm.

Trong các thông điệp chánh trị liên hệ đến vấn đề tranh thủ mục tiêu mà Kim Dung đã đưa ra trong các tác phẩm của ông, ta có thể thấy thoáng qua ý vị của đạo Nhân theo Nho Giáo, qua thuật Song Thủ Hỗ Bác của Châu Bá Thông. Nhưng nói chung lại thì các thông điệp này chịu ảnh hưởng nhiều hơn của nền triết lý Đạo Giáo được nêu ra trong bộ ĐẠO ĐỨC KINH. Hai nguyên tắc của ĐẠO ĐỨC KINH được Kim Dung áp dụng trong việc mô tả các nhơn vật của mình là “tri túc tri chỉ” và “bất tranh”.

“Tri túc tri chỉ” có nghĩa là biết như thế nào là vừa đủ cho mình và dừng lại ở đó chớ không mong muốn đòi hỏi thêm nữa thành ra đi quá mức. Cứ theo ĐẠO ĐỨC KINH thì “tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi” (Chương 44), nghĩa là “biết đủ thì không bị nhục, biết dừng lại đúng lúc thì không bị nguy”. Bộ Kinh này cũng bảo rằng: “Họa mạc đại ư bắt tri túc; cữu mạc đại ư dục đắc” (Chương 46), nghĩa là “không họa nào lớn bằng việc không biết là mình đã đủ rồi; không mối hại nào to bằng việc cứ muốn thèm mãi”.

“Bất tranh” có nghĩa là “không tranh giành”. Nguyên tắc này cũng được gọi là “bất vi thiên hạ tiên” (ĐẠO ĐỨC KINH, Chương 67) nghĩa là “không dám đứng trước thiên hạ”. Người không tranh giành, không dám đứng trước thiên hạ thì không bị ai thù ghét chống chọi. Bởi đó, khi tình thế đòi hỏi một kẻ có khả năng như người ấy đứng ra điều khiển thì người ấy được tất cả chấp nhận làm kẻ lãnh đạo.

Trong các tác phẩm của Kim Dung, các nhơn vật muốn chắc chắn trở thành một cao thủ vô địch hoặc muốn làm vua chúa, làm Minh Chủ Võ Lâm, hoặc muốn thống nhứt giang hồ dưới quyền điều khiển của mình là những người không biết “tri túc tri chỉ” và cứ muốn tranh giành với mọi người khác để chen lên đứng trước cả thiên hạ. Bởi đó, họ đã bị sự chống báng mãnh liệt và chẳng những không đạt được mục tiêu mà có khi còn bị mang họa. Trái lại, những người không có tham vọng quá đáng, không cố tâm tranh đoạt một chức vị cao quí hay một bảo vật là những người đã theo nguyên tắc “tri túc tri chỉ” và “bất tranh”, “bất vi thiên hạ tiên” và cuối cùng, họ đã được đưa lên một chức vị cao quí hay được hưởng bảo vật mà nhiều kẻ thèm muốn nhưng không được.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx