sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Các Học Thuyết Tâm Lý Nhân Cách - Chương 24 - Phần 2

5. Bát đạo

Bát đạo hay còn gọi là Bát chánh Đạo có mô hình giống như một chương trình liệu pháp có tính áp dụng rất cao, có thể được sử dụng với tất cả mọi người. Hai khái niệm đầu tiên của hệ thống Bát đạo được coi là phạm trù xây dựng trí thông minh:

1. Chánh kiến: Đây chính là khả năng hiểu biết về Tứ diệu, vốn là bốn chân lý, đặc biệt là hình thái tự nhiên của tất cả mọi vật đều là không hoàn hảo tuyệt đối, không bền vững muôn đời và không thật sự quá quan trọng. Phần nhiều chính chúng ta đã tự làm khổ mình do những hành vi mang tính đeo bám lưu luyến, thù hận, hằn học và đóng chặt cửa lòng của mình lại.

2. Chánh tư duy: Đây là não thức giúp con người có những khát khao chuẩn mực, biết hy sinh và tận tụy, giải thoát mình khỏi những ràng buộc, những hằn học và những não trạng vô tâm hờ hững. Đây là khái niệm cá nhân mình tự hoàn thiện và thăng tiến, vốn đạt được khi con người trải qua đau khổ bắt đầu thực hiện bước đầu tiên vươn lên.

Liệu pháp là một khái niệm mà cả thân chủ và nhà trị liệu không thể hời hợt xem nhẹ – Nhà trị liệu phải có một vai trò chủ động trong việc giúp thân chủ có thể phát triển kỹ năng tư duy. Thân chủ cần ý thức được thực tế cội rễ của những nỗi đau khổ của thân chủ. Trách nhiệm của thân chủ là có một vai trò chủ động trong việc thực hiện những thao tác cần thiết nhắm đến hoàn thiện và thăng tiến. Ngay cả nếu như họ cần phải đối diện với những nỗi lo sợ mà họ luôn tìm cách né tránh, đặc biệt là nỗi lo sợ khi thân chủ sợ sẽ đánh mất mình trong quá trình trị liệu.

Ba bộ phận khác của Bát đạo cung cấp những hướng dẫn rất chi tiết có tính năng như những lời huấn giảng đạo đức gọi là sila:

3. Chánh ngữ: Đây là giáo huấn khuyên răn chúng ta nên tránh xa, không vướng vào những cạm bẫy nói dối, đơm điều đặt chuyện và những lời nói có tính cách cay độc, gây tổn thương và làm mất đi tinh thần hòa khí xây dựng. Lời nói thường là thái độ đóng cửa lòng được nhận ra dễ nhất và cũng là cách dễ nhất để con người làm tổn thương đến người khác. Những nhà tâm lý hiện đại vẫn khuyến cáo các thân chủ của mình hãy chấm dứt việc tự lừa dối mình. Nhưng đạo Phật còn dặn dò thâm sâu hơn khi huấn dạy: Nếu con người thật sự chân thành ngay thẳng với thân nhân, họ sẽ tìm thấy việc lừa dối chính mình thật ra rất khó thực hiện.

4. Chánh nghiệp: Đây là đạo – đạo dạy con người hãy biết xử thế sao cho đúng với nhân vị và phẩm cách, tránh xa những hành vi gây đau đớn và nguy hiểm như giết chóc, trộm cắp hoặc những hành vi tính dục thiếu trách nhiệm. Dựa theo truyền thống, các vị Phật tổ đã nói về năm lời huấn giảng đạo đức, gồm:

– Tránh gây hại người khác.

– Đừng lấy vật không phải của mình.

– Tránh lời nói gây hại.

– Tránh tình dục thiếu trách nhiệm.

– Tránh nghiện ngập và rượu chè.

Những vị Phật tổ nghiêm khắc còn đi xa hơn năm huấn dạy khác nữa:

– Một bữa cơm thanh đạm một ngày, trước giờ ngọ.

– Tránh xa những hình thức giải trí nhảm nhí.

– Tránh ăn mặc trang điểm diêm dúa.

– Giường nằm và ghế ngồi đơn giản.

– Tránh đụng chạm và sở hữu tiền bạc.

Ngoài ra các chư tăng và chư ni sống trong các cộng đồng tu trì còn phải giữ 100 giới luật khác nữa.

5. Chánh mạng: Đây là huấn đạo khuyên răn con người hãy sống thật thà bất bạo động, không gây khổ đau cho người khác. Đây là điều chúng ta không chú trọng trong thời gian gần đây. Chúng ta nhận ra vẫn còn những bất công xảy ra hàng ngày đến từ tham lam; cắt cuống họng lẫn nhau, khinh thường kỷ cương, phỉ báng tòa án lương tâm. Gian lận từ trong mùa thi cử đến buôn bán kinh doanh và nhiều lợi dụng khác trên danh nghĩa nhân đạo nhưng thực chất là vỏ bọc của những hành vi lừa đảo. Tuy nhiên chánh nhân không có nghĩa là một cá nhân phải xuất gia, qui y. Song hãy thực hiện nhiệm vụ, công việc của mình một cách có ý nghĩa và tinh thần trách nhiệm trong cương vị công việc của mình. Như thế, dù là người bán báo, xin ăn, cô giáo, công an, ca sĩ, thầy thuốc, luật sư ai trong chúng ta cũng có nhiều cơ hội để trở thành một con người tốt.

Đây là một điểm tốt để bắt đầu những thuật ngữ mang khái niệm gắn liền với tôn chỉ của Phật giáo: Nghiệp quả: Xét về mặt căn bản, nghiệp quả ngụ ý về những hành vi tốt hay xấu sẽ sinh ra những kết quả khác nhau. Có một vài nhánh Phật giáo tin rằng nghiệp quả sẽ có ảnh hưởng quyết định đến quá trình nhập thể trong đời sống kiếp sau của vòng quay luân hồi. Tuy nhiên một số các nhánh Phật giáo khác cho rằng nghiệp quả là khái niệm cho rằng những hành vi xấu và hành vi tốt sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực hay ảnh hưởng tích cực lên phẩm cách của một cá nhân.

Theo nhánh Phật giáo cởi mở và chú trọng đến tính hiện sinh của các hành vi thì làm điều thiện sẽ thắp sáng tâm hồn, giống như câu nói cửa miệng của các người bán hàng rong Ai Cập vẫn nói rằng: Làm một điều thiện sẽ đem về cho ta thêm ba lần nhiều hơn, vì thế lòng thiện cho đi sẽ càng nhận lại nhiều hơn. Làm điều xấu, gây hại đến anh em, cứ như thế tâm hồn họ sẽ càng lu mờ tăm tối hơn, họ sẽ không còn tìm thấy được ý nghĩa của niềm vui đích thực và hạnh phúc trở thành khó đến vì tâm hồn họ quá nặng nề với những mặc cảm hằn học. Tóm lại, điều thiện tự thân nó là quà tặng cuộc đời cho mình và cho người khác. Điều ác: tự thân nó là hỏa ngục giam hãm người đã làm ra nó.

Ba bộ phận sau cùng của Bát đạo là trung tâm của những huấn giảng đã thật sự khiến cho đạo Phật trở nên được nhiều người biết đến, đây là những huấn dạy về thiền.

6. Chánh tinh tấn: Đây là huấn đạo hướng con người đến việc kiểm soát và kiềm chế tâm trí của chúng ta và cả nội dung của những tư tưởng trong đó, đơn giản đây là cách khuyến khích chúng ta hãy thực hiện để thăng tiến đời sống nề nếp tinh thần khi những tư tưởng xấu và những xung động tiêu cực xuất hiện, chúng cần được dẹp bỏ và đánh tan. Đây là cách chúng ta cẩn thận cảnh giác với những tư tưởng tiêu cực và ngăn chặn không cho chúng có cơ hội trở thành đeo bám và luyến lưu câu nệ. Chúng ta nên đối diện với những sự kiện hiện diện trước mắt như một thực tế mang tính dữ kiện khách quan. Chúng ta không nên thêm thắt hay bớt xén, không từ chối mà cũng không dồn nén. Ta nên có một thói quen coi tất cả những sự kiện như một sự kiện thuần túy. Tư tưởng tốt đẹp và những khát khao chân chính hướng thiện cần được nuôi dưỡng và vun trồng. Hãy biến việc thiện trở thành một thói quen của đời sống chính mình.

7. Chánh niệm: Đây là phạm trù huấn đạo có liên hệ đến tham thiền tập trung vào quá trình chấp nhận những tư tưởng và cách nhìn, một sự quan tâm và tiếp cận bạch thoại những sự kiện hoàn toàn không có bất cứ những thái độ suy diễn câu nệ vướng víu nào. Đây là lối tìm đến sự thanh thản trong bối cảnh đời sống bình dị hàng ngày. Đây là cách tu tâm để đạt đến trạng thái sung mãn hơn, phong phú hơn và có ý thức trách nhiệm với đời sống. Đây chính là điều giúp chúng ta sống thực, có ý thức, có ý nghĩa, thay vì sống trượt – sống như một sinh thể trong trạng thái mộng du.

Một giáo huấn tinh thần quan trọng nhất trong Phật giáo là: Nên tránh việc đánh mất ý thức của mình hay là hành động thay thế những giá trị vật chất để khỏa lấp nhưng khoảng trống, ví dụ như mượn rượu và thuốc phiện để quên sầu. Đây là trạng thái tiêu cực đã khiến chúng ta cảm thấy mình càng thiếu vắng hơn, tạo ra những tín hiệu giả tạo, dẫn ta đi ngược với xu hướng thăng tiến phục thiện để đi vào những thói quen đóng cửa lòng, hay tệ hơn là thói quen an tâm với những u mê.

Ngoài ra còn có những chất hóa học như thuốc lá, thuốc phiện và rượu có thể giảm thiểu ý thức trong sáng của chúng ta. Nhiều cá nhân né tránh cuộc sống qua những kênh van xả khác như tham lam trong ăn uống, thác loạn tình dục và những đam mê thiếu lành mạnh khác. Nhiều người vùi mình vào công việc, những công việc trống rỗng, quá nguyên tắc đến độ cứng nhắc, hoặc thao tác thể hiện tính chất sai lệch, dẫn đến việc mình trở thành trung tâm của những giá trị ảo. Nhiều người chìm vào giải trí thiếu lành mạnh và vòng xoáy càng lúc càng quăng mạnh hơn.

Chúng có thể nhận chìm ý thức cảnh giác của mình dưới sức nặng của vật chất. Chúng ta mê mải muốn mình có xe tay ga, điện thoại di động đời mới nhất, mặc quần áo hàng hiệu và những cuốn hút vào mua sắm phô trương. Phần lớn những người tu trì thường xa lánh những lôi kéo xa hoa phù phiếm. Thời hiện đại A–còng (@) và kỹ thuật số đã thay đổi và có những tác động rất mạnh lên đời sống của chúng ta, trong đó vai trò của quảng cáo, hệ thống bán hàng siêu thị, những phương tiện truyền thông đã bắt đầu lũng đoạn cách nghĩ và cách cư xử của chúng ta.

8. Chánh định: Đây là lối tham thiền trong đường hướng sinh hoạt cần đến khả năng cố gắng tập trung để tẩy rửa và dọn sạch những lưu luyến về vật chất và tư dục, những tư tưởng né tránh, lầm lạc trong cõi u mê để ta nhận thức được rằng mọi giá trị trong đời sống không thể tuyệt hảo, bền vững vĩnh hằng. Nhất là chẳng có điều gì là tuyệt đối quan trọng. Đây là lối tham thiền cao nhân của Phật giáo và chỉ có một số ít tu sĩ Phật giáo sau một quá trình tu luyện lâu ngày mới đạt được cảnh giới này.

Tựu trung lại, những bước chánh đạo trước sẽ là bậc thang, cung cấp nền tảng cơ bản cho bước chánh đạo cao hơn. Ví dụ như để đạt được trạng thái bình an thật sự, một hình thái của tập trung tư tưởng hay con gọi là Chánh định, chúng ta cần chủ động tìm ra ý nghĩa thật sự của cuộc sống qua tham thiền. Tham thiền là quá trình tập hợp những thao tác có sự lặp đi lặp lại như một chu kỳ mà ta vẫn bắt gặp qua những ví dụ xảy ra rất nhiều trong đời sống thiên nhiên. Một cách tham thiền hiệu quả nhất là tập đếm hơi thở của mình, tụng niệm những lời kinh… Chính sự làm cho tĩnh lặng tâm hồn là điều quan trọng then chốt đạt đến tinh thần trong sáng, tạo ra những cố gắng phấn đấu và tập trung vào những hành vi mang tính thiện. Chỉ khi nào chúng ta được giải phóng ra khỏi những ràng buộc của tư dục và sầu não, chúng ta mới nhìn thấy giá trị của việc xây dựng kiến thiết trong ánh sáng.

Tất nhiên những giá trị tham thiền cần với gắn bó với cuộc sống. Đánh máy chữ trong cơ quan với tất cả tinh thần yêu công việc là tham thiền. Cho con bú với tình cảm của một người mẹ tràn đầy yêu thương là tham thiền. Đọc một cuốn sách có ý nghĩa giáo dục là tham thiền, ăn cơm, coi ti vi, lái xe đi làm, thăm người ốm, dạy phụ đạo cho một em bé, nhặt một cộng rác trước sân nhà, nói một câu có tinh thần xây dựng, xin lỗi, nhận lỗi, phản tỉnh… tất cả đều là tham thiền. Một ngày như thế, chúng ta đã có không biết bao nhiêu là cơ hội tham thiền.

6. Ứng dụng vào tâm lý

Phần nhiều các nhà tâm lý trị liệu thấy nơi thân chủ của mình là tình trạng lo lắng. Và đây là cội rễ của mọi lo âu về đau khổ nếu xét về phương diện tâm lý. Trạng thái thứ hai thân chủ hay gặp phải là tình trạng hằn học không thể giải quyết được. Nếu không phải là đau khổ vì hận thù căm tức, đây sẽ là những nỗi buồn thụ động u sầu, trầm uất và chán nản. Nhiều người có thể giải tỏa được những vấn đề này bằng cách tham thiền – một cách tập trung vào mọi diễn biến và sự kiện trong đời sống như một sự kiện hay một trạng thái mang tính dữ kiện. Tham thiền là gạt bỏ những suy diễn rối rắm không cần thiết, dẫn đến những nỗi lo lắng mơ hồ, sau đó dồn nén lại, nặng dần lên và cuối cùng là khả năng chịu đựng có giới hạn của chúng ta sẽ bị phá vở. Tham thiền không giúp chúng ta gạt bỏ tất cả những sự kiện trọng đời sống - nhưng tham thiền là một cửa sổ mở ra bầu trời chân lý, giúp ta nhìn ra chân tướng bình thường của sự kiện bằng một trái tim không vướng axít hằn học, bằng đôi mắt trong sáng không bị mây tối che mờ và bằng khối óc được hoàn toàn thanh thản tự do không còn những bụi bặm vị kỷ, lo lắng và hoài nghi.

7. Bồ tát

Một vị Bồ tát là một cá nhân đã đạt đến cảnh giới khai sáng. Bồ tát là người đã chọn không đi vào cõi Niết bàn mà quyết định ở lại vòng sinh tử luân hồi để giúp đỡ con người – những Bồ tát là người có lòng vị tha và nhân từ đến độ họ muốn phổ độ chúng sinh qua những hiện thân hiện tại để mọi người cùng được đến cõi Niết bàn với họ. Một mô hình của Bồ tát là những vị tiên, các vị thánh. Và niềm tin của nhiều nhánh Phật giáo phía Bắc vẫn tin rằng ai cũng có những đức tính tiềm tàng có khả năng để trở thành Bồ tát.

Làm sao chúng ta có thể tìm thấy chân dung của một vị Bồ tát giữa những con người bình thường xung quanh chúng ta? Họ thường là những con người có bốn đức tính cao quý được gọi là Phật tánh:

– Yêu thương tử tế tất cả mọi loài chúng sanh.

– Có lòng trắc ẩn với tất cả những ai đau khổ.

– Vui mừng và đồng cảm với tất cả những ai đang vui vẻ.

– Tâm xả, bỏ mọi phiền não, bình thản tự tại.

Đơn giản hơn, trong chúng ta, ai cũng đã có những cơ duyên chính mình là một Bồ tát. Hoặc ta nhiều lúc vẫn buột miệng kêu lên rằng: Bạn bồ tát quá! Ông ấy bồ tát lắm! Cậu ấy, chị ấy, người ấy Bồ tát quá! Hiểu theo một ý nghĩa thiêng liêng nào đó, ta có thể tìm thấy Bồ tát từ nơi chính con người của mình và những người xung quanh.

Với Phật giáo phương Bắc, Bồ tát là người đã đạt được giới cảnh hư vô. Một trạng thái họ đã vượt qua những não thức lưỡng cực bình thường. Chúng ta thường có những não thức tư duy lưỡng cực như: [đó–đây], [chúng ta–người khác], [có–không], [trước–sau], [mối lợi–điều hại], [được–mất]… Người đã được khai sáng nhìn thấy tất cả những giá trị này hòa quyện tan loãng vào nhau, trở thành một tổng thể. Khi không còn lưỡng cực hay đối cực, trạng thái so sánh đắn đo không còn nữa – chúng ta là những con người – khi thế giới trở thành hợp nhất – tự thân thế giới sẽ trở thành hư vô. Bạn sẽ không còn ưu tư để chọn lựa nữa. Trong mắt bạn tất cả chỉ có một giá trị duy nhất – tất cả trở thành hư vô – một trạng thái tan loãng của sự hợp nhất.

Một hình thái của thiền trong Phật giáo là Zen. Đây là cách những đồ đệ thường hỏi các bậc cao tăng, cao ni với những câu hỏi. Các bậc cao tăng, cao ni sẽ suy nghĩ tham thiền về những câu hỏi này và mong mình sẽ phá vỡ được não thức đối cực để đến được với não thức vô cực. Đây vốn là những câu hỏi vẫn án ngữ trên hành trình chúng ta đi tìm sự liên hệ với vũ trụ. Một trong những ý niệm nổi tiếng nhất là: âm thanh khi bạn vỗ tay bằng một bàn tay sẽ như thế nào?

Đây là ý niệm vượt qua những cảm giác bình thường. Âm thanh nào được đưa ra cũng đều không đúng cả. Nhưng bảo là im lặng thì cũng không đúng, vì một bàn tay vỗ không hẳn là một sự yên lặng, mà đó là một sự yên lặng bên trong một sự yên lặng khác. Khái niệm chiều kích âm thanh và im lặng không thể áp dụng cho những đại lượng không bao hàm trong nó những chiều kích này. Đây là câu hỏi tạo ra chất liệu và cấu trúc tư duy rất khác thường như những khúc xạ mà những não thức bình thường sẽ vấp phải khó khăn trong quá trình lý giải. Ví dụ như màu xanh nếm có vị gì? Sự thật ngửi mùi ra làm sao? Chân dung của tiếng gió? Hình ảnh của lương tâm? Tất nhiên là vì có quá nhiều câu trả lời nên cuối cùng tất cả tan lẫn vào nhau, não thức của con người sẽ tan biến và trở thành một trạng thái của hư vô.

Một câu hỏi đầy diệu ý khác là: nếu tôi nói, tôi sẽ bị phạt. Nếu tôi không nói, tôi cũng vẫn bị phạt. Nghe có vẻ đây là một ngõ cụt không có lối ra, hai kết quả giống nhau không tránh được và như thế sẽ chẳng có gì khác biệt giữa hai chọn lựa, vì thế chúng ta chẳng thiết tha gì đến khái niệm tự do trong chọn lựa của mình. Tuy nhiên không phải ai cũng nhìn thấy ý nghĩa tự do trong một tình huống mà họ không còn cần đến phải có những lựa chọn khác nữa. Có lẽ nếu ta đổi câu nói trên thành: im lặng tôi sẽ được thưởng, nói ra tôi cũng được thưởng, ta sẽ dễ nhận ra giá trị của sự tự do hơn. Một lần nữa não thức không trói buộc vẫn là một lựa chọn tốt nhất cho sự thanh thản.

8. Niết bàn

Đức Phật tổ đã có câu: Niết bàn là hiện thân có nghĩa, một đời sống hoàn thiện là bản thân chính đời sống. Có quá nhiều điều chúng ta được nghe thấy về những tư tưởng vĩ đại, sâu sắc, thâm thúy và những cảnh giới khai sáng, những hiện tượng tối thượng… Thật ra đạo Phật đơn giản hơn như thế, nhìn từ góc cạnh mô hình so sánh, đạo Phật chính là một phương thế đem lại hạnh phúc giữa cuộc đời bằng cách quay trở về với cuộc sống, bắt đầu từ đời sống của mỗi chúng ta, khởi hành từ những thái độ mới, mỗi ngày một ít.

Bằng cách nào? Hãy bình thản lại, sống chậm hơn một chút, ý thức hơn một chút. Hãy là một người dễ mến thân ái hơn, đạo đức hơn mỗi ngày một chút. Khi một người được giải phóng khỏi hằn học ghen tuông, khỏi tham lam độc ác, dẹp hết những tư vị cay đắng, từ bỏ đeo đuổi những mơ ước viển vông, họ sẽ có bình an. Nhất là ta nên tìm thấy ý nghĩa khổ đau trong vui thỏa và hạnh phúc ở chừng mực tiết độ, cuộc sống của chúng ta sẽ không bao giờ rơi vào những cung bậc não thức dằn vặt, kể cả hơi thở của ta sẽ nhẹ và thơm hơn. Hãy ngừng ngay việc tự hành hạ mình, hãy cho phép mình hòa nhập và tận hưởng những gì chúng ta đáng được tận hưởng. Cuộc sống là một kho tàng niềm vui. Bạn hãy từ bỏ u ám và đau khổ, chỉ với không còn đau khổ và u ám nữa thì cuộc sống tự thân nó đã vui vẻ hơn gấp bao nhiêu lần rồi.

Các nhà Phật học còn sử dụng khái niệm tu luyện để diễn tả về những hành động và ý thức của mình. Họ khuyến khích chúng ta hãy cứ tiếp tục luyện tập. Họ khuyến khích chúng ta rằng chẳng có cá nhân nào là hoàn hảo. Và điều họ muốn nhắc nhở chúng ta là hãy nâng mình lên, mỗi ngày một ít – và đó cũng chính là điều mà các nhà liệu pháp muốn những thân chủ của mình nên thực hiện: Mỗi ngày một ít. Và đó cũng là nền tảng của tất cả những kỹ năng liệu pháp.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx