Tới ngày 20-6, vua Louis XVI phản ứng bằng cách đóng cửa phòng hội trường không cho họp, Sáng hôm đó, tròi mưa tầm lã, đoàn đại biểu thứ dân đành phải kéo nhau đi ngoài phố đế tìm chỗ họp, lếch thếch như một bọn Do Thái lang thang, theo sau có một số đông dân chúng. Tìm mãi được một căn nhà lớn, thường dùng làm chỗ đánh cầu cho các vị quý tộc. Quốc hội liền vô đó họp. Tới ngày 22-6, nhà vua lại sai người đóng cửa phòng đánh cầu. Đại biểu thứ dân lại lang thang một lần nữa, tới họp tại nhà thờ Saint-Louis. Họp đển buổi trưa. bỗng nhiên cửa nhà thờ mở rộng: 148 đại biểu tu sĩ, dẫn đầu bởi một vị Tổng Giám mục, đã vào nhà thờ họp chung với thứ dân. Quốc hội đã thắng một trận lớn đầu tièn.
Cực chẳng đã, tới ngày 23-6, nhà vua đành phải mở lại cửa phòng hội trường cho các đại biểu tới họp ở điện Versailles. Quý tộc và tu sĩ cũng tới. Vua cũng tới, nhưng lần này với rất nhiều vệ binh. Khi kết thúc hài diễn văn, Louis XVI nói: "Trẫm ra lệnh cho các đại biểu phải phân tán lập tức, để sáng nqày mai tới họp riêng từng tầng lớp một đề bàn công việc". Sau lệnh đó, kèn trống nổi lên và nhà vua bãi triều. Quý tộc và phần lớn tu sĩ ra theo gót nhà vua. Tiêng có thứ dân và một số tu sĩ vãn đứng lại trong phòng họp. Ông hầu tước phụ trách việc khánh tiết của nhà vua, tới yêu cầu ông Chủ tịch Quốc hội cho giải lán. Mirabeau liền hầm hầm trả lời: "Ông hãy về nói cho những người gửi ông tới đây biết rằng chúng tôi đến đây họp là do ý chí của toàn dân, và chỉ có thể lấy lưỡi lê mới đuổi chứng tôi ra khỏi nơi này mà thôi!". Tiếp theo. Sieves cũng đăng đàn hô hào: "Thưa quý đại biểu, các ông tới đây hôm nay để tiếp tục việc hôm qua. Xin bắt đầu cuộc thảo luận". Rồi Quốc hội lập tức quyết nghị rằng những đại biểu có tính cách bất khả xâm phạm. Rồi ngày 24-6, thêm một số đại biểu tu sĩ tới gia nhập. Ngày 25- 6, 47 đại biểu quý tộc cũng gia nhập. Đối với nhà vua, Quốc hội lại thắng một keo lớn thứ hai nữa.
Trong thời gian đó. dân chúng ngày càng đói kém và tình trạng dần trở thành hỗn loạn. Tại các tỉnh, khi nhận đượe thư từ của các đại biểu, dân chúng cũng bắt đầu xôn xao. Tại Paris, các chứng khoán đều sụt giá. Ngân hàng đóng cửa. Vua Louis XVI cho gọi thêm 20.000 quân về điện Versailles, phần lớn là người ngoại quốc. Quốc hội cũng đâm hoảng sợ. Tin đồn rằng IIoàng đế nước Áo, anh vợ của Louis XVI, sẽ gửi thêm quân tới, và Quốc hội sẽ bị giải tán, còn các đại biểu sẽ bị giết. Cứ tối đến, nhiều đại biểu không dám ngủ nhà. Đứng trước sự đe dọa của sức mạnh, Quốc hội lâm vào một tình thế khó giải. Nhưng dân chúng thành Paris đã nổi dậy giải nguy cho Quốc hội.
Dân chúng Paris vốn đã xôn xao vì đỏi rét và các tin đồn. Quận công d'Orlèans cùng các nhà đại tư bản lụi vung tiền lôi kéo được đoàn vệ quân của thành Paris. Đồng thời, họ cũng tổ chức được những đoàn tự vệ trong 18 khu phố. Paris lúc đó thật hết sức sôi nổi. Dân chúng biểu tình khiêng bức tượng của quận cỏng d'Orlèans. Các rạp hát đều đóng cửa, các biểu ngữ giăng đầy đường, và không nơi công viên nào là khỏng có người diễn thuyết. Trong một cuộc diễn thuyết, Camille Desmoulins đã đột nhiên tung khẩu hiệu: "Dân chúng hãy tự võ trang". Khẩu hiệu ấy. trong chốc lát đã lan tràn thành phố, những đám đông đã tự động phá cửa những tiệm bán khí giới để eưửp súng, cùng đánh cướp những kho khí giới khác. Tới ngày 14-7-1789, dân chúng Paris đã nổi loạn eướp nhà ngục Bastille.
Thực ra. lúc đánh cướp ngục Bastille, dân chúng Paris không có ý định đạp đố đế chế. vì trong lúc tấn công, họ cỏn hô khẩu hiệu: "Vua vạn tuế!". Họ cũng không có ý định giải phóng những tù nhân chính trị, vì trong ngục lúc đỏ, phần lớn chỉ lá những con nợ bị tù. Nguyên nhân của cuộc đánh phá chỉ là cốt chiếm kho và khí của nhà ngục. Dân chúng Paris có phái một phái đoàn tới yêu càu viên thống đốc coi ngục phải giao khí giới. Cuộc điều đình kéo đài trong mấy tiếng đồng hồ, và viên thống đốc mời phái đoàn dùng cơm. Trong khi đó, dân chúng võ trang đứng đợi bên ngoài. Thấy bặt tin, dân chúng xao động. có mấy người sốt tiết nhẩy xuống hào. lội qua lên bờ, lấy búa chặt giây xích để hạ cổng nhà ngục. Một vài phát súng nổ lẻ tẻ. Trên chòi cao. viên thống đốc quan sát tình thế. Không biết ông có ra hiệu bắn hay khòng, song những lính giữ ngục đã nổ một loạt súng. Trong đám dân chúng, nhiều người bị thương hoặc chết. Máu xung lên, họ ào ào mở cuộc tấn công. Đoàn Vệ quân thành Paris tới tiếp viện cho dân chúng, đem cả súnh thần công tới. Đạn thần công phá vỡ cổng nhà ngục. Dân chúng ào vào chém giết chặt đầu viên thống đốc bêu lên ngọn giáo cắm cửa ngục. Suốt đêm hôm đó, dân chúng Paris đốt lửa, nhẩy nhót xung quanh những chiến lợi phẩm cùng đầu lâu người. Từ đó, đân chủng Paris đã được tổ chức gần thành một lực lượng thống nhất dưới quyền của Paris Công xã. La Favettc được cử làm chí huy trưởng đoàn Vệ quân cùng những Tự vệ thành Paris.
Sau khi ngục Bastille thất thủ thủ. Nhiều người trong hoàng tộc đã bỏ vua Louis XVI để xuất ngoại. Bị cô lập trong điện Versailles, Louis XVI đành chịu đầu hàng. Ngày 15-7, Vua ra mắt Quốc hội chín thức báo tin rằng sẽ giải tán những quân đội tập trung gần điện Versailles. Ngày 17-7, vua ngự giá tới Paris, đốn nhà Đô Chánh, bắt tay viên Thị trưởng thành Paris, và chấp nhận lá cờ cách mạng gồm ba mầu, xanh đỏ là màu của Paris, còn mầu trắng tượng trưng cho nhà vua.
Noi theo gương Paris các tỉnh cũng võ trang giấy loạn. Dân chúng các tỉnh, nhất là tầng lớp tư sản đô thị, cũng bỏ tiền tổ chức những đoàn tự vệ, chiếm đóng các công sở. Tại các vùng quê, tình trạng hỗn loạn bắt đầu. Nhiều nơi, những toán nông dân nổi lên chia ruộng. Nhiều toán khác đánh cướp những kho lúa hoặc những đoàn xe chở lúa. Cướp bóc nổi lên như ong. Cứ chiều đến, tại các làng, trống mõ đều nổi dậy. Các cầu cống đều đóng cửa, tai nơi cổng làng, đán chúng đặt chướng ngại vật để ngăn nhừa kẻ gian phi.
I.úc đó. phần lớn quý tộc đã xuất ngoại, chỉ còn lại một số quý tộc ít ruộng đất, hoặc có khuynh hướng cấp tiến. Nhận thấy tình trạng đã tiến tới mực độ bất khả vãn hồi. nên trong đêm 1-8-1789, các quý tộc trong Quốc hội đã đồng thanh tuyên bố huỷ bỏ những ưu quyền của mình. Ọuốc hội đã bỏ thăm chấp nhận sự hủy bỏ các quyền phong kiến. Trong những ngày tiếp theo, Quốc hội mở cuộc thảo luận về hiến pháp. Họ chấp nhận nguyèn tắc chủ quyền của Quốc dân. Đồng thời, noi theo Montesquieu và Rousseau, họ chấp nhận sự phân quyền (lập pháp, hành chánh, tư pháp) cũng như chấp nhận những quyền tự do cơ bản của cá nhân. Tuy nhiên, vua Louis XVI vẫn chần chờ không chịu chuẩan phê những đạo sắc lệnh biểu quyết sau ngày 1-8. Trong khi thảo luận hiến pháp, những chia rẽ chính kiến đã dần dần xuất hiện tại Quốc hội. Một số đại biểi tỏ ý ngại những hành động quá khích do dân chúng mới gây nên, đã trở lại muốn bênh vực cho chế độ cũ. Một thiểu số khác lại chủ trương quá khích hơn, tỷ dụ nlur Danion. Các báo chi Paris nhất là tờ "Bạn Dãn" của Marat, luôn luôn khích động dân chúng và hô hào những biện pháp quá khích. Trong lúc đó. mặc dầu có lời hứa giái tán quàn đội, vua Louis XVI vẫn gọi thêm quân về Versailles. Trong một bữa tiệc khao quân, vua và hoàng hậu đã đích thân tới chào mừng binh sĩ. Và khi nâng cốc, một số quan quân đã giựt lá cờ tam tài vứt xuống đất. Những tin đó khiến dân chúng Paris công phẫn. Tờ "Bạn Dân" thừa dịp đổ thêm dầu vào lửa. Ngày 6-10-1789, tại hội quán Jacobins, Danton lên diễn đàn yêu cầu Paris Công xã ra lệnh cho La Fayette mang đoàn Vệ quân tới điện Versailles đòi nhà vua phải giải tán quân đội. Dân cluìng lại tụ họp biểu tình, phần lớn là đàn bà, đến 7, 8 ngàn người. Một số đàn ông đánh phấn, mặc váy, di theo đám binh lính. Vì được lệnh của Paris Công xã, La Fayette cũng mang đoàn vệ quân đi theo. Khi tròi sập tối, mưa đổ xuống, đám biểu tình tới Versailles. Đứng trước đám dân chúng phẫn nộ, Louis XVI, một lần nữa lại nhượng bộ. Nhà vua bằng lòng chuẩn phê những đạo sắc lệnh do Quốc hội quyết định sau ngày 1-8. Nhưng lần này, đám biểu tình làm dữ hơn, nhất định bắt nhà vua phải rời điện Versailles để trở về Paris. Cực chẳng đã, nhà vua đành đem gia quyến và quần thần lên xe ngựa lũ lượt trở về Paris. Theo sau là đám dân chúng vẫn còn hô khẩu hiệu: "Nhà Vua vạn tuế!". Ngày 6-10 lại đánh đâu một bưởc thắng lợi thứ hai của dân chúng. Từ đó trở đi, cho đến khi ngai vàng bị sụp đổ, nhà vua cùng triều đình đã phải ngụ lại điện Tuileries ở Paris. Quốc hội cũng trở về Paris, đặt trụ sở tại một căn nhà gần điện Tuilevies. Lâu đài Versailles chỉ còn lá một nơi vắng vẻ, chửa đựng những hình ảnh dĩ vãng mà thôi!
Cuộc can thiệp của dân chúng trong ngày 6-10-1789, mặc dầu có mang lại thắng lợi cho cách mạng, đã gây nên những chia rẽ chính kiến trong Quốc hội. Trước sự bạo động của dân chúng luôn luôn cồ võ bởi một số lãnh tụ quá khích, phần lớn những đại biểu trong Quốc hội đều cảm thấy e ngại. Tuy một mặt, họ vẫn sợ âm mưu của nhà vua, nhưng mặt khác, họ e ngại những hành động quá khích và độc đoán của dân chúng Paris. Áp lực của dân chúng luôn luôn muốn nổi loạn trên hè phố đã khiến cho bầu không khí trong Quốc hội đôi khi trở nên nghẹt thở và thiếu sự tự do để thảo luận. Sau Ngày 6-10, dần dần có một số chừng 120 đại biểu bỏ không tới họp. Ngay đến La Fayette cũng phản đối sự bạo động quá khích. Muốn thâu hồi lại chủ quyền, Quốc hội đã quyết nghị trừng trị những kẻ chủ mưu trong vụ biểu tình ngày 6-10. Một tiểu ban được cử ra đề mở cuộc thẩm vấn, và Marat, chủ bút báo "Bạn Dân", bị bắt vô khám. Lúc bấy giờ, khuynh hướng ôn hòa đã thắng lợi với đại đa số trong Quốc hội.
Từ đó trở đi, cho đến ngay 11-7-1790, sự chia rẽ chính kiến vần tiếp tục đào sâu những hố cách biệt. Vua Louis XVI vẫn kéo dài cuộc đề kháng âm thầm, các tay lãnh tụ cực đoan như Marat, Robespierre, Danton, Camille Desmoulins vẫn tiếp tục viết báo, hoặc đăng đàn tại hội quán Jacobins dê khích động dân chúng. Nhưng đa số Quốc hội vẫn đứng ở lập trường ôn hòa. Trong khi đó, Quốc hội tiến hành việc dự thảo hiến pháp. Do sự dự thảo hiến pháp, nên Quốc hội đã lấy tên là Quốc hội lập hiến. Khuynh hướng của hiến pháp cũng là khuynh hướng ôn hòa cách mạng. Hiến pháp chấp nhận sự phân quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền lập pháp sẽ được nắm giữ bởi Quốc hội gồm 745 đại biểu, bầu ra trong một nhiệm kỳ 2 năm, có tính cách bất khả xâm phạm, và không ai có quyền giải tán. Quốc hội sẽ làm các luật, nhất là luật về thuế khóa. Quyền hành pháp sẽ được tượng trưng bởi nhà vua với một hội đồng bộ trưởng. Đối với các luật chấp nhận bởi Quốc hội, nhà vua chỉ có quyền phủ quyết. Đoàn ngự lâm quân bị giảm xuống 1.800 nguời. Như thế, Quốc hội mới thực sự tượng trưng cho chủ quyền quốc dân, vì Quốc hội là do dân chúng bầu lên. Nhung vì e ngại khuynh lurớng quá khích của dân chúng, bản hiến pháp đã quy định những hạng người có quyền bầu cử: chỉ có người dân nào hàng năm có nạp thuế tới một tỷ lệ ấn định, người đó mỏi có quyền bầu cử. Do đó. những tầng lớp dân chúng nghèo, bị loại ra khỏi sự sinh hoạt chính trị. Đem so sánh, thể thức bầu cử của bản hiến pháp mới còn kém tính cách bình đẳng của thể thức bầu cử Quốc dân Đại biểu trước kia do Louis XVI ban bố.
Đồng thời với việc dự thảo hiến pháp. Quốc hội vẫn phải tiếp tục giải quyết mọi vấn đề sinh hoạt trong nước. Vấn đề khó khăn trọng đại hơn cả là vấn đề tài chính, vì ngân khố trống rỗng, Mirabeau đã nói giữa Đại hội: "Các ông thảo luận, thảo luận hoài! Nhưng giờ này, sự phá sản đương chờ các ông ngoài cửa". Cùng kế, Quốc hộỉ đã nghĩ tới tài sản của Giáo hội nước Pháp, một tài sản vĩ đại mà các con chiên sùng đạo, lúc chết đi, đã di chuyển lại cho Giáo hội. Tổng giám mục De Tallevrnnd là người đầu tiên đề nghị với Quốc hội nên tịch thâu tài sản Giáo hội. Lời đề nghị được chuyển thành sắc lệnh. Những tài sản ruộng đất của Giáo hội sẽ được đùng làm bảo đám cho những phiếu công trái phát hành bởi ngân khố Quốc gia. Do sự tịch thâu tài sản, Quốc hội đã xâm phạm luôn tới sự tổ chức Giáo hội. Vì không còn tài sản sinh sống, giám mục và mục sư đành phải phụ thuộc vào nhà nước, và như thế, Giáo hội Pháp đã dần dần phải ly khai với La mà để trở thành một Giáo hội của nhà nước. Những biện pháp này đã gây nhiều khó khăn cho Quốc hội. Vì Giáo hội La mã đã tìm hết cách phản đối. Ngoài ra, vua Louis XVI, vốn rất mộ đạo, cùng không chịu chuẩn phê những sắc lệnh nói trên, hơn nữa, trong các tu sĩ, có nhiều vị không chịu tuyên thệ với Giáo hội mới. Nhiều tu sĩ đã bỏ trốn. Tại những vùng sùng đạo như Bretagne, nhiều tầng lớp lớp dân chúng ngoan đạo trở thành công phẫn, và đó là màn nổi loạn sau này của lớp nông dân và quý tộc Bretagne để phản đối chính quyền cách mạng. Xét kỹ, vùng Bretagne thực là một xứ kỳ lạ: một số người Bretons đã trở thành những lãnh tụ quá khích của cách mạng, còn một số sau này sẽ trở thành những lãnh tụ chống cách mạng!
Tuy nhiên, trong thời gian đó, mặc dầu sự chia rẽ chính kiến ngày càng sâu rộng, ngoài mặt vẫn chưa có sự gì xung đột quyết liệt. Tuy biết rằng tại Quốc hội đương tiến hành soạn thảo hiến pháp, vua Louis XVI vẫn không lên tiếng phản đối. Tới ngày 14-7-1790, tức là ngày kỷ niệm việc chiếm ngục Bastille, buổi lễ đã được cử hành long trọng, trong một bầu không khí có vẻ hòa địu và thông cảm: tới dự lễ, có đủ mặt nhà vua, hoàng hậu, hoàng tử, Quốc hội, các quý tộc và dân chúng, gần 100.000 người tụ tập tại công trường Mars. Từ nhiều ngày trước, dân chúng Paris đã tới xếp đặt và kiến thiết lại công trường. Nhà vua tới cuốc đất, các quý tộc cũng vậy. Các bà nữ quý lộc cùng tới, xắn áo đẩy xe đất cùng với các người dân bà ngoài chợ. Tổng Giám mục De Tallevrand đứng chủ tọa cuộc lễ Misa của ngày kỳ niệm. Vua Louis XVI tuyên thệ trung thành với hiến pháp. Dân chúng hàn hoan mừng rỡ, hò hét chúc mừng nhà vua. Suốt ngày đó và đêm đó, Paris chăng đèn kết hoa và dân chúng nhảy múa tới sáng. Trong ngày 11-7-1790, hình như nhà vua cùng các tầng lớp dân chúng đã vứt bỏ hẳn những hiềm khích cũ, để bước vào một giai đoạn đoàn kết và tương thân tương ái. Nhưng tiếc thay, những biểu lộ tương thân trong ngày đó chỉ là những biểu lộ nhất thời, và cũng là những biểu lộ cuối cùng trước khi núi lửa bùng nổ.
Ngay khi tuyên thệ, vua Louis XVI trong thâm tâm vẫn coi là một việc miễn cưỡng. Vì trong thâm tâm, ông vua nhu nhược ấy vẫn không thể chấp nhận được điểm này: ông cho rằng quyền nhà vua là do thiên mệnh, không phải là do người uỷ thác! Nên nhà vua vẫn không thể nào chấp nhận được hiến pháp. Trong thời gian im lặng, nhà vua vẫn tìm cách hoặc cầu cứu ngoại bang hoặc mua chuộc những đại biểu có thiện cảm trong Quốc hội. Toàn thể Âu châu lúc đó cũng sôi nổi vì cuộc cách mạng Pháp Các nhà quý tộc Pháp xuất ngoại đã tìm hết cách thúc đẩy các nước Âu châu can thiệp bằng binh lực. Hầu hết các nước Âu châu lúc đó đều còn theo chế độ quân chủ, nên tất nhiên e ngại cách mạng. Lại thêm vấn đề quyền lợi. Tuy nhiên, vào 1790, các nước Âu châu còn ngần ngại chưa dám quyết định, muốn chờ đợi xem xét tình thế. Nước Phổ và Áo còn bận tâm lo lắng việc phàn chia nước Ba Lan, vì sợ nước Nga chiếm phần hơn. Anh chưa muốn can thiệp ra mặt, chỉ muốn giật giây và xúi giục kẻ khác. Vi chưa cầu được ngoại viện, vua Louis XVI đành cố mua chuộc các đại biểu. Trong số những lãnh tụ cách mạng, có La Fayette và Mirabeau đã hơi ngả về nhà vua. La Fayette nghiêng ngả, vì trong thâm tâm, ông chủ trương cách mạng ôn hòa, sợ những biện pháp quá khích. Còn Mirabeau đã nhận của vua Louis XVI 200.000 bảng để trâ nợ, lại mỗi tháng được lãnh 1.000 bảng phụ cấp. Tuy nhiên, mặc dầu nhặn tiền, sự nghiêng ngả của Mirabeau vẫn không phải là do sự mua chuộc. Ông vốn lá một người có thực tài, có dạ cứu nước, nhưng vi quá ăn choi, nợ nần nên nhận liều tiền mà thôi. Thực ra, có lẽ sự nghiêng ngả của ông là do chính kiến. Ông là người ưa chuộng tự do, và theo ý ông, tự do chính trị chỉ có thể thực hiện do một thế thăng bằng trong việc phân quyền. Muốn có tự do chính trị trị, không thể giao toàn thể chủ quyền dù cho một người hay cho một Quốc hội. Cần phải giữ nhà vua lại, để gây thế thăng bằng đối với Quốc hội. Chính Mirabeau đã toan tính một kế hoạch khá chu đáo: lúc đó, ở trong nước, nhà vua cùng còn nhiều thế lực và ảnh hưởng, nên Mirabeau đã khuyèn vua Louis XVI nên tìm một địa phương nào có sự ủng hộ của dân chúng, lẻn trốn tới đó, tập hợp quân đội, gây thế thăng bằng với Quốc hội và dân chúng Paris, rồi mới mở cuộc nói chuyện. Nhưng vua Louis XVI quá do dự đã không nghe theo. Trong khi đó, các lãnh tụ cực đoan vẫn tiếp tục khỉch động quần chúng. Robespierre đòi hỏi việc ban bố phổ thông đầu phiếu. Marat buộc tội tầng lớp tư sản đã lợi dụng công cuộc cách mạng để làm lợi cho riêng mình. Desmoulins cũng chỉ trích thể thức bầu cử của hiến pháp. Do đó, những mầm đầu tiên của sự tranh đấu giai cấp đã bắt đầu phôi thai.
Tình trạng giằng co nói trên kéo dài tới ngày 20-6-1701. Trong thời gian đó, Mirabeau lâm bệnh rồi chết, cỏ lẽ vì trác táng quá độ. Vua Louis XVI đã mất một vị cố vấn có thực tài và ngày càng trở nên trơ trọi. Ngoại viện cũng không thấy tới, vì các vua Âu châu đều đặt nhiều điều kiện nặng nề cho sự can thiệp bằng binh lực... Vì vô kế khả thi, nên đến ngày 20-6-1791, giả trang làm tên đầy tớ, vua Louis XVI đã cùng với gia quyến lên một chiếc xe ngựa lớn, trốn ra khỏi thành Paris. Ý định của nhà vua định đi đâu, để làm gì, cũng không có sử gia nào được biết. Nhưng hoàng hậu mang theo nhiều hòm xiểng, lại có một số người theo hầu. Chiếc xe lớn nên dễ bị để ý. Nên khi tới Varennes, có viên xếp trạm nhận được mặt vua. Y lập tức đi báo với giới hữu trách của chính quyền cách mạng, rồi đánh mõ khua chuông nhà thờ, tụ tập dân chúng, tới vây chiếc xe. Viên biện lý xã Varennes tới hỏi giấy thông hành, nhận được mặt vua, giữ nhà vua cùng gia quyến lại, rồi đưa xe trở về Paris. Suốt dọc đường, dân chúng tụ tập chửi rủa mắng nhiếc. Khi về tới điện Tuileries, lúc La Fayette tới xin lệnh của nhà vua. Louis XVI đã trả lời: '"Theo tôi biết, hình như nước Pháp không còn có vua nữa".
Từ đó trở đi, Quốc hội nắm giữ trọn vẹn chủ quyền thay thế Louis XVI. Nhà vua vẫn ngồi đó, nhưng không còn ai nhận thấy sự có mặt của vua. Tại Qưốc hội, tả phái lớn tiếng đòi mang vua Louis XVI ra trước toà án xét xử, tạii hội quán Jacobins, các lãnh tụ cực đoan luôn luôn đăng đàn về vụ đó. Nhưng đa số Quốc hội vẫn chần chờ, chưa dám quyết định hẳn. Ngày 17-7-1791, do sự khích động của các lãnh tụ Jacobins, dân chúng Paris biểu tình ở công trường Mars, ký một bán kiến nghị đói xử nhà vua. Quốc hội ra lệnh cho La Fayette phái đến một đội vệ quân tới đẹp biểu tình. Dân chúng ném đá. Một tiếng súng nổ, rồi một loạt súng. Một số người chết và bị thương. Tiếp theo đó, Quốc hội ban hành một đạo sắc lệnh trừng trị các báo chí đã xúi giục dân chúng. Một lần nữa, Murat lại phái đi trốn. Sau ngày 17-7, một số hội viên của hội quán Jacobins cũng bỏ hội để thành lập một hội quán khác (hội quán người Feuillants) vì họ cũng phản đối vụ biểu tình ngày 17-7. Rồi tới ngày 3-9-1791, Quốc hội lại đệ trình bản dự án hiến pháp lên vua Louis XVI, rồi ngày 14-9-1791 1, vua chuẩn y hiến pháp, và một lần nữa, lại tuyên thệ trung thành với hiến pháp. Từ đó trở đii, các phe phái càng chia rẽ hơn trước. Nhưng tới cuối tháng 9-1791, Quốc hội lập hiến đã hoàn thành nhiệm vụ, và phải trao quyền lại cho Quốc hội lập pháp được bầu theo thể thức ấn định bởi hiến pháp.
@by txiuqw4