sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chiếc Lexus và cây Ô Liu - Phần I - Chương 04 - Phần 1

4. Rồi những bức tường theo nhau sụp đổ

Mùa hè năm 1998, Guilherme Frering, Chủ tịch Hội đồng quản trị tập đoàn khoáng sản Brazil mang tên Caemi Minerção e Metalurgia miêu tả cho tôi những thay đổi đáng kinh ngạc của nền kinh tế Brazil trong thập niên trước đó.

Ông ta chêm vào một nhận xét: “Ông có thấy, bức tường Berlin cũng sụp đổ trên đất này. Đó không những là sự kiện riêng của châu Âu, nó cũng là sự kiện toàn cầu, bức tường cũng đổ ngay trên đất Brazil. Sự thay đổi lớn lao trong kinh tế Brazil diễn ra đúng vào lúc tường Berlin sụp đổ”.

Để minh họa cho luận điểm đó, ông ta kể lại câu chuyện sau: Tháng 11/1988, những người thợ luyện thép muốn đấu tranh đã biểu tình trước nhà máy luyện thép của Công ty Thép Quốc gia (CSN) thuộc chính phủ đặt tại Volta Redonda, tây bắc Rio de Janeiro và là xí nghiệp luyện thép lớn nhất của Nam Mỹ. Khoảng hai nghìn năm trăm thợ thép người Brazil chiếm giữ xí nghiệp đòi tăng lương và giảm giờ làm từ tám tiếng xuống còn sáu tiếng mỗi ngày. Xung đột giữa công nhân và cảnh sát địa phương leo thang tới mức quân đội Brazil được phái đến. Ba người thợ bị thiệt mạng và ba mươi sáu người khác bị thương trong cuộc giành giật chiếm quyền kiểm soát nhà máy. Quân đội khép cho công nhân tội “hoạt động chống phá theo lối du kích ở thành thị”, khi công nhân dùng gạch đá, bom xăng, gậy sắt và súng để bảo vệ công ăn việc làm và lợi nhuận theo biên chế nhà nước của họ.

Trong quãng thời gian hai mươi mốt năm dưới chế độ độc tài ở Brazil, kết thúc vào năm 1995, các tướng lĩnh nắm quyền của đất nước rất coi trọng việc quản lý nhà máy luyện thép khổng lồ này, đến mức họ ra tuyên bố coi vùng Volta Redonda là “Thị trấn thuộc lợi ích an ninh quốc gia”, và trực tiếp bổ nhiệm chức Thị trưởng của thị trấn. Sau khi giải thích câu chuyện trên, Frering chua thêm: “Khoảng bốn năm sau cuộc chống đối đẫm máu đó, khi bức tường Berlin sụp đổ, chính những người công nhân của CSN lại đòi nhà máy phải được tư nhân hóa, vì chính họ hiểu rằng đó là con đường duy nhất giúp cho nhà máy tiếp tục khả năng cạnh tranh và giữ được công ăn việc làm cho họ. Ngày nay, CSN được hoàn toàn tư nhân hóa và trở nên có cổ đông lớn nhất, tham gia trong công cuộc tư nhân hóa các nhà máy lớn của chính phủ Brazil”.

Nhận xét của Frering khiến tôi bừng tỉnh: Tất nhiên rồi, ông ta nói đúng! Bức tường Berlin không chỉ sụp đổ ở thành phố Berlin. Nó sụp cả ở phương Đông lẫn phương Tây, phía Bắc cũng như phía Nam, sụp xuống đầu nhiều đất nước, nhiều công ty, và dường như chúng sụp cùng một lúc. Chúng ta đã chỉ chú ý vào việc bức tường sụp ở phương Đông vì sự kiện này lúc đó mang đầy kịch tính và dễ thấy: qua bản tin tối trên TV, một bức tường xi măng rạn vỡ rồi sụp xuống. Nhưng trên thực tế các bức tường Berlin khác trên khắp thế giới cũng đang theo nhau đổ sập, mặc dù người ta thường không thấy được tận mắt, chính điều đó khắc họa nên kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập. Vậy câu hỏi quan trọng là: Điều gì đã lay đổ những bức tường đó? Hay như các cháu nhà tôi có thể hỏi, “Bố ơi, toàn cầu hóa từ đâu đến?”

Tôi xin bắt đầu câu trả lời như thế này: thế giới của Chiến tranh Lạnh tựa như một cánh đồng lớn bị xé lẻ dọc ngang bởi những hàng rào, tường chắn, hố sâu và ngõ cụt. Người ta không thể đi nhanh, đi cho hết được cánh đồng mà không bị những thứ như tường Berlin hay bức màn sắt hay khối Vacsava hay các hàng rào thuế quan hay kiểm soát tài chính, cản chân. Và trong khuôn khổ từng lô đất trên cánh đồng đó, các quốc gia gìn giữ các thể loại chính trị, kinh tế và văn hóa độc đáo của họ. Họ có thể thuộc về thế giới thứ nhất, thứ hai hay thứ ba. Họ có thể duy trì các hệ thống kinh tế khác nhau – một nền kinh tế cộng sản theo kế hoạch của nhà nước, một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa hay một nền kinh tế thị trường tự do. Và họ cũng duy trì các hệ thống chính trị khác nhau – bao gồm từ mức dân chủ tới mức độc tài, từ mức toàn trị đến quân chủ lập hiến rồi áp chế toàn phần. Sự khác biệt có thể sâu sắc, thậm chí như trắng và đen, vì có nhiều bức tường dày để bao bọc sự khác biệt đó – những bức tường khó mà đi xuyên qua được.

Lay chuyển những bức tường đó là ba sự thay đổi lớn – thay đổi trong cung cách chúng ta liên lạc với nhau, trong lề lối đầu tư và trong cách thức tìm hiểu về thế giới. Những thay đổi đó được sinh ra, ấp ủ trong thời Chiến tranh Lạnh rồi đạt đến mức tới hạn vào cuối thập niên 1980. Khi đó, chúng được kết hợp thành một cơn lốc, đủ sức phá sập tất cả những bức tường của hệ thống Chiến tranh Lạnh, giúp cho thế giới tập hợp lại với nhau, xé bỏ ngăn cách tạo lập được một cánh đồng thẳng tắp. Ngày nay, cánh đồng này được mở rộng hơn, với tốc độ nhanh hơn, ngày càng có nhiều bức tường sụp đổ và nhiều quốc gia bị hút vào. Chính vì thế ngày nay không còn khái niệm thế giới thứ nhất, thứ nhì hay thứ ba nữa. Ngày nay chỉ còn là thế giới phát triển nhanh, và thế giới phát triển chậm chạp – thế giới của những người bị đào thải sang bên lề hay của những người tự chọn theo lối sống biệt lập không muốn nhập vào cánh đồng rộng lớn nói trên. Những người đó có thể cho rằng, cái thế giới ấy đi nhanh quá, đáng sợ quá, đồng hóa nhiều quá hay đòi hỏi nhiều quá. Và đây là chi tiết của từng sự thay đổi.

Dân chủ hóa trong công nghệ

Thứ trưởng Tài chính Hoa Kỳ Larry Summers thích kể câu chuyện rằng vào năm 1988 ông ta hoạt động cho chiến dịch tranh cử tổng thống của ứng cử viên Michael Dukakis. Một hôm ông ta được cử sang Chicago để nói chuyện thay cho Dukakis. Ở đó ông ta được nhân viên của Dukakis cấp một chiếc xe hơi, trong đó, bạn bình tĩnh nhé… có chiếc điện thoại.

“Tôi nghĩ, vào năm 1988 mà trong xe có chiếc điện thoại di động thì thật tuyệt”, Summers kể lại. “Tôi dùng điện thoại đó gọi để khoe với vợ rằng trong xe của tôi có chiếc điện thoại di động”.

Chín năm sau, 1997, Summers, lúc đó đi công cán cho Bộ Tài chính thăm đất nước Bờ Biển Vàng, vùng Tây Phi. Trong chuyến thăm chính thức này, một nhiệm vụ của ông ta là khánh thành một dự án y tế do Mỹ tài trợ ở một ngôi làng trên thượng nguồn của Thủ đô Abidjian. Theo dự án, ngôi làng này, khi đó chuẩn bị khánh thành một hệ thống các loại giếng nước di động. Người ta chỉ vào làng bằng cách đi ca nô. Summers, một vị khách to béo đến từ Hoa Kỳ được phong chức già làng danh dự của người Phi, và được mặc trang phục truyền thống Phi châu. Điều làm Summers nhớ nhất đó là trên đường rời làng ra đi, bước xuống chiếc ca nô thì một viên chức của Bờ Biển Ngà trao cho ông ta một chiếc điện thoại di động và nói, “Washington muốn hỏi ông một điều gì đó”. Chín năm, từ chỗ thốt lên thán phục khi thấy điện thoại di động trong xe hơi, nay Summers lại thấy điện thoại di động trên chiếc thuyền độc mộc ở vùng Tây Phi hẻo lánh.

Những cuộc phiêu lưu với điện thoại di động của Summers diễn ra cho thấy sự thay đổi quan trọng đầu tiên, được hình thành trong thời Chiến tranh Lạnh – sự thay đổi về cách thức chúng ta liên lạc với nhau. Tôi xin gọi nó là “quá trình dân chủ hóa trong công nghệ”, khiến cho ngày càng có thêm số người dùng máy vi tính tại nhà, modem, điện thoại di động, hệ thống viễn thông cáp và kết nối internet, để có thể vươn dài liên lạc của họ, sang nhiều nước khác. Nhờ đó họ được tìm hiểu thông tin kỹ càng hơn với chi phí rẻ hơn bao giờ hết.

Có một ngân hàng ở Valley Spring, Washington, D.C., đã mời chào khách hàng rất nhiều dịch vụ giao dịch qua Internet và điện thoại. Quảng cáo của ngân hàng này tóm tắt quá trình dân chủ hóa nói trên: “Hãy để chúng tôi lập nhà băng trong ngôi nhà của quý vị”. Do quá trình dân chủ hóa công nghệ, chúng ta nay có dịch vụ ngân hàng, văn phòng, tòa báo, nơi giao dịch chứng khoán, nhà xưởng và dịch vụ đầu tư, trường học, tất cả có thể cùng ngự trị trong mỗi căn nhà nơi chúng ta sinh sống.

Dân chủ hóa công nghệ là sản phẩm của một loạt phát kiến được tập hợp lại trong những năm 1980, bao gồm vi tính hóa, viễn thông, thu nhỏ, kỹ thuật nén và số hóa. Chẳng hạn, tiến bộ trong công nghệ vi xử lý giúp cho máy vi tính tăng công suất gấp đôi sau mỗi chu kỳ mười tám tháng, trong suốt thời gian ba mươi năm qua. Tiến bộ trong công nghệ nén làm cho số lượng thông tin lưu trên các đĩa máy tính tăng sáu mươi phần trăm mỗi năm, tính từ 1991. Trong khi đó chi phí để lưu một megabite dữ liệu đã giảm từ năm đô-la xuống còn năm xu, làm công suất máy tính tăng lên và giá của chúng giảm xuống – giúp cho có thêm nhiều người được sử dụng máy vi tính. Những cải tiến trong công nghệ viễn thông đã giảm dần được chi phí điện thoại hay truyền dữ liệu, đồng thời tăng tốc độ truy cập, mở rộng vùng phủ sóng và tăng sức tải và bộ nhớ các dữ liệu mỗi lần giao dịch qua điện thoại, cáp hoặc sóng radio.

Không những bạn có thể gọi đến bất cứ nơi nào, bạn còn có thể gọi từ bất cứ nơi đâu, từ máy tính xách tay, từ trên đỉnh núi, từ máy bay khi đang di chuyển hay từ nóc nhà của thế giới, đỉnh Everest. Những khả năng đó xuất hiện sau khi công nghệ đã thu nhỏ được kích cỡ máy vi tính, máy điện thoại và máy nhắn tin. Những thiết bị thông tin có thể được di chuyển tới những vùng xa xôi hẻo lánh và cung cấp cho những người dân có mức thu nhập thấp. Tháng 7/1998 tạp chí Golf đăng bài cho hay có nhiều sân golf bắt đầu cho lắp đặt hệ máy tính Spyder-9000 trên các xe chơi golf, “cho phép người chơi golf theo dõi kết quả cuộc chơi qua hệ thống điện tử và đo đạc cự ly bằng kỹ thuật số, xem xét các lỗi bi, theo dõi những lời mách nước cách chơi, cách đánh. Hơn nữa họ có thể đặt bữa ăn trưa, kiểm tra giá chứng khoán và xem các chương trình TV thương mại”. Chỉ có một việc chúng không làm được là trực tiếp đánh bóng vào lỗ hộ bạn thôi.

Những sáng tạo đó đã thúc đẩy và ngược lại, được tăng cường bởi cuộc cách mạng kỹ thuật số. Kỹ thuật số hóa là phép mầu nhiệm cho phép chúng ta chuyển hóa giọng nói, âm thanh, phim, tín hiệu truyền hình, âm nhạc, màu sắc, hình ảnh, ngôn ngữ, tài liệu, thông số, ngôn ngữ máy tính và bất cứ loại hình dữ liệu nào… thành những bit dữ liệu, rồi truyền chúng qua đường điện thoại, vệ tinh và cáp quang đi khắp thế giới. Những ký tự máy tính là đơn vị đo đếm dùng trong vi tính, thể hiện đơn giản bằng sự kết hợp khác nhau của những tập hợp gồm hai con số 1 và 0. Số hóa có nghĩa là chuyển âm thanh, hình ảnh và con số hay mẫu tự mã hóa chúng thành những tập hợp gồm 1 và 0, truyền chúng qua một điểm khác, nơi chúng được giải mã trở lại thành nguyên bản.

Nicholas Negroponte, tác giả cuốn sách Kỹ thuật số đưa ra cách giải thích rất hình tượng về công nghệ số hóa: “Tựa như chúng ta vừa tìm ra cách sấy khô và làm đông lạnh một ly cà phê sữa một cách hoàn hảo, sau đó, cho nước nào thì thứ đồ đông lạnh lại trở lại nguyên hình dáng và hương vị của một ly cà phê như trước, như vừa được pha, trong bất cứ quán cà phê nào của người Y”. Và Negroponte nói thêm rằng chúng ta có thể làm khô và đông lạnh nhiều thứ khác, bằng cách chuyển hóa chúng “từ nguyên tử thành ký tự vi tính”, từ hình ảnh và âm thanh sang những số 1và số 0, truyền chúng đến nhiều nơi khác nhau với chi phí rẻ hơn bao giờ hết”.

Hãy tưởng tượng về quá trình đó như sau: Bộ vi xử lý và máy tính tựa như một thứ lò luyện kim có khả năng nung tất cả các vật liệu hình thành từ các nguyên tử thành bits. Vệ tinh, đường điện thoại và cáp quang là những đường ống dẫn đi từ lò luyện này đến mọi nơi trên thế giới. Những đường ống này ngày càng trở nên tinh vi hơn – như người ta thường nói là tăng và mở rộng các “băng thông”, công cụ để đo đếm số lượng tập hợp của 1 và 0 được truyền trong một giây – chúng ta cũng có thể dùng đường ống để truyền tải nhiều hơn nữa các nguyên tử, mà lò luyện đã “luyện cán” chúng lại thành bits.

Quá trình số hóa là kiến thức trọng tâm để hiểu về quá trình toàn cầu hóa ngày nay và về những điều làm cho nó trở nên độc đáo. Chúng ta cần ngưng lại ít phút để nghe một ví dụ cụ thể về hoạt động của quy trình số hóa. Bạn bốc điện thoại ở New York, quay số của người bạn ở Bangkok. Khi bạn nói vào ống nghe, áp suất từ hơi thở của bạn đập vào màng chắn trong ống nghe. Màng chắn này rung theo nhịp bạn đang nói. Màng chắn này được gắn với một nam châm, nằm bên cạnh một cuộn dây điện [cuộn cảm]. Khi màng chắn kích thích nam châm, từ trường của nam châm tạo một dòng điện trong cuộn dây cáp. Từ trường lên xuống tùy theo độ lên xuống của giọng nói và khiến dòng điện trong cuộn cảm cũng lên xuống theo. Vậy ta có âm thanh từ miệng ta được đổi thành những tín hiệu điện từ lên xuống như làn sóng theo một biên độ tùy theo độ cao thấp của giọng nói. Bạn có thể thấy điều này khi âm thanh được một máy ghi dao động ghi lại.

Làm thế nào có thể biến sóng điện thành những bits của vi tính để truyền tải? Về cơ bản bạn tưởng tượng những bước sóng lên xuống theo một khung nhất định. Bạn xẻ những bước sóng thành những phần cực nhỏ, đánh số những phần đó, sử dụng đơn vị 1 và 0. Chẳng hạn, độ cao 10 có thể được biểu hiện thành 11110000 và độ cao 11 là 11111000 và tiếp tục… Mỗi đơn vị 1 và 0 được dịch thành một nhịp đập của bước sóng, và khi được xâu chuỗi với nhau sẽ được biết đến như một cột sóng hình vuông. Không như sóng âm thanh analog, lên xuống như hình những làn sóng biển, dễ bị bóp méo và phân tán trong quá trình truyền tải, sóng hình vuông kỹ thuật số chỉ lên khi là 1 và xuống khi là 0. Điều đó làm cho thiết bị tiếp nhận đón nhận và hiểu được chúng. Thiết bị này chỉ việc hỏi, nó lên hay nó xuống – thay vì cố gắng đọc cho được một làn sóng uốn lượn. Điều này giải thích tại sao những bản sao kỹ thuật số có độ sắc nét hơn và vì sao những gì được truyền qua hệ thống mã hóa 1 và 0 từ miệng của bạn, từ máy fax hay từ máy tính sang đến bên kia được, giải mã nguyên vẹn.

Nhưng giả sử bạn là người lắm lời. Và bạn chăm chú nói chuyện mải mê với người bạn ở Bangkok. Vậy là sẽ có nhiều bộ mã số 1 và 0 cần được truyền tải. Phép mầu nhiệm của công nghệ mới cho phép “nén” các tập hợp 1 và 0. (Máy vi tính của bạn sẽ thể hiện 8 x 1 hay 8 x 0, thay vì 11111111 hay 00000000.) Giờ đây ta có giọng nói của bạn được nén lại thành những gói bits. Đã đến lúc phải truyền tải chúng. Ta có thể dùng nhiều cách. Đơn giản nhất là phóng ra một dòng điện, theo quy chế 1 vôn cho 1, và hai vôn cho 0. Hay ta truyền chúng qua đường cáp quang, dùng thiết bị có chức năng phát ra những luồng ánh sáng: một luồng ánh sáng đại diện cho 1, tắt đi đại diện cho 0. (Một đĩa CD đơn giản là một đĩa nhựa bọc màn nhôm. Người ta đục một lỗ trên đĩa để thể hiện 1 và chừa phần còn lại, phẳng để thể hiện 0. Máy chạy đĩa CD sẽ chiếu một tia la de vào từng rãnh của chiếc đĩa đọc những tập hợp 1 và 0, rồi chuyển hóa chúng lại thành những âm thanh đẹp đẽ vốn có khi được ghi ban đầu.) Hay chúng ta có thể dùng sóng radio, sóng cao cho số 1 và sóng thấp cho số 0. Dùng phương tiện gì đi nữa, công nghệ kỹ thuật số giúp cho chúng ta có những bản sao hoàn hảo.

Quay trở lại cuộc nói chuyện giữa bạn và người bạn ở Bangkok, giọng của bạn được chuyển thành những tín hiệu truyền bằng ánh sáng qua hệ thống cáp quang, khi sang đến Bangkok, tín hiệu được giải mã từ những 1 và 0, quay trở lại những âm thanh, tiếng người tác động vào cuộn cảm ứng trong ống nghe của người bạn Bangkok. Khi cuộn cảm ứng được tác động, tạo điện trường, lay động tấm màng chắn, tác động vào áp suất không khí biến thành giọng nói hồn nhiên của bạn. Thật mầu nhiệm! Giống như ly cà phê của Negroponte vậy.

Khi nói về quá trình vi tính hóa, kỹ nghệ thu nhỏ thiết bị, viễn thông và số hóa đã tạo ra quá trình dân chủ hóa công nghệ, ý tôi muốn nói tới việc chúng giúp cho hàng trăm triệu người trên thế giới liên hệ với nhau để trao đổi thông tin, kiến thức, tiền bạc, ảnh gia đình, giao dịch tài chính, âm nhạc và các chương trình truyền hình bằng những cung cách trước đây chưa từng có. Ngày trước, nếu bạn sống ở New York, con của bạn sống ở Australia vừa sinh cháu bé. Thường trong trường hợp đó con của bạn sẽ phải đi mua một máy ảnh, mua phim, chụp ảnh cháu bé, rửa ảnh, cho ảnh vào phong bì thư, dán tem và gửi cho bạn. Nếu may mắn bạn có thể được xem hình của cháu sau đó mười ngày. Giờ đây chuyện đó không còn cần thiết nữa. Con của bạn sẽ chụp ảnh cháu bé bằng máy ảnh kỹ thuật số, lưu ảnh vào đĩa mềm, sửa ảnh trên máy vi tính và gửi ảnh cho bạn qua Internet – mọi thứ khi cháu bé chưa đầy mười giờ tuổi.

Cựu Chủ tịch Hãng Truyền hình NBC Lawrence Grossman tóm tắt gọn gàng quá trình dân chủ hóa công nghệ như thế này: “In ấn biến chúng ta thành độc giả. Photocopy biến chúng ta thành những nhà xuất bản. Truyền hình biến chúng ta thành khán giả. Và công nghệ số hóa cho phép chúng ta trở thành các hãng truyền thông”.

Quan sát của Grossman làm nổi bật một nhân tố khiến cho toàn cầu hóa thời nay khác hẳn với các thời đại trước đây. Nói đơn giản, công cuộc dân chủ hóa công nghệ đã cho phép “toàn cầu hóa sản xuất”. Ngày nay, ai cũng có thể trở thành một nhà sản xuất. Toàn cầu hóa thời nay không còn cho thấy việc các nước đang phát triển vận chuyển nguyên liệu thô sang các nước phát triển, để những nước này tinh chế thành thành phẩm, rồi lại chở chúng quay lại. Ngày nay, nhờ có dân chủ hóa công nghệ, nhiều quốc gia khác nhau đã có cơ hội tự quy tụ công nghệ mới, nguyên liệu và vốn, để phát triển trở thành các nhà sản xuất hay nhận hợp đồng gia công những sản phẩm hay dịch vụ với độ phức tạp cao – thêm một yếu tố gắn bó các quốc gia trên thế giới với nhau. Tôi sẽ bàn thêm sau về yếu tố này. Có thể nói dân chủ hóa công nghệ đã giúp cho Thái Lan, trong vòng mười lăm năm, từ một đất nước trồng lúa, thu nhập thấp trở thành quốc gia đứng thứ hai trên thế giới về công nghệ sản xuất xe vận tải, cạnh tranh với Detroit, và là nước đứng thứ tư trên thế giới trong việc sản xuất xe gắn máy.

Dân chủ hóa công nghệ không chỉ đơn thuần áp dụng cho xe hơi và xe gắn máy. Như Teera Phutrakal, một nhà quản lý quỹ hỗ tương ở Bangkok có lần nói với tôi: “Tại quỹ của chúng tôi, chúng tôi không việc gì phải tự sáng chế chiếc bánh xe, chúng tôi nhập khẩu nó. Một vài trong số những công nghệ chúng tôi nhập rẻ gấp mười lần so với giá của công ty mẹ phải thanh toán. Chẳng hạn, hệ thống liên lạc hồi âm tự động cho khách hàng, khi khách hàng gọi vào, bấm số 1 để tìm hiểu giá trị tài sản của quỹ, bấm 2 để nghe giá chào, và bấm 3 để ra lệnh bán. Nếu bạn muốn mua hay chuộc lại các cổ phiếu, bạn có thể thực hiện giao dịch qua hệ thống điện thoại. Toàn bộ thiết bị và linh kiện chúng tôi nhập có giá rất rẻ. Chúng tôi chỉ cần chờ người khác cải tiến chúng ở nước khác. Đây là vẻ đẹp thực chất của toàn cầu hóa. Chúng tôi là những nhà sản xuất địa phương, có kiến thức địa phương, nhưng nay chúng tôi được trang bị công nghệ ở tầm toàn cầu”.

Dân chủ hóa công nghệ đồng thời có nghĩa là tiềm năng làm giàu sẽ được san sẻ theo vị trí địa lý. Chúng giúp cho nhiều sắc dân ở nhiều vùng sâu vùng xa những cơ hội để họ tiếp cận và áp dụng kiến thức. Tại Kuala Lumpur, tôi gặp một nữ thương gia người Hoa gốc Hồng Kông, chị kể với tôi có một lần gọi vào một số điện thoại Hồng Kông để gặp dịch vụ trợ giúp kỹ thuật cho khách hàng của hãng vi tính Dell, và gặp một nhân viên nói rất sõi tiếng Quan thoại. Chị thương gia này nói với nhân viên là ở trung tâm Hồng Kông hôm đó mưa nhiều và hỏi rằng có mưa ở gần văn phòng Dell hay không. Nhân viên này nói ở vùng văn phòng Dell không mưa, vì văn phòng này thực ra nằm ở Penang, Malaysia, cách Hồng Kông hàng vạn dặm. Nhân viên đó là người Hoa gốc Malaysia, làm việc cho Dell Hồng Kông trong khi sống ở Penang, Malaysia. Đó là thành quả của dân chủ hóa công nghệ.

Ấn Độ cũng đang nhanh chóng trở thành một văn phòng cho toàn thế giới. (Theo tờ The Economist, số 18/9/1999, các tổng đài viên Ấn Độ đóng ở Ấn Độ nhưng lại phục vụ cho khách hàng của tập đoàn GE Capital. Một ngày nào đó họ có thể gọi khách hàng ở bang Texas, chất vấn vì sao khách hàng chậm trả tiền vào thẻ tín dụng. Nhưng tôi không cảm thấy thoải mái khi nghe những nhân viên người Ấn lại quay ra “thay tên của họ bằng tên lối phương Tây và bắt chước phương ngữ tiếng Anh từ những vùng của khách hàng họ phục vụ”.) Hàng không Thụy Sĩ đã chuyển toàn bộ các văn phòng kế toán của họ, bao gồm các máy tính từ địa bàn Thụy Sĩ đắt đỏ sang Ấn Độ rẻ hơn nhiều, để tận dụng nhân công lương thấp trong các khâu thư ký, lập chương trình và kế toán.

Nhờ có kỹ thuật số hóa và nối mạng vi tính, những công việc như vậy có thể được thực hiện ở mọi nơi, những nơi có số đông các sinh viên tốt nghiệp các trường Anh ngữ. Đó có lẽ là cơ hội cho Ấn Độ, Pakistan, Philippines, Nam Phi và các cộng đồng nói tiếng Anh khác trên khắp các nước đang phát triển. Dịch vụ mạng quốc tế của hàng không Anh British Airways đóng ở Mumbai, Ấn Độ có chức năng phụ trách hồ sơ của lượng khách đi lại thường xuyên. Selectronic, một công ty điện toán ở Delhi nhận các chỉ dẫn được ghi âm từ các bác sĩ đóng tại Hoa Kỳ thông qua đường dây miễn phí, ghi chúng lại và gửi nội dung bằng văn bản đến một tổ chức chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ. Tờ Tạp Chí Kinh Tế Viễn Đông số ngày 2/9/1999 cho biết công ty American Online (AOL) hiện có sáu trăm nhân viên phục vụ khách hàng người Philippines đóng tại Manila để mỗi ngày trả lời từ 10.000-12.000 cú điện thoại của khách hàng nhờ chỉ dẫn và thanh toán. Khách thường gọi từ Hoa Kỳ, chiếm khoảng tám mươi phần trăm số người dùng email của AOL. Chi nhánh của AOL tại Philippines trong năm 1999 trả cho các nhân viên địa phương có trình độ đại học khoảng năm phẩy năm đô-la mỗi ngày, tờ tạp chí viết tiếp, vị chi là ba mươi lăm phần trăm cao hơn mức lương tối thiểu ở đất nước này, nhưng chỉ bằng lương của một công nhân thiếu tay nghề ở Mỹ làm việc trong một giờ. Mức lương như vậy là thấp, nhưng đó là khởi điểm để tiến tới một thế hệ người Philippines vươn tới một “Thế giới đi nhanh”, và bạn có thể đánh cuộc rằng những nhân viên có năng khiếu trong số đó một ngày nào, sẽ ra đi và mở một công ty vi tính, gọi là POL chẳng hạn, để cạnh tranh với AOL. Sự lan tràn nhanh chóng công nghệ phục vụ khách hàng và liên lạc qua vi tính có thể là nền tảng cho sự tăng tốc sắp tới ở châu Á. Nhưng để tham gia, những nước như Thái Lan, một nước đã lọt vào trò chơi toàn cầu bằng cách mời chào các dây chuyền sản xuất giá thành thấp, sẽ phải nâng cấp giáo dục và dạy nghề trong dân chúng để họ có thể cạnh tranh và chiếm lĩnh các dịch vụ và việc làm liên quan đến viễn thông và vi tính.

Một lần tôi ngồi trầm ngâm với Geoff Baehr, phụ trách thiết kế mạng vi tính của công ty Sun Microsystem, bàn về vấn đề: khả năng quá trình dân chủ hóa công nghệ và phương tiện sản xuất như hiện nay rồi sẽ đi đến đâu? Càng nghĩ chúng tôi càng thấy điên rồ. “Giờ đây chúng ta có thể dùng mạng điện toán để cung cấp các dịch vụ mà trước đây chưa từng được trao đổi, thông qua Internet, vậy tại sao chúng ta không outsource chính phủ của chúng ta luôn nhỉ?” Baehr đặt câu hỏi. Hãy nghĩ mà xem – hãy giao việc điều hành lính biệt kích và vệ sĩ cho người Nga. Bạn có thể để cho người Ấn Độ làm kế toán giữ sổ sách cho bạn và người Thụy Sĩ hãy làm công việc phục vụ khách hàng. Bạn hãy giao nhà băng trung ương cho người Đức. Người Ý chịu trách nhiệm thiết kế mẫu giày dép của bạn. Người Anh quản lý các trường trung học. Người Nhật có thể phụ trách tiểu học và lái tàu hỏa cho bạn…

Dân chủ hóa tài chính.

Dân chủ hóa công nghệ chắc chắn tăng cường cho sự thay đổi quan trọng thứ hai đang điều hành toàn cầu hóa, đó là sự thay đổi trong cung cách chúng ta đầu tư. Tôi xin gọi đó là “Dân chủ hóa tài chính”. Nhiều năm trong thời Hậu Chiến tranh Lạnh các khoản cho vay lớn ở nội địa cũng như quốc tế được các ngân hàng thương mại và đầu tư và các công ty bảo hiểm lớn đảm nhiệm. Những định chế sang trọng đó bao giờ cũng muốn giao tiền cho các công ty có hoạt động ổn định và tài chính lành mạnh và được xếp hạng “đáng đầu tư”. Điều đó khiến cho việc cho vay rất mất dân chủ. Ngân hàng làm ăn theo lối cổ điển thường duy trì khái niệm hạn hẹp về việc ai là người đáng cho mượn tiền. Và nếu bạn là người mới vào cuộc, muốn vay tiền thì điều đó có nghĩa bạn phải có một “tay trong” trong các ngân hàng hay một công ty bảo hiểm nào đó. Những định chế tài chính thường là do các giám đốc quản trị và những ban quản trị có bản chất trì trệ nắm giữ. Những người đó không thích rủi ro và không quyết đoán khi ứng phó với các thay đổi trên thị trường.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx