sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chiếc Lexus và cây Ô Liu - Phần II - Chương 12 - Phần 3

Câu trả lời của Frenkel và tôi là ngày nay Israel đang nhanh chóng chuyển dời từ một nền kinh tế nông nghiệp trồng cam, khai thác kim cương và dệt vải sang một nền kinh tế công nghệ cao, với hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ cho phép Israel không còn dễ bị uy hiếp trước áp lực chính trị của thế giới Ả rập, của nạn khủng bố, tẩy chay và những thăng trầm của tiến trình hòa bình nhưng cũng biến Israel trở nên yếu hơn nếu phải tham gia vào một xung đột quy ước. Lý do: Thời trước Israel trồng cam, Ma rốc cũng trồng cam, và Tây Ban Nha cũng trồng cam, vậy là nếu khách hàng ở Nhật hay Pháp không chấp nhận một chính sách nào đó của Israel thì, để trừng phạt, họ sẽ mua cam của nước khác. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu một trong những công ty của Israel, công ty Galileo Technology, Ltd., chẳng hạn, phát minh ra thiết bị vi tính Ethernet sử dụng cho các mạng điện toán liên lạc nội bộ? Bạn không thể mua chúng ở Ma rốc được. Điều gì sẽ xảy ra nếu các công ty Israel thống lĩnh thị trường công nghiệp cao, như các công cụ mã hóa để bảo mật trên Internet, hiện đang được áp dụng cho các cơ sở công nghệ và quân đội Israel? Bạn không thể mua chúng ở Tây Ban Nha được. Kết quả là mọi người sẽ đến lạy van Israel, dù tiến trình hòa bình có thăng trầm đến đâu. Mọi công ty lớn của Hoa Kỳ đều đã mở một chi nhánh ở Israel hoặc mua lại một phần các công ty trong nội địa Israel – Intel lúc đó vừa tung vào 1,5 tỷ đô-la đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất chip vi tính. Nhật Bản vốn dĩ lảng tránh Israel do sợ bị thế giới Arập trả đũa nay trở thành nguồn cấp vốn đứng thứ hai sau Hoa Kỳ ở nước này. Nhật Bản vốn không thông thạo về kỹ thuật thiết kế phần mềm, nay đang bỏ vốn đầu tư vào các công ty phần mềm của Israel. Tôi thấy điều đó thật thú vị khi nhớ lại thời còn là phóng viên thường trú cho tờ The New York Times ở Jerusalem giữa những năm 80, loại xe Nhật được bán thời đó chỉ là loại Daihatsu hay Subaru chất lượng thấp và rẻ tiền. Lúc đó Nhật bản chỉ bán xe hơi sang trọng cho dân Ả rập. Thời đó hết rồi. Giờ đây bạn có thể mua bất cứ loại Lexus nào nếu muốn, ở Israel, vì theo lý thuyết kinh tế, Israel ngày nay đã trở thành quốc gia xuất khẩu năng lượng mạnh hơn cả Arập Xê út. Bằng cách xuất khẩu phần mềm, chip vi tính và các sáng tạo công nghệ cao Irael đang xuất khẩu nguồn năng lượng dành cho nền kinh tế thông tin. Và nước nào cũng cần thứ năng lượng đó, mặc cho Israel có hành hạ người Palestine đến mấy. Cũng giống như thời 1974, ai cũng cần dầu lửa, mặc cho người Ả rập có bắt nạn dân Do Thái đến mấy. Ý nghĩa địa-chính trị nằm ở đó. Hãy nhìn vào các con số. Năm 1998, Trung Quốc có 52 nhà khoa học đang nghiên cứu ở viện nghiên cứu danh tiếng Weizmann của Israel. Tại đó Ấn Độ cũng có 52 người của họ. Hai đất nước mà vào những năm 70 không dám bắt tay với Israel, nay đang cố sức gửi chuyên gia của họ đến đó.

Một lý do khác giúp cho Israel trở nên không dễ bị áp lực đó là ở chỗ các mặt hàng tri thức công nghệ cao thường rất nhẹ và không dễ gì bị phá hoại. Một số sản phẩm được xuất khẩu bằng modem. Đầu tư công nghệ cao ở Israel là trang bị cho con người và trí óc chứ không cần phải xây dựng nhà máy hay những cơ sở dễ bị phá phách. Xuất khẩu kỹ thuật của Israel không đi sang các nước láng giềng, những nơi họ xung đột, mà đi đến những miền xa như châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ. Thực tế cho thấy các công ty đó không bán sản phẩm trong nội địa hay trong khu vực Trung Đông, chính vì thế họ không bị nhạy cảm với các hoạt động chính trị trong khu vực. Không phải ngẫu nhiên mà khách sạn Hilton ở Tel Aviv đã cho mở một quầy bán sushi, thay vì một quán ăn Ả rập. Các công ty công nghệ cao của Israel đã thu hút vốn từ phố Wall hay các cơ sở cấp vốn ở Thung lũng Solicon – họ không bị lệ thuộc vào thị trường chứng khoán Tel Aviv; và khuynh hướng hiện nay cho thấy các công ty đó mở các trụ sở ở nhiều nơi, ví dụ một ở Thung lũng Silicon, một ở Tel Aviv. Check Point, một công ty Israel kiểm soát khoảng 50 phần trăm thị trường công cụ bảo vệ an ninh Internet, tường lửa chẳng hạn, đã có một văn phòng và cơ sở nghiên cứu ở Israel nhưng cũng có một văn phòng ở Thung lũng Silicon, để tiếp cận thị trường. Một nhà phân tích tài chính phố Wall, chuyên theo dõi ngành công nghệ kỹ thuật cao của Israel cho tôi biết rằng, để quan sát tình hình Israel, chị thường phải sang California nhiều hơn là sang Tel Aviv.

Nhưng khi làm như vậy, Israel đã bộc lộ những chỗ yếu nhất định. Israel phát triển một nền kinh tế tri thức, nhưng những người lao động – giới trí thức – lại là một lượng có khả năng di chuyển nhanh và muốn được hậu đãi. Nếu những kỹ thuật viên chủ chốt ở Israel nghĩ rằng đã đến một thời điểm họ không còn chịu đựng được nữa – do xung đột quân sự và tranh giành tôn giáo hầu như không thuyên giảm – họ sẽ ra đi hay chuyển nơi làm việc ra khỏi Israel. Những tình cảnh như vậy chưa xảy ra nhưng không phải là không tưởng. Mức thu nhập bình quân 17.000 đô-la/người của Israel gần tương đương với mức của nước Anh. Israel là nơi có McDonald’s. Và nếu Thủ tướng Israel ra lệnh cho binh lính xâm lược và chiếm cứ một vài phần trên dải Gaza hay bờ Tây sông Jordan, không vì lý do sống còn của đất nước, thì sẽ có rất nhiều nhân tài trí thức của nước này bỏ đi. Dĩ nhiên nếu có người không kết nối với Bầy Thú Điện Tử, như Saddam Hussein hay những kẻ khủng bố chẳng hạn, họ chiếm được một loại vũ khí hạt nhân rồi muốn cho nổ tại Israel thì việc Israel sử dụng quân sự vẫn là cần thiết, dù kinh tế có là công nghệ cao hay thấp. Nhưng tôi vẫn tin rằng cái hố ngăn cách về trình độ kỹ thuật giữa Israel và thế giới Ả rập trong những năm tới sẽ còn rộng hơn nữa, nếu Israel có khả năng bỏ lại đằng sau sự xung khắc với người Palestine. Khi tất cả những thứ mà bạn chào mời thế giới chỉ là nhân lực rẻ mạt hay dầu lửa như trong trường hợp của đa số các nước Ả rập, thì chính bạn sẽ bị hạn chế. Nhưng khi bạn có một nền kinh tế đi theo hướng thịnh vượng và có khả năng quy tụ tri thức, vốn và tài nguyên từ khắp thế giới, bạn sẽ không bị trói buộc bởi nội lực, cũng như trường hợp Israel vậy. Trong lịch sử ta thấy hai quốc gia sử dụng thủy năng ở Trung Đông: Ai Cập trên dòng sông Nile và Mesopotania có dòng sông Tigris và Euphrates. Trong thế kỷ 21 tôi tin rằng sẽ có đất nước thứ ba, sử dụng dòng sông Jordan. Israel sẽ trở thành một đầu tàu công nghệ cao và kéo theo sông Jordan và giúp đỡ người Palestine cùng tiến với họ. Công ty Siemens đã nối nhà máy của họ, Siemens Data Communications đóng gần Haifa, với một nhóm kỹ sư người Palestine của công ty này hoạt động ở thành phố Ramallah trên vùng bờ Tây, tất cả nối với đại bản doanh của hãng ở Đức. Đó là một sự khởi đầu.

Cách nhìn toàn cầu cũng có ích lợi trong việc giải thích về thế giới Ả rập Hồi giáo ngày nay. Tháng 11 năm 1997 tôi đến vịnh Ba Tư. Xin hãy nghe tôi kể bốn câu chuyện trong chuyến đi này:

Câu chuyện thứ nhất: Trong chặng dừng chân đầu tiên ở Kuwait, 10 giờ đêm, trong khách sạn Sheraton, khi sắp sửa lên giường đi ngủ, điện thoại của tôi rung chuông. Đó là một phụ nữ trẻ người Kuwait gọi điện, giải thích chị làm việc cho Hãng Thông tấn Kuwait (KUNA), và thường dịch bài của tôi. Chị muốn phỏng vấn tôi. Thật ngạc nhiên – một nữ ký giả Kuwait gọi điện cho một nhà báo phương Tây lúc 10 giờ đêm. Tôi nói hôm sau tôi sẽ đi thăm các cơ sở dầu lửa và nếu chị muốn thì có thể đi cùng tôi. Nhưng nhà báo này muốn gặp tôi ở khách sạn lúc 7 giờ sáng hôm sau. Đúng 7 giờ sáng, chị đến khách sạn, đeo khăn che mặt theo truyền thống – và tỏ ra là một người rất thông minh. Trong lúc trò chuyện tôi hỏi chị có anh chị em không. “Tôi có một người anh,” chị nói. “Anh ta vừa cưới một cô vợ người Kuwait, người mà anh ta gặp trong trên Internet, trong một chatroom.” Điều mà nhà báo này không nói với tôi nhưng tôi lại khám phá sau đó, đó là một đám cưới mà hai bên khác biệt về tông phái tôn giáo. Một bên là Hồi giáo phái Sunni, bên kia theo phái Shiite. Nhưng cặp vợ chồng đã gặp nhau trên Internet, nơi không có những ràng buộc về truyền thống và tập quán của Kuwait, và khi họ gặp nhau trực tiếp thì họ đã phải lòng ngay (nói theo ngành vi tính là “sét đánh ngang byte”). Cha mẹ của cô dâu rất buồn. Nhưng cô dâu nói với họ rằng lòng cô đã quyết.”

“Chiếc bánh cưới của họ mang hình một chiếc máy tính cùng bàn phím,” nữ ký giả trẻ trung người Kuwait kể với tôi.

Chuyện thứ hai: Khi ở Kuwait tôi đã đến gặp Ibrahim S. Dabdoub, Tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia Kuwait, một trong những vị quản trị ngân hàng đáng kính nhất vùng này. Khi vào văn phòng của ông ở thủ đô, tôi thấy ông ta đang giận dữ. Sao vậy? Tôi hỏi. Dabdoub giải thích rằng hãng hàng không Kuwait Airways, hàng không quốc gia, muốn đăng ký vay tiền để mua hai máy bay Boeing mới, loại thương vụ mà xưa nay ngân hàng của ông thực hiện rất ngon lành. Nhưng lần này, ông giải thích “có ai đó tự nhận là NationsBank ở Maryland” đã đấu thầu tài trợ cho Kuwait Airways, với mức lãi suất chỉ cao hơn mức lãi tốt nhất thị trường 0,25%. “Đó là hiện tượng bán phá giá,” Dabdoub thốt lên. “Phá giá trong tài chính.” Ông ta so sánh với hiện tượng các quốc gia cho xuất khẩu các sản phẩm với giá thấp hơn giá thành sản xuất để chiếm lĩnh thị trường. “Không công bằng chút nào. Một ngân hàng lớn địa phương của Mỹ, thậm chí không mang danh toàn cầu, không ai biết đến, lại cạnh tranh với các ngân hàng Kuwait và đã chiếm được thương vụ này.”

Chuyện thứ ba: tôi rời Kuwait để sang một hội nghị ở Qatar. Khi đang xếp gọn đồ đạc trong khách sạn Sheraton để lên đường, điện thoại lại réo. Đó là một nữ phóng viên người Qatar, 21 tuổi, người đã đọc cuốn sách này của tôi và muốn gặp. (Tôi không bịa ra chuyện này, nhưng vợ tôi thì không tin chút nào). Tôi nói với cô ta rằng tôi đang trên đường ra sân bay, nhưng nếu cô ta muốn đi cùng trong taxi với tôi để trò chuyện thì cũng được. Đó là một phụ nữ đáng yêu, thông minh và nói tiếng Anh giỏi. Tiếng Anh của cô ta giỏi đến mức tôi đã hỏi có bao giờ cô viết báo bằng tiếng Anh, vì nếu được thì cô ta có thể trở thành cộng tác viên của báo The New York Times trong cuộc họp Thượng đỉnh Kinh tế ở Trung Đông sắp tới. Cô này nói: “Nói thật là tôi viết cho một trang web đưa tin vùng Vịnh, và chính phủ của tôi không gì về chuyện này.”

Tôi thấy hay quá. Một phụ nữ trẻ Hồi giáo viết bài cho thế giới trên Internet kể về đất nước của chị vậy mà chính phủ không biết đến. 10 năm trước làm sao có chuyện như vậy, không nói đến 100 năm. Nhưng đây là hình tượng của tương lai. Ngày nay một số chương trình truyền hình và tờ báo được ưa thích nhất ở Trung Đông được các công ty tư nhân phát đi từ châu Âu và nằm ngoài tầm kiểm soát của các chính phủ trong khu vực.

Chuyện thứ tư: Ả rập Xê út đang xem xét việc cho phép phụ nữ lái xe hơi, điều mà xưa nay họ cấm đoán. Vấn đề này đã và đang được tranh cãi quyết liệt tại nước này nhưng gần đây đã trở nên cấp bách hơn. Vì sao? Do sự sụt giá của dầu lửa, vương quốc này không còn khả năng trả lương cho nửa triệu người nước ngoài sang hành nghề lái xe. Hãy xem bài phỏng vấn đăng trên tờ báo Al-Quds al-Arabi và được dịch đăng trên tờ Mideast Mirror ngày 17/4/1998. Người được hỏi là hoàng tử Talal bin Abdelaziz, có lẽ là thành viên có tư tưởng tự do trong hoàng tộc Xê út. Talal là người anh em của cả quốc vương Fahd lẫn Bộ trưởng Quốc phòng Sultan, và là bố của hoàng thân al-Waleed bin Talal, một nhà công nghiệp năng động nhất của đất nước. Được hỏi là ông có ủng hộ việc cho phép phụ nữ nước này lái xe, Talal nhất trí ngay và nói thêm: “Phụ nữ Xê út vốn dĩ đã cưỡi lạc đà cùng đàn ông. Vậy thì có gì khác nhau giữa lạc đà và xe hơi? …Việc phụ nữ lái xe đã trở thành một sự cần thiết về kinh tế. Chúng ta chuyển hàng triệu đô-la sang những quốc gia có kiều dân sang đây làm tài xế, vậy thì tại sao không tiết kiệm khoản tiền đó.”

Hoàng tử Talal nói tiếp: “Cải cách chính trị đang trở thành một bộ phận của toàn cầu hóa và chúng ta cần chuẩn bị tinh thần để ứng phó với tình hình đó… toàn cầu hóa hiện nay đang dựa trên nền móng dân chủ, nhân quyền và kinh tế thị trường. Có người đã nói vui, gọi toàn cầu hóa là ‘thời trang’ trong đó chúng ta phải chạy theo. Nếu Trung Quốc cũng chạy theo ‘thời trang’ đó thì tại sao những quốc gia vùng Vịnh không làm điều đó? Họ phải hiểu rằng thay đổi là tất yếu.”

Những câu chuyện trên nói với chúng ta điều gì? Chúng nói rằng những điều gì Saddam Hussein làm hay không làm, hay những gì láng giềng của ông ta tuân phục hay bỏ qua, tất cả đều sẽ tác động mạnh mẽ đến sự ổn định của Trung Đông. Và trước khi ông ta ra đi, những hành động của Hussein có nhiều khả năng sẽ gây ra chiến tranh hay ngưng bắn.

Nhưng trong lúc này có một cuộc xâm lăng đang lặng lẽ xảy ra trong vùng Vịnh – cuộc xâm lăng của thông tin và tư bản tư nhân thông qua hệ thống toàn cầu hóa. Nhiều năm qua thế giới Ả rập đã bị cách ly khỏi những cuộc cách mạng thông tin và thị trường tài chính – những tác nhân lớn đối với châu Á và nhiều vùng khác trên thế giới. Dầu lửa đã cho phép người Ả rập và Iran tránh được sức ép phải giảm biên chế và tư nhân hóa những nền kinh tế của họ. Dầu lửa cho phép họ dựng rào cản trước những áp lực đó và tiếp tục duy trì rào cản ngay cả khi bức tường Berlin sụp đổ. Thời đó qua rồi. Làm thế nào để những xã hội Ả rập đối phó với cuộc xâm lăng của thông tin và vốn tư nhân – thích nghi hay chống lại – sẽ tạo những tác động tương tự vào toàn cảnh vùng Vịnh, mạnh không kém Saddam Hussein. Nếu bạn không nhận thấy cuộc xâm lăng đó, không thấy bộ mặt mới của Trung Đông ngày nay, và nếu làm ngơ trước cuộc xâm lăng không tiếng súng nói trên thì bạn thông thể vạch chiến lược đúng đắn cho Trung Đông. Và xin báo trước: cuộc xâm lăng lặng lẽ này sẽ không bao giờ ngưng.

Một lần tôi đi bộ trên đường phố Teheran cùng một cộng tác viên của báo The New York Times, cũng một phụ nữ 21 tuổi người Iran nhưng đã Âu hóa nhiều. Chúng tôi trao đổi về chủ đề dầu lửa ảnh hưởng ra sao tới nền chính trị của Iran, đặc biệt về việc dầu lửa đã cho phép các vị trưởng giáo tiếp tục cầm quyền trong một thời gian quá dài, vì thu nhập từ dầu lửa đã bù trừ cho hoạt động kinh tế yếu kém dưới chế độ Hồi giáo. Dầu lửa, chứ không phải lòng tin Hồi giáo, chính là vũ khí bí mật của Iran. Nếu không có sự cứu giúp về tài chính mà thu nhập từ dầu lửa mang lại, thì các vị trưởng giáo đã phải mở cửa đất nước và khoác lên mình chiếc áo nịt nạm vàng – đơn giản vì nền kinh tế ở đây không thể tăng trưởng kịp để cáng đáng mức tăng dân số mà không cần đến những đầu tư lớn từ nước ngoài. Và nữ đồng nghiệp của tôi nói một câu mà tôi nhớ mãi, về đất nước Iran: “Nếu không có dầu lửa thì chúng tôi có thể phát triển như Nhật Bản.”

Tôi hứa với cô ta một điều. Một ngày nào đó các giếng dầu ở Iran sẽ khô cạn, hay thế giới sẽ khám phá ra một nguồn năng lượng thay thế dầu lửa thì điều gì sẽ xảy ra: Các vị trưởng giáo sẽ phải mặc tấm áo nạm vàng, nếu không, sẽ bị hạ bệ. “Hãy báo cho tôi hay cái ngày mà dầu lửa ở Iran cạn dần,” tôi nói, “và tôi sẽ báo cho cô và cái ngày có một trưởng giáo Gorbachev xuất hiện ở đây.”

Và lúc đó cũng sẽ xuất hiện cả tiệm ăn McDonald’s.

Trong một bữa ăn tối ở Ma rốc năm 1996, bạn tôi, một nhà ngoại giao Mỹ, người tôi gặp lần đầu ở Moskva trong thập niên 80, đã giải thích cho tôi về những khác biệt trong vai trò của anh thời nay so với thời Chiến tranh Lạnh, về những thế lực đang định hướng ở những nơi anh ta hoạt động, về tình hình thế giới nói chung mờ đục so với sự tách bạch về quyền lực của thời Liên Xô và Mỹ.

“Khi tôi vào ngoại giao,” anh ta thú thật, “thì đó là một môi trường định hướng rõ ràng. Bạn học ngoại ngữ, được cử vào cuộc chơi và sang đóng ở một đại sứ quán ở nước ngoài. Cũng như đi câu vậy: ném mồi ra rồi kéo mồi vào, bạn biết rõ luật chơi, trò gì, và mục đích gì. Ngày nay, sự nghiệp của bạn như trong cuộc chạy vượt chướng ngại. Chúng tôi nói với nhau, ‘Chúng ta đi đâu thế này, dùng loại bóng gì để ném, và người bắt bóng là ai vậy?’ Vị đại sứ có thể đến hỏi, ‘anh đang làm gì thế?’ Và bạn không rõ là mình đang làm gì, rồi tự hỏi, ‘Mình đang làm gì ở đây nhỉ?’ Chính phủ Hoa Kỳ có thể đóng cửa [như trong năm 1996] mà cũng chẳng ảnh hưởng gì, điều đó làm nhiều người giật mình… càng ở ngành ngoại giao lâu tôi càng có cảm giác mình lạc vào một cảnh của câu chuyện Chùm nho uất hận trong đó viên chức ngân hàng đến siết nhà của người nông dân và người này đã dọa bắn chết ông ta, nhưng viên chức đó nói đó không phải lỗi của ông, vì ông chỉ là người thừa hành lệnh của một tổ chức. Và người nông dân hỏi đến bao giờ mới kết thúc được điều đó? Tôi phải bắn ai bây giờ? Vị quan chức nhà băng trả lời, ‘tôi không biết, hình như không có ai cho anh bắn đâu.’”

Lời than vãn của ông bạn tôi là điều bạn ngày nay thường nghe từ cộng đồng những chuyên viên vạch chính sách đối ngoại. Vì sao anh ta bị rối trí? Vì hệ thống Chiến tranh Lạnh là một thế giới được phân chia rõ ràng, và ai cũng biết cách đo đếm sức mạnh, đánh giá hiểm họa, sự răn đe và những lợi thế, đặng đưa ra những chiến lược đúng hướng. Dẫu cho thời đó có những bất đồng trong cách vạch chiến lược – phong tỏa chặt chẽ, hòa hoãn hay kiểm soát vũ khí – nhưng mọi người thường vẫn sử dụng một thứ thuật ngữ chung và quan điểm chung trong việc hình thành từng phần của chính sách. Có một sự nhất trí chung rằng Chiến tranh Lạnh là một hệ thống dựa trên cán cân lực lượng thông thường được xây dựng xung quanh quanh các quốc gia, các đội quân và những loại vũ khí hạt nhân. Một nhà chiến lược thời đó có nhiệm vụ hoán chuyển các yếu tố đó, kết hợp chúng để làm sao chúng sang bên phe ta nhiều hơn là ở bên phe đối phương.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx