Các nhà phân tích có thời gian đã cố tìm hiểu xem những con rùa bị toàn cầu hóa hành hạ, xúc phạm hay bỏ rơi, có thể tìm được ra giải pháp hay ý thức hệ gì thay cho khái niệm tư bản thị trường tự do. Như nói trước đây, trong thời toàn cầu hóa đợt một khi đương đầu với sự tiến hóa tư bản theo lối phá cũ xây mới, những lực lượng phản ứng đã cho ra đời một loạt các ý thức hệ – cộng sản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa, phát xít chủ nghĩa – những quan điểm hứa hẹn sẽ bẻ được nọc độc của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt trong vấn đề cứu giúp người lao động. Giờ đây, khi những ý thức hệ đó không còn được tín nhiệm, tôi không nghĩ rằng sẽ có một hệ ý thức mới nhất quán để chống lại toàn cầu hóa – vì tôi không tin rằng sẽ có một chương trình hay tư tưởng mới nào vừa có thể xóa bỏ được sự tàn nhẫn và sức công phá tư bản, vừa có thể cho phép nâng cao mức sống của nhân loại.
Một lý do khác, khiến sự phản ứng nhằm vào toàn cầu hóa khó có thể cho phép hình thành một hệ tư tưởng thay thế, đó là bản thân sự phản ứng đó chỉ quy tụ được các nhóm rời rạc – bằng chứng cho thấy là sự liên minh giữa các nghiệp đoàn bảo hộ công nhân, các nhà môi trường, các người chống đối loại nhà xưởng bóc lột công nhân, các nhà bảo tồn rùa, bảo tồn cá heo, chống cải biến gen và cả một nhóm mang tên “Tín hiệu từ hành tinh khác,” tất cả đã tụ tập hồi tháng 12 năm 1999 để chống toàn cầu hóa tại cuộc họp thượng đỉnh của WTO tại Seattle. Những nhóm người rời rạc đó gắn bó với nhau bằng một sự hiểu biết rằng thế giới đang bị các tập đoàn công ty thống trị, họ lo lắng cho một thế giới bất công – bất bình đẳng, gây hại cho lợi ích nhân loại, đặc biệt là lợi ích của các con rùa. Nhưng khi bị chất vấn là làm thế nào để định nghĩa lợi ích của loài người và làm thế nào để bảo vệ được lợi ích đó, thì những nhóm người chống đối không đưa ra được câu trả lời nhất quán. Mỗi nhóm một vẻ quan điểm, đa dạng như những trang phục của chính họ vậy. Những công nhân ngành xe hơi, luyện thép và những ngư dân đang đòi cho được sự bảo hộ mậu dịch ở Seattle, thực ra không đoái hoài gì đến việc Hoa Kỳ có cho phép nhập loại cá ngừ đánh bắt bằng lưới lẫn với rùa biển hay không. Tôi thực không muốn mình trở thành thân phận con rùa bị mắc trong lưới đánh cá ngừ được kéo về cảng Seattle. Những lẫn lộn trong cái liên minh đó khiến cho việc lượng đoán sức mạnh của sự phản ứng đối với toàn cầu hóa trở nên khó khăn hơn, vì trong khi cùng nhất trí là toàn cầu hóa gây đau thương cho họ, thì cho đến nay, những người chống đối không có chung bất cứ cương lĩnh, hệ tư tưởng hay chiến lược nào nào để cùng hoạt động.
Chính vì thế tôi ngờ rằng những con rùa trong nhân loại và những người chỉ đơn thuần căm ghét những thay đổi mà toàn cầu hóa gây ra cho văn hóa, môi trường hay cộng đồng của họ, sẽ không để tâm đến việc tìm ra một tư tưởng mới. Sự chống đối sẽ chỉ có hình thức bộc phát khác nhau. Những người thợ luyện thép sẽ vận động Washington dựng lên những bức tường chống lại thép nhập khẩu. Những người khác, các nhà môi trường chẳng hạn, những người muốn cứu những cánh rừng nhiệt đới, đơn thuần sẽ lên án toàn cầu hóa mà không đưa ra được các giải pháp kinh tế bền vững. Khẩu hiệu duy nhất của họ là: STOP
Đối với những con rùa đói nghèo nhất trong thế giới đang phát triển, những kẻ thực sự bị toàn cầu hóa bỏ rơi, họ sẽ chống toàn cầu hóa bằng cách tiếp tục đốt phá thiên nhiên mà không giải thích, thanh minh hay đưa ra một tư tưởng nào về việc đó. Tại Indonesia, họ sẽ tấn công các tiệm hàng của thương nhân người Hoa, chiếm dụng tài sản. Tại Nga, họ sẽ bán vũ khí cho Iran hoặc gia nhập giới tội phạm. Tại Brazil, họ sẽ đốn cho hết những mảng rừng tự nhiên hoặc gia nhập phong trào nông dân mang tên “Sem Teto” (Không nhà), trộm cắp để kiếm sống. Có khoảng 3,5 triệu những người như thế sống ở Brazil – những nông dân thiếu đất đai, sống trong khoảng 250 khu trại trên khắp đất nước. Có lúc họ sống bên vệ đường, chờ đến khi người khác phải trả tiền thì họ mới dọn đi, có lúc họ vào cướp bóc các siêu thị, cướp nhà băng, hay ăn cắp xe tải. Họ không có cờ hiệu, không có cương lĩnh. Họ chỉ có nhu cầu và hoài bão của riêng họ. Chính vì thế điều chúng ta đã và đang chứng kiến ở nhiều nước, là, thay vì một đám đông đoàn kết chống toàn cầu hóa, ta chỉ thấy dập dìu những làn sóng tội phạm – những người chống đối chỉ vơ vét những gì bản thân họ cần, dệt cho được những mạng lưới an sinh xã hội mà không cần nghĩ đến chuyện xây dựng học thuyết hay ý thức hệ.
Mặc dù sự phản ứng này không vững chắc về luận thuyết và không được phối hợp chặt chẽ, nó đã và đang thực sự hiện hữu. Nó đến từ sâu thẳm tâm hồn của con người, vì vậy quy tụ được đông đảo dân chúng và gây ảnh hưởng đối với nền chính trị ở bất cứ nước nào. Nếu làm ngơ nó thì các xã hội liệu mà ráng chịu.
Trong hầu như bất cứ đất nước nào đã mang lên chiếc áo nịt nạm vàng, bao giờ cũng có một chính đảng hay một cá nhân nổi tiếng đứng tuyên truyền chống toàn cầu hóa. Những đảng phái hay cá nhân đó sẽ đưa ra những giải pháp theo lối bảo hộ và thu phục lòng người – những giải pháp theo họ, sẽ dẫn đến cải thiện đời sống cho dân chúng mà không phải tiến bước quá nhanh hay mở cửa biên giới quá rộng. Họ nói là cứ chịu khó dựng rào cản ở chỗ này chỗ kia thì mọi sự rồi sẽ tốt đẹp. Họ gây được sự chú ý của những người chỉ muốn sống trong quá khứ, thay vì tương lai. Chẳng hạn tại Nga, những Dân biểu cộng sản trong Viện Duma tiếp tục đi đầu trong những phản ứng chống toàn cầu hóa bằng cách tuyên truyền với dân lao động và những người hưu trí rằng trong thời Liên Xô, mặc dù họ chỉ có được những công việc không hứng thú và phải xếp hàng để được phân phối bánh mỳ, nhưng bao giờ cũng có công ăn việc làm và bao giờ cũng được phân phối bánh mỳ khi đến lượt. Sức mạnh của những đảng phái hay cá nhân trong công cuộc chống toàn cầu hóa đó tùy thuộc vào mức độ yếu kém của nền kinh tế ở nước đó. Thông thường thì kinh tế càng trì trệ thì những luận điểm giản đơn kể trên càng có sức lôi cuốn.
Những người chống đối toàn cầu hóa không chỉ thành công trong thời gian đất nước hay nền kinh tế của họ gặp khó khăn. Năm 1998, đa số trong Quốc hội Mỹ đã chặn, không cho phép Tổng thống Mỹ mở rộng khu vực mậu dịch tự do NAFTA sang Chi lê – một đất nước nhỏ bé – lý do là làm như vậy người dân Mỹ sẽ mất thêm cơ hội việc làm. Lý luận sai lầm đó đã thắng thế vào lúc trị giá các chứng khoán của Hoa Kỳ lên cao kỷ lục, thất nghiệp ở mức thấp nhất và tất cả những nghiên cứu đều cho thấy là NAFTA mang lại những giải pháp nhiều bên cùng có lợi khi áp dụng ở Hoa Kỳ, Mexico và Canada. Hãy nghe điều ngu xuẩn sau đây: Quốc hội Mỹ duyệt chi 18 tỷ đô-la cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế để tổ chức này cứu giúp các nước đang vật lộn với toàn cầu hóa, nhưng Quốc hội không chấp nhận mở rộng NAFTA sang Chi lê. Lô gíc nằm ở đâu? Phải chăng nó nằm ở chỗ: “Chúng ta ủng hộ viện trợ, không ủng hộ thương mại?”
Điều đó thực vô lý, nhưng có một lý do để những lập luận kiểu đó thắng thế trong cả thời kỳ thịnh vượng lẫn lúc khó khăn – đó là tâm lý bất an trong dân chúng mỗi khi có những thay đổi nhanh quá. Tâm lý này xuất hiện cùng lúc với sự thịnh vượng. Tâm lý này khiến cho người ta hoang mang, cho rằng cuộc sống của họ giờ đây đang bị những thế lực khác biệt kiểm soát, những thế lực mà người ta không thể nhìn ngắm hay sờ mó. Hệ thống toàn cầu hóa vẫn còn quá mới mẻ đối với quá nhiều người và khiến xảy ra quá nhiều thay đổi trong cuộc sống của quá nhiều người. Vậy là người ta hoang mang, người ta lo sợ không còn giữ được công ăn việc làm đúng ý. Trong hoàn cảnh đó những người chống đối toàn cầu hóa được dịp đưa ra những luận thuyết sơ sài và đơn giản hóa. Nó tạo những cảm giác mạnh mẽ trong dân chúng, cho rằng chúng ta cần phải đi chậm lại, dựng lên một vài bức tường hay ném chút ít cát vào bánh răng đang chuyển động – để cho chúng ta có thể ngồi vững trên cỗ xe, chứ không phải để chúng ta bỏ xe bước xuống đường.
Bạn cũng đừng tự huyễn hoặc cho rằng sự phản ứng nhằm vào toàn cầu hóa chỉ là những cơn giận dữ của những người bị chịu nhiều thiệt thòi. Cũng giống như các cuộc cách mạng, toàn cầu hóa liên quan tới việc chuyển giao quyền lực từ một nhóm người này sang một nhóm khác. Trong nhiều nước nó là sự chuyển giao quyền lực từ nhà nước và bộ máy quan liêu vào tay khu vực tư nhân và giới kinh doanh. Khi điều đó xảy ra, tất cả những người vốn có vị trí trong bộ máy quan liêu, hay hưởng lợi từ đó, hay những người có vị trí cao trong bộ máy kinh tế vốn bao cấp, tất cả trở thành những kẻ thua thiệt – nếu họ không hòa nhập vào bước quá độ lên “Thế giới Đi nhanh”. Những kẻ thua thiệt cũng bao gồm những nhà công nghiệp và giới liên quan hưởng lợi từ những hoạt động kinh tế độc quyền nhờ sự hỗ trợ của chính phủ, những chủ doanh nghiệp được lợi từ các chính sách chống hàng nhập cảng, những thủ lĩnh nghiệp đoàn – những người quen với việc mỗi năm đi tranh đấu để giảm giờ làm và tăng lương trong một số ngành nghề được bảo hộ, công nhân thuộc các nhà máy quốc doanh xưa nay vẫn được trả lương dẫu cho nhà máy làm ăn lãi hay lỗ, những người thất nghiệp xưa nay vốn vẫn nhận được những khoản trợ cấp xã hội và y tế đều đặn và những người khác vốn lệ thuộc vào những ưu đãi của nhà nước bảo vệ trước sự xâm lấn của các thị trường toàn cầu.
Điều đó giải thích vì sao trong một số nước, sự chống đối toàn cầu hóa mạnh mẽ nhất không đến từ nhóm dân chúng nghèo đói, mà từ những kẻ “vốn xưa nay…” trong giới trung lưu và trung lưu lớp dưới, những người được hưởng sự ổn định trong những hệ thống cộng sản, xã hội chủ nghĩa hay nhà nước phúc lợi khác. Khi họ thấy những bức tường phòng hộ sụp đổ, khi những cuộc chơi thiếu thành thực mà trước kia họ tham gia kiếm lợi, những lưới bảo hiểm xã hội, bị thu nhỏ lại – họ trở nên rất rầu lòng. Khác với những con rùa, những nhóm người kể trên vẫn còn ảnh hưởng để họ quy tụ người khác tổ chức chống đối toàn cầu hóa. Liên đoàn AFL-CIO có lẽ đã trở thành một lực lượng chính trị hùng mạnh nhất, chống đối toàn cầu hóa tại Hoa kỳ. Các nghiệp đoàn lao động đã bí mật tài trợ cho rất nhiều hoạt động quảng cáo, đại diện cho các cuộc biểu tình tuần hành ở Seattle, khuyến khích sự chống đối từ các tầng lớp dưới nhằm vào thương mại tự do.
Hiểu biết của tôi về sự chống đối toàn cầu hóa từ giai cấp trung lưu đã tình cờ xuất hiện khi tôi ở Bắc Kinh, trò chuyện với Wang Jisi, phụ trách ban nghiên cứu Bắc Mỹ, Viện Khoa học Xã hội của Trung Quốc. Chúng tôi nói chuyện lan man từ chủ đề Hoa Kỳ sang chuyện cuộc sống của anh ta ở Trung Quốc, rồi thị trường tự do, những điều khiến cho trong dân chúng Trung Quốc có người thích thú có người lo âu. “Guồng máy thị trường đang di chuyển vào Trung Quốc, nhưng câu hỏi hiện nay là làm thế nào để vận hành nó,” Wang nói. “Nhờ cơ quan của tôi thì tôi mới có nhà ở. Nếu giờ đây nhà cửa được đưa đấu giá trên thị trường tự do thì có khi tôi không mua nổi nhà. Tôi không phải là người bảo thủ, nhưng khi những vấn đề thực tế như vậy được đặt ra thì dân chúng hoàn toàn có thể trở nên bảo thủ. Nếu mọi người bị ném ra thị trường sau thời gian được bao cấp chu đáo, họ sẽ phản ứng. Người lái xe của tôi hôm trước đã phàn nàn rằng thời trẻ, ông ta đã cống hiến tất cả cho chủ nghĩa Mao và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng giờ đây ông ta 45 hay 50 tuổi, thì đột nhiên người ta bắt ông phải ra thị trường. “Như thế có công bằng không?” ông ta chất vấn chính phủ, ‘khi tôi đã hết lòng vì bất cứ điều gì các vị đòi hỏi ở tôi hàng chục năm nay và giờ đây các vị quên tôi luôn, đẩy tôi ra thị trường khi tôi già? Không công bằng chút nào. Tôi chưa làm điều gì sai trái. Bao giờ tôi cũng tuân theo chỉ dẫn của các vị, chính phủ thân mến, vậy mà giờ đây chính phủ lại nói tôi quên chính phủ đi.’ [Người lái xe này] rất thích làm việc ở cơ quan chúng tôi. Ông ta không muốn trở thành một lái xe taxi để rồi mất hết phúc lợi xã hội. Ông ta không muốn nhập vào thị trường.”
Bạn không cần phải trở thành một người công nhân cộng sản mới hiểu được điều đó. Peter Schwartz, Chủ tịch hãng Global Business Network, một hãng tư vấn, có lần kể cho tôi về một cuộc đối thoại trước buổi phỏng vấn với chương trình kinh tế của đài BBC ở London: “Khi đưa tôi tới chỗ phỏng vấn, phóng viên người Anh đó hỏi tôi một số điểm cốt lõi trong quan điểm của tôi. Tôi nói bóng gió tới chuyện nước Anh là một điển hình của một nền kinh tế có sức đột phá – đặc biệt khi so với toàn châu Âu – con số thất nghiệp là minh chứng cho điều đó. Phóng viên này nói với tôi: ‘Thế không phải là chuyện tồi tệ sao? Trợ cấp thất nghiệp ở Anh thấp đến nỗi người ta không còn muốn ngồi nhà để hưởng nữa, họ xoay ra kiếm việc đi làm.”
Schawartz nói tiếp: “Có những người coi sự quá độ tới toàn cầu hóa là một tổn thất lớn lao, chứ không phải là một thành tựu. Họ mất đi không chỉ những phúc lợi, mà còn mất đi điều họ coi là quyền lợi: rằng các xã hội công nghiệp hiện đại giàu có đến nỗi dân chúng có quyền được hưởng những trợ cấp thất nghiệp hào phóng.”
Nếu muốn quan sát điển hình của cuộc chiến giữa những người toàn cầu hóa và những giới ham được bảo hộ thì mời bạn sang thế giới Ả rập. Năm 1996, đến lượt Ai Cập đăng cai hội nghị Thượng đỉnh Kinh tế Trung Đông, hội tụ các lãnh đạo kinh doanh của phương Tây, Á châu, Ả rập và Israel. Những nhà quan liêu ở Ai Cập đã quyết liệt chống lại kế hoạch đăng cai hội nghị này. Một phần là lý do chính trị – có những người cảm thấy Israel chưa thực hiện đầy đủ những cam kết đối với người Palestine, nên họ chưa thể bình thường hóa với Israel. Nhưng một phần là do chính những viên chức quan liêu Ai Cập, những người đang cai quản kinh tế nước này từ ngày Nasser quốc hữu hóa các định chế kinh tế trong nước trong những năm 60. Họ tự hiểu rằng cuộc họp thượng đỉnh có thể là bước đầu tiên mở ra khả năng họ mất dần quyền lực vào tay khu vực tư nhân, một khu vực đã bắt đầu có cơ hội mua lại các xí nghiệp quốc doanh cũ và có thể tiến hành chiếm giữ dần hệ thống truyền thông của đất nước. Tờ báo Hồi giáo al-Shaab đã chỉ trích hội nghị thượng đỉnh là “hội nghị của sự hổ thẹn.”
Tuy nhiên lần đầu tiên khu vực tư nhân của Ai Cập đã đoàn kết thành các lực lượng vận động hành lang mạnh – Phòng Thương mại Ai Cập - Hoa Kỳ, Hội đồng các Lãnh đạo Doanh nghiệp Ai Cập trực thuộc Tổng thống và Hiệp hội Doanh nghiệp Ai Cập – đã chung sức thuyết phục Tổng thống Mubarak nghe theo họ. Họ giải thích nếu tổ chức họp thượng đỉnh với hàng trăm các nhà đầu tư trên thế giới sẽ là cơ hội để tạo việc làm cho lực lượng lao động của Ai Cập, mỗi năm tăng 400.000. Tổng thống Mubarak đi lui đi tới, và sau cùng đã về phe với khu vực tư nhân, chấp thuận tổ chức hội nghị. Ông thẳng thắn tuyên bố trong diễn văn khai mạc hội nghị: “Năm nay, Ai Cập gia nhập nền kinh tế toàn cầu. Ai Cập sẽ tuân thủ những luật lệ của nền kinh tế đó.” Nhưng bộ máy quan liêu ở Ai Cập, không muốn nhường bất cứ quyền lực gì cho khu vực tư nhân, vẫn tiếp tục tranh đấu, và mỗi lần có biến cố trong kinh tế thế giới chẳng hạn như khủng hoảng ở Á châu năm 1998, họ là đến nói với Tổng thống Mubarak, “Thấy chưa, chúng tôi đã nói rồi. Chúng ta cần phải đi chậm lại, dựng thêm rào cản, nếu không thì những gì xảy ra ở Brazil rồi sẽ xảy ra với chúng ta.”
Trong một thời gian dài tôi nghĩ rằng sự miễn cưỡng của Ai Cập trong việc kết nối với toàn cầu hóa bắt nguồn từ tính thiển cận của giới công quyền và sự thiếu tầm nhìn trong hàng ngũ lãnh đạo đất nước. Nhưng sau đó có một kỷ niệm đã khiến tôi hiểu rõ thêm. Trong tư cách một tác giả, tôi đi thăm Ai Cập vào đầu năm 2000, gặp gỡ các sinh viên ở đại học Cairo, gặp phóng viên các báo của Ai Cập và những thương gia hàng đầu ở Cairo và Alexandria. Tôi trao đổi với họ về bản thảo tiếng Ả rập cho cuốn sách này.
Hai hình ảnh nổi bật từ chuyến đi này. Đầu tiên là hình ảnh chuyến tàu từ Cairo đến Alexandria, đi trong toa tàu là hành khách thuộc giới thượng lưu và trung lưu người Ai Cập. Nhiều người trong số họ có điện thoại di động, kêu chuông liên tục trong suốt hai giờ tàu chạy, giai điệu chuông khác nhau, liên miên đến mức có lúc tôi muốn đứng dậy dùng ba toong làm nhạc trưởng cho dàn nhạc chuông điện thoại. Tôi chán nghe nhạc điện thoại di động đến mức nóng lòng muốn được xuống tàu. Trong khi những điện thoại đó thi nhau reo chuông trong toa tàu, thì bên ngoài là cảnh sông Nile, dọc bờ sông là những dân làng người Ai Cập đang cày ruộng, dùng cày và trâu kéo giống như những gì tổ tiên của họ làm ăn từ cái ngày xây dựng kim tự tháp Pharaoh. Tôi không thể tưởng tượng được một hố ngăn cách rộng lớn hơn thế về công nghệ trong một đất nước – trong toa tàu là Ai Cập năm 2000 sau Công nguyên, ngoài toa tàu là Ai Cập năm 2000 trước Công nguyên.
Hình ảnh thứ hai là lần đến thăm Yousef Boutros- Ghali, Bộ trưởng Kinh tế của Ai Cập, người từng học ở MIT. Khi tôi đến tòa nhà của ông ta thì một người trông thang máy, một nông dân Ai Cập, chờ tôi ở thang máy, anh có chìa khóa để vận hành thang máy. Trước khi đút chìa khóa vào mở cho thang máy hoạt động, anh ta đã khấn theo kinh Koran: “Nhân danh chúa, đấng từ bi và tinh thần.” Là một người nước ngoài, bạn có thể rất hoảng khi thấy người trông thang máy khấn khứa trước khi đóng cửa thang máy để lên lầu, nhưng đối với anh ta, đó chỉ là một thói quen văn hóa, cắm rễ sâu trong truyền thống của anh. Một lần nữa ta thấy sự tương phản: ông Boutros Ghalis, đầu tàu kỹ thuật cao dẫn dắt toàn cầu hóa, một bên là người trông thang máy, cứ mỗi lần cho thang chạy là lại khấn bái.
Những cảnh đó phản ánh cho tôi thấy sự căng thẳng thực sự trong lòng Ai Cập: Trong khi giới thượng lưu nhỏ bé, được trang bị điện thoại di động đang cố sức để được nối mạng, nhập vào con tàu kinh tế toàn cầu, thì phần đông những người khác bị bỏ rơi hoặc để mất đi bản sắc của họ khi cố sức chạy theo con tàu đó. Sau một tuần trò chuyện về phí tổn và lợi ích của toàn cầu hóa, tôi ngạc nhiên thấy phần đông người Ai Cập, gồm rất nhiều những trí thức, chỉ thấy ra được tổn phí. Càng giải thích về toàn cầu hóa, càng làm cho họ khó chịu. Sau cùng, một ý nghĩ đến với tôi rằng tôi đang đối diện với điều mà các nhà nhân chủng học gọi là “sự hiểu lầm có hệ thống.” Sự hiểu lầm đó sinh ra khi cái khuôn mẫu của bạn khác hẳn với khuôn mẫu của người khác, mà không thể dùng thông tin bổ sung để làm cho chúng khớp với nhau.
@by txiuqw4