sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn - Hai Tòa Tháp - Quyển III - Chương 08 - Phần 1

Chương VIII

ĐƯỜNG ĐẾN ISENGARD

Và như vậy trong ánh nắng một buổi sáng đẹp trời Vua Théoden Và Gandalf Kị Sĩ Trắng đã gặp lại nhau trên đồng cỏ xanh bên dòng suối hẻm. Ở đó còn có cả Aragorn con trai Arathorn, Legolas người Tiên, Erkenbrand chúa Westfold, và những vị chúa trong Cung Điện Vàng. Tập trung xung quanh họ là đội quân Rohirrim, những kị sĩ đất Mark: sự kinh ngạc át cả niềm vui chiến thắng của họ, và mắt họ hướng về phía khu rừng.

Đột nhiên một tiếng thét lớn vang lên, và từ phía hào xuất hiện những người trước đó đã bị dồn vào trong hẻm. Có Gamling già, Éomer con trai Éomund, và bước đi bên cạnh họ là Gimli Người Lùn. Gã không còn đội mũ trụ nữa, và quấn quanh đầu gã là một băng vải thấm máu; nhưng giọng gã vẫn sang sảng mạnh mẽ.

“Bốn mươi hai, cậu Legolas ạ!” gã hét to. “Than ôi! Rìu của tôi bị mẻ rồi: tên bốn hai đeo vòng sắt ở cổ. Còn anh thì sao?”

“Anh đã vượt thành tích của tôi một tên,” Legolas trả lời. “Nhưng tôi không đố kị với anh trong trò chơi này đâu, tôi mừng vì lại được thấy anh bước đi!”

“Chào mừng, Éomer, con trai em gái ta!” Théoden nói. “Giờ ta có thể thấy cháu an toàn rồi, thực sự ta rất mừng.”

“Kính chào, Chúa đất Mark!” Éomer nói. “Buổi đêm tăm tối đã trôi đi, và buổi ngày lại tới. Thế nhưng buổi ngày cũng mang tới những tin tức thật lạ lùng.” Anh ta quay lại đưa mắt nhìn kinh ngạc, đầu tiên nhìn khu rừng rồi sau đó sang Gandalf. “Một lần nữa ông lại đến vào đúng giờ khắc khó khăn, không được ai lường trước,” anh ta nói.

“Không ai lường trước ư?” Gandalf nói. “Tôi đã nói rằng tôi sẽ trở lại đây gặp anh rồi mà.”

“Nhưng ông không nói vào giờ nào, cũng không nói trước cách thức ông đến đây. Ông đã mang theo sự trợ giúp thật lạ lùng. Ông có phép phù thủy phi thường, Gandalf Phù Thủy Trắng ạ!”

“Có lẽ thế. Nhưng nếu thật vậy thì tôi vẫn chưa thể hiện ra đâu. Tôi mới chỉ cho những lời khuyên hay trong lúc hoạn nạn và lợi dụng tốc độ của Scadufax. Sự quả cảm của các anh còn hữu ích hơn, và cả những đôi chân bền bỉ của người Westfold đã hành quân suốt đêm.”

Rồi tất cả đều nhìn Gandalf còn ngạc nhiên hơn nữa. Vài người nhìn đầy u tối vào khu rừng, và quệt tay qua lông mày, như thể họ nghĩ rằng mắt họ thấy những gì mắt ông không thấy.

Gandalf phá lên một tràng cười thật lâu và vui vẻ. “Những cái cây ư?” ông nói. “Không, tôi cũng thấy khu rừng rõ ràng như các anh thấy vậy thôi. Thế nhưng đó không phải là công của tôi. Đó là thứ vượt ra khỏi lời khuyên của nhà thông thái. Sự việc đã trở nên còn hay hơn kế hoạch của tôi, thậm chí còn hay hơn cả hi vọng của tôi nữa.”

“Vậy nếu không phải do ông, thì phép phù thủy này là do ai?” Théoden nói. “Không phải do Saruman thì là rõ rồi. Còn có vị hiền giả nào thần thánh hơn mà chúng tôi chưa được biết tới sao?”

“Đó không phải là phép phù thủy, mà là một lực lượng cổ xưa hơn rất nhiều,” Gandalf nói, “một lực lượng đã bước đi trên mặt đất này, từ trước cả khi nòi tiên bắt đầu ca hát hay tiếng búa bắt đầu vang lên.

Thuở sắt còn chưa thấy, cây chưa đốn,

Núi hãy còn non trẻ dưới trăng;

Thuở nhẫn chưa rèn, đau thương chưa đến.

Đã bước đi qua những vạt rừng.

“Và lời giải cho câu đố của ông có thể là gì đây?” Théoden nói.

“Nếu ngài muốn biết điều đó, có lẽ ngài nên cùng tôi tới Isengard,” Gandalf trả lời.

“Tới Isengard?” tất cả kêu lên.

“Phải,” Gandalf nói. “Tôi sẽ trở lại Isengard, và bất cứ ai muốn cũng có thể đi cùng tôi. Ở đó chúng ta có thể sẽ được thấy những điều lạ lùng.”

“Thế nhưng đất Mark không đủ quân để tấn công thành trì của Saruman, ngay cả khi huy động tất cả và chữa lành mọi vết thương hay mệt nhọc,” Théoden nói.

“Dù thế nào thì tôi vẫn sẽ tới Isengard,” Gandalf nói. “Tôi sẽ không ở lại đó đâu. Con đường của tôi giờ hướng về phía Đông. Hãy tìm tôi ở Edoras, trước khi trăng khuyết!”

“Không!” Théoden nói. “Tôi đã nghi ngờ vào giờ khắc tăm tối trước bình minh, nhưng giờ chúng ta sẽ không chia cách nữa. Tôi sẽ đi cùng ông, nếu đó là lời khuyên của ông.”

“Tôi muốn nói chuyện với Saruman, càng sớm càng tốt,” Gandalf nói, “và bởi ông ta đã làm ngài tổn thương nghiêm trọng, nên sẽ hay hơn nếu ngài cũng có mặt ở đó. Thế nhưng chừng nào ngài có thể xuất phát và ngài sẽ đi với tốc độ nào?”

“Người của tôi đã mệt mỏi vì cuộc chiến,” nhà vua nói, “và cả tôi cũng mệt mỏi. Bởi tôi đã phải cưỡi ngựa đi xa lại ít ngủ. Than ôi! Tuổi già của tôi không phải giả vờ hay do những lời thì thầm của Lưỡi Giun gieo rắc. Đó thực sự là một căn bệnh mà không thầy thuốc nào có thể chữa khỏi được, ngay cả Gandalf cũng không.”

“Vậy bây giờ hãy để tất cả những ai muốn đi cùng tôi được nghỉ ngơi,” Gandalf nói. “Chúng ta sẽ khởi hành dưới bóng màn đêm. Như vậy càng hay; bởi tôi khuyên rằng những cuộc hành trình của chúng ta từ nay về sau, càng bí mật càng hay. Nhưng đừng gọi nhiều quân đi theo ngài, Théoden. Chúng ta đi thương lượng chứ không phải đi chiến đấu.”

Rồi nhà vua lựa lấy những người không bị thương và có ngựa nhanh, cử họ lên đường mang theo tin thắng trận đến từng thung lũng đất Mark; và họ cũng mang theo cả lệnh triệu tập của ông, yêu cầu tất cả mọi người, từ trẻ đến già, khẩn trương đến ngay Edoras. Ở đó, vào ngày thứ ba sau trăng tròn, Chúa đất Mark sẽ tập trung tất cả những ai mang được vũ khí. Để đi cùng ông đến Isengard, nhà vua chọn Éomer và hai mươi gia binh của anh. Đi cùng Gandalf sẽ có Aragorn, Legolas và Gimli. Bất chấp vết thương gã lùn nhất quyết không ở lại phía sau.

“Chỉ là một cú đánh yếu ớt thôi và chiếc mũ đã đỡ được rồi,” gã nói. “Phải có nhiều vết xước của Orc hơn thế này mới giữ chân tôi được.”

“Tôi sẽ chăm sóc nó, trong lúc anh nghỉ ngơi,” Aragorn nói.

Lúc này nhà vua trở lại Lũy Tù Và, rồi ngủ, giấc ngủ yên bình mà ông chưa biết đến trong suốt nhiều năm, và những người còn lại trong đội quân ông lựa chọn cũng nghỉ ngơi. Còn những người khác, tất cả những ai không bị thương hay đau đớn gì, thì bắt tay vào một cuộc lao động to lớn; bởi rất nhiều người đã ngã xuống trong cuộc chiến và nằm chết trên cánh đồng hay bên trong hẻm.

Không một tên Orc nào còn sống; xác của chúng không đếm xuể. Thế nhưng một số lượng lớn người hoang đã tự đầu hàng; và chúng hoảng sợ, gào khóc xin khoan hồng.

Đội quân đất Mark tước hết vũ khí của chúng, và bắt chúng làm việc.

“Hãy lập công sửa lại sự xấu xa các ngươi đã góp phần;” Erkenbrand nói, “và sau đó các ngươi phải thề không bao giờ cầm vũ khí vượt qua khúc cạn dòng Isen nữa, cũng như không bao giờ hành quân cùng kẻ thù của Con Người; rồi các ngươi sẽ được tự do trở về vùng đất của các ngươi. Bởi các ngươi đã bị Saruman mê hoặc. Nhiều người trong số các ngươi đã phải chết để làm phần thưởng cho lòng tin vào hắn; thế nhưng giả sử các ngươi thắng trận, công xá cho các ngươi cũng sẽ chẳng hơn gì.”

Lũ người Dunland kinh ngac; bởi Saruman đã nói với chúng rằng người Rohan tàn bạo và thiêu sống tù binh.

Ở giữa cánh đồng phía trước Lũy Tù Và hai gò lớn được đắp lên, nằm bên dưới là tất cả những kị sĩ đất Mark đã ngã xuống trong cuộc phòng ngự, những người đến từ các thung lũng Đông nằm một bên, còn những người ở Westfold nằm ở bên kia. Những lũ người Dunland được chất riêng vào nấm đất nằm bên kia con hào. Có một ngôi mộ đơn độc dưới bóng Lũy Tù Và, là của Háma, chỉ huy đội cận vệ của nhà vua. Anh đã ngã xuống ngay trước cổng.

Lũ Orc bị chất thành nhiều đống lớn, cách xa mấy ngôi mộ Con Người, không xa hiên rừng. Và người ta đã phải bận tâm rất nhiều; bởi những đống xác quá lớn khó mà chôn hay hỏa thiêu được. Họ có quá ít củi đốt, và cũng chẳng có ai dám chạm rìu vào những thân cây xa lạ, cho dẫu Gandalf không cảnh báo họ không được làm tổn thương bất kể là vỏ hay cành cây vì sự an toàn cho chính họ đi nữa.

“Cứ để lũ Orc nằm đó,” Gandalf nói. “Buổi sáng sẽ mang đến lời khuyên mới.”

* * *

Đến chiều đội quân của nhà vua đã chuẩn bị sẵn sàng lên đường. Công việc chôn cất lúc đó mới chỉ bắt đầu; và Théoden khóc than cho Háma, người đội trưởng, và ông ném nắm đất đầu tiên xuống mộ anh. “Quả là tổn thất nặng nề Saruman đã gây cho ta và cho cả vùng đất này,” ông nói; “và ta sẽ nhớ điều đó, khi chúng ta gặp nhau.”

Mặt trời đã xuống tới gần dãy đồi phía Tây lòng chảo, khi Théoden và Gandalf cùng những người bạn đồng hành phi xuống qua hào. Đằng sau họ tập trung một đoàn người hùng hậu, cả quân kị sĩ lẫn dân cư Westfold, già lẫn trẻ, phụ nữ lẫn trẻ em, vừa mới đi ra từ hang động. Họ cất giọng trong trẻo hát một khúc khải hoàn; rồi họ im bặt, tự hỏi điều gì đã xảy ra, bởi mắt họ chợt nhìn thấy những thân cây và lòng họ sợ hãi.

Đội kị sĩ đến trước khu rừng, rồi họ dừng lại; cả ngựa lẫn người đều không muốn đi vào. Những thân cây xám xịt có vẻ đe dọa, và một bóng mờ tối hay một màn sương đang giăng quanh chúng. Những đầu cành lòa xòa rủ xuống tựa những ngón tay lần mò, rễ nổi lên mặt đất giống như chân cẳng của những con quái vật lạ lùng, và những hốc đen tối há ra bên dưới chúng. Nhưng Gandalf vẫn tiến lên phía trước, dẫn dầu đội quân, và ở nơi con đường dẫn xuống từ Lũy Tù Và gặp rừng cây giờ đây họ thấy một khoảng mở ra như chiếc cổng vòm dưới những cành cây đồ sộ; Gandalf đi qua đó, và họ đi theo ông. Rồi họ kinh ngạc nhận thấy con đường vẫn đi tiếp, suối hẻm vẫn chảy ở bên cạnh; và bầu trời mở ra trên đầu tràn ngập ánh nắng vàng. Nhưng ở hai bên đường những vách rừng dày đã bị bức màn nhá nhem bọc lấy, trải xa mãi vào tận bóng tối không thể xuyên thấu; và họ nghe thấy tiếng kẽo kẹt, tiếng rên rỉ của cành lá, những tiếng thét phía xa, và cả âm thanh của những giọng không lời, đang lầm bầm giận dữ. Không thấy tên Orc hay sinh vật sống nào hiện ra.

Lúc này Legolas và Gimli đang cưỡi chung một con ngựa; và họ bám sát gót Gandalf, bởi Gimli thấy sợ khu rừng.

“Trong này nóng quá,” Legolas nói với Gandalf. “Tôi cảm nhận được một cơn phẫn nộ khủng khiếp ở khắp xung quanh. Ông không cảm thấy bầu không khí đang đập vào tai ông sao?”

“Có,” Gandalf nói.

“Điều gì đã xảy ra với lũ Orc khốn khổ kia?” Legolas hỏi.

“Điều đó, tôi nghĩ, không bao giờ có ai biết được,” Gandalf trả lời.

Họ im lặng tiến bước trong ít lâu; nhưng Legolas không ngừng liếc sang hết bên này đến bên kia, và nếu Gimli cho phép, chắc chàng đã thường xuyên dừng lại lắng nghe âm thanh của khu rừng.

“Đây là những cái cây lạ lùng nhất mà tôi từng thấy,” chàng nói, “mà đây là tôi đã chứng kiến biết bao mầm sồi lớn lên rồi chết mục. Ước gì tôi được thong thả bước đi giữa chúng: chúng có tiếng nói, và dần dà biết đâu tôi có thể hiểu được tâm tư của chúng.”

“Không, không!” Gimli nói. “Chúng ta mặc kệ chúng thôi! Tôi đã đoán ra được tâm tư của chúng rồi: căm thù tất cả những gì đi bằng hai chân; và tiếng nói của chúng là đòi đè bẹp hay xiết cổ.”

“Không phải tất cả những gì đi bằng hai chân đâu,” Legolas nói. “Về điều đó tôi nghĩ anh đoán sai. Chỉ lũ Orc là những kẻ họ căm ghét. Bởi họ không thuộc về nơi này và không biết nhiều về Tiên và Con Người. Họ đi ra từ những thung lũng xa xôi. Tôi đoán họ đến từ những thung lũng sâu thẳm ở Fangorn, Gimli ạ.”

“Vậy thì đó là khu rừng nguy hiểm nhất ở Trung Địa,” Gimli nói. “Tôi lẽ ra phải biết ơn phần đóng góp mà chúng đã tham gia nhưng tôi không yêu mến chúng. Anh có thể thấy chúng tuyệt vời, nhưng tôi đã được thấy điều còn tuyệt vời hơn ở vùng đất này, đẹp đẽ hơn bất cứ khóm rừng hay trảng cây nào từng mọc trên đời: nó vẫn còn tràn ngập trong trái tim tôi.

“Cách thức của Con Người thật kì cục, Legolas! Ở đây họ có một trong những kì quan của Thế Giới Miền Bắc, vậy mà họ gọi nó là gì? Những cái hang, họ gọi vậy đấy! Những cái hang! Những cái hốc để họ chui vào trong thời chiến, để chứa cỏ khô! Legolas tốt bụng của tôi ơi, anh có biết rằng hang động ở hẻm Helm vô cùng hùng vĩ và đẹp đẽ không? Hẳn sẽ có một đoàn hành hương dằng dặc những Người Lùn, chỉ đơn thuần đến để nhìn ngắm, nếu những nơi này được biết đến. Phải lắm, họ dám trả vàng mười chỉ để nhìn ngắm trong giây lát!”

“Còn tôi sẽ trả vàng để được miễn thứ,” Legolas nói, “và trả gấp đôi để được ra, nếu tôi lỡ bước vào đó!”

“Vì anh chưa thấy, nên tôi thứ lỗi cho câu đùa của anh,” Gimli nói. “Nhưng anh nói như một thằng ngốc vậy. Anh nghĩ những tòa sảnh đó đẹp lắm sao, nơi ông vua của anh sống dưới chân đồi rừng Âm U, và Người Lùn đã giúp họ dựng nên từ lâu lắm rồi? Chúng chẳng khác nào ổ chuột so với những hang động mà tôi thấy ở đây: những tòa sảnh mênh mông, vang tiếng nhạc không ngớt từ biết bao giọt nước nhỏ thành hồ, đẹp đẽ như Kheled-zâram dưới ánh sao.

“Và, Legolas ạ, khi đèn đuốc được thắp lên và con người bước trên thảm cát dưới những mái vòm vang vọng, ôi chao! Bỗng nhiên. Legolas ạ, đá quý, thạch anh, và cả những mạch quặng quý giá chợt lấp lánh trên những bờ tường bóng loáng; và ánh sáng bừng lên qua những nếp đá cẩm thạch, như màu vỏ sò, trong mờ như đôi bàn tay sống động của Vương Hậu Galadriel. Có những cột trụ màu trắng, màu vàng nghệ, và cả màu hồng rạng đông, Legolas ạ, đẽo rãnh hay xoắn lại thành những hình thù kì ảo; chúng vươn lên từ những thềm đá đa sắc tới tận những ụ trần óng ánh: những đôi cánh, những sợi thừng, những tấm rèm tinh tế như những đám mây băng; cả giáo mác, cờ xí, đỉnh tháp trên những đền đài treo lơ lửng! Rồi những hồ gương tĩnh lặng soi bóng chúng: cả một thế giới lung linh nhìn lên từ những vùng nước tăm tối được phủ thủy tinh trong suốt; những đô thành mà ngay cả tâm trí Durin cũng hiếm khi tưởng tượng ra nổi trong giấc ngủ của người, trải ra xuyên qua các đại lộ và cung điện giữa hàng cột trụ, mãi vào tận những nền sâu thẳm không ánh sáng nào chạm tới. Và tách! một giọt bạc rơi xuống, muôn vòng tròn lan đi trên mặt thủy tinh khiến mọi tòa tháp uốn lượn rập rờn như cỏ và san hô trong lòng hang dưới đáy biển. Rồi buổi tối đến: tất cả lấp lánh mờ dần; những ngọn đuốc tiến vào một căn phòng khác để đến với một giấc mơ khác. Hết căn phòng này lại đến căn phòng khác, Legolas ạ; sảnh này lại mở ra sảnh khác, tòa lâu đài này đến tòa lâu đài khác, cầu thang này tiếp nối cầu thang khác; mà những con đường khúc khuỷu vẫn tiếp tục dẫn sâu vào trái tim dãy núi. Những cái hang! Hang động hẻm! Hạnh phúc biết bao khi tôi có cơ hội được đi vào đó! Tôi đã khóc khi phải xa rời chúng.”

“Vậy tôi sẽ cầu chúc anh điều này để anh được yên lòng, Gimli,” chàng Tiên nói, “rằng anh sẽ an toàn qua cuộc chiến để quay lại đây thăm chúng. Nhưng đừng kể với họ hàng của anh! Có vẻ như chẳng còn lại nhiều việc làm cho họ, theo mô tả của anh. Có lẽ người dân ở đây rất khôn ngoan vì chẳng nói nhiều: một gia đình Người Lùn bận rộn những búa cùng đục có thể sẽ phá nhiều hơn là xây dựng.”

“Không, anh không hiểu rồi,” Gimli nói. “Không Người Lùn nào có thể thờ ơ trước vẻ đẹp như vậy. Sẽ không ai trong dòng dõi Durin đến khai thác đá hay quặng trong những hang đó, kể cả nếu có kim cương và vàng ở đó. Anh có chặt hạ những khóm rừng đang đơm hoa mùa xuân làm củi không? Chúng tôi sẽ chăm sóc những trảng đá nở hoa này, chứ không khai thác chúng. Bằng kĩ năng cẩn trọng, gõ nhẹ từng phát một - có thể chỉ là một mẩu nhỏ đá vỡ, không hơn, trong suốt cả ngày lo âu - chúng tôi hẳn sẽ làm như vậy, và khi năm tháng trôi qua, chúng tôi sẽ mở ra những con đường mới, và làm hiện ra những căn phòng xa xôi vẫn còn tăm tối, mà nay mới thoáng thấy như hốc trống sau những khe nứt trên đá. Và ánh sáng nữa, Legolas ạ! Chúng tôi sẽ tạo ra ánh sáng, như những chiếc đèn đã từng tỏa sáng ở Khazad-dûm; và khi nào muốn chúng tôi sẽ đẩy lùi bóng đêm đã nằm đó kể từ khi đồi núi hình thành; còn khi nào mong được nghỉ ngơi, chúng tôi sẽ để bóng đêm quay lại.”

“Anh làm tôi xiêu lòng rồi đấy, Gimli,” Legolas nói. “Tôi chưa từng thấy anh nói chuyện thế này trước đây. Gần như anh đã khiến tôi hối tiếc vì không được xem những cái hang đó. Nào! Chúng ta hãy giao kèo thế này - nếu cả hai chúng ta đều trở về sau những hiểm nguy đang chờ đón, chúng ta sẽ cùng du hành một thời gian. Anh sẽ đến Fangorn cùng với tôi, và sau đó tôi sẽ đi cùng anh đến ngắm hẻm Helm.”

“Đó không phải là con đường trở về mà tôi ưa thích,” Gimli nói. “Nhưng tôi sẽ chịu đựng Fangorn, nếu tôi có được lời hứa của anh là sẽ trở lại thăm hang và cùng tôi chia sẻ vẻ kì diệu ở đó.”

“Anh có lời hứa của tôi rồi đấy,” Legolas nói. “Nhưng than ôi! Giờ chúng ta buộc phải bỏ lại sau cả hang động lẫn rừng cây trong ít lâu. Xem kìa, chúng ta đã đến đoạn cuối rừng cây rồi. Đến Isengard còn bao xa vậy, Gandalf?”

“Khoảng mười lăm lí, theo đường bay của lũ quạ Saruman,” Gandalf nói, “năm lí từ miệng lòng chảo đến khúc cạn; và thêm mười lí nữa từ đó đến cổng Isengard. Thế nhưng chúng ta sẽ không đi hết quãng đường trong đêm nay.”

“Và chừng nào đến đó, chúng ta sẽ thấy được gì?” Gimli hỏi. “Có thể ông biết nhưng tôi thì chẳng thể đoán ra.”

“Chính tôi cũng chẳng biết chính xác,” thầy phù thủy trả lời. “Tôi ở đó lúc sẩm tối ngày hôm qua, nhưng kể từ lúc đó nhiều điều có thể đã xảy ra. Song tôi nghĩ rằng anh không nói chuyến đi này là vô ích - kể cả là những hang động Lấp Lánh Aglarond đã bị bỏ lại sau.”

Cuối cùng đoàn người cũng đi xuyên qua rừng cây, và nhận ra họ đã đến vùng đáy lòng chảo, nơi con đường dẫn từ hẻm Helm rẽ nhánh, một đường hướng về phía Đông đến Edoras, còn con đường kia hướng lên phía Bắc đến khúc cạn dòng Isen. Khi họ ra khỏi hiên rừng. Legolas dừng ngựa và quay lại nhìn tiếc nuối. Nhưng đột nhiên chàng kêu lên.

“Có mắt kìa!” chàng nói. “Có nhiều con mắt đang nhìn ra từ trong bóng các tán cây! Tôi chưa từng thấy những con mắt như vậy trước đây.”

Những người khác, bất ngờ vì tiếng thét của chàng, cũng dừng ngựa rồi quay người; nhưng Legolas đã bắt đầu phi ngựa quay lại.

“Không, không!” Gimli la lối. “Cứ làm gì thì làm để thỏa cơn điên của anh, nhưng trước tiên hãy cho tôi xuống khỏi con ngựa này đã! Tôi không mong được thấy con mắt nào hết!”

“Đứng lại, Legolas Lá Xanh!” Gandalf nói. “Đừng quay lại khu rừng, chưa được! Giờ chưa phải là thời điểm của anh.”

Ông còn chưa kịp dứt lời, thì từ đám cây đã bước ra ba hình thù kì dị. Chúng cao lớn như lũ quỷ khổng lồ, khoảng mười hai bộ hoặc hơn; cơ thể khỏe mạnh của chúng, cường tráng như những thân cây trẻ, không rõ phục trang bằng quần áo hay bằng da sống bó sát màu xám và nâu. Chân tay chúng dài, bàn tay có rất nhiều ngón; tóc chúng cứng đờ, còn râu màu xanh xám như rêu. Chúng ngó chằm chằm qua những cặp mắt nghiêm trang, nhưng lại không nhìn đội quân kị sĩ : mặt chúng hướng về phía Bắc. Đột nhiên chúng giơ những bàn tay dài lên miệng, rồi phát ra những tiếng hô lớn, trong trẻo như tiếng tù và nhưng giàu nhạc điệu và đa dạng hơn. Có những tiếng hô đáp lại; và lại xoay người, đội quân kị sĩ nhìn thấy những sinh vật khác cùng loài đang bước qua cánh đồng cỏ tiến đến gần. Chúng đến rất nhanh từ phía Bắc, dáng đi như những con diệc đang lội nước, nhưng không phải vì tốc độ; bởi đôi chân chúng đang bước những sải dài đập còn nhanh hơn cả cánh diệc. Đội kị binh thét to kinh ngạc, vài người đã đặt tay lên chuôi kiếm.

“Các anh không cần vũ khí đâu,” Gandalf nói. “Đây chỉ là những người chăn. Họ không phải kẻ thù, mà thực tế là họ chẳng bận tâm gì đến chúng ta đâu.”

Dường như đúng là như vậy; bởi ông còn chưa kịp dứt lời, những sinh vật cao lớn kia chẳng buồn liếc đội quân kị sĩ, đã bước vào khu rừng và mất dạng.

“Người chăn ư?” Théoden nói. “Vậy đàn chăn của họ đâu? Họ là giống gì vậy, Gandalf? Bởi rõ ràng là ông, dù thế nào đi nữa, cũng không thấy họ là kì dị.”

“Họ là những người chăm sóc cây,” Gandalf trả lời. “Lâu lắm rồi ngài không nghe những câu chuyện kể bên đống lửa ư? Trẻ con ở vùng đất của ngài, từ những câu chuyên đan dệt rắc rối, cũng có thể trả lời câu hỏi của ngài. Ngài vừa trông thấy người Ent đấy, hỡi nhà vua, những người Ent từ rừng Fangorn, mà ngôn ngữ của ngài gọi là Entwudu tức rừng Ent. Ngài nghĩ rằng tên đó chỉ được đặt bởi tưởng tượng vu vơ thôi sao? Không đâu, Théoden, ngược lại thì có: đối với họ ngài chỉ là một câu chuyện thoáng qua; toàn bộ năm tháng kéo dài từ thời Eorl Trẻ Tuổi đến Théoden Già Cả với họ chỉ là chớp mắt; và tất cả những chiến công của gia tộc ngài chẳng hơn gì một chuyện nhỏ nhoi.”

Nhà vua im lặng. “Người Ent!” hồi lâu sau ông mới cất lời. “Từ trong bóng tối của truyền thuyết, tôi nghĩ mình đã bắt đầu hiểu được một chút về sự kì diệu của cây cối. Tôi đã được sống mà chứng kiến những ngày tháng lạ lùng. Trong suốt bao lâu chúng tôi đã chăm sóc ngựa và đồng cỏ, xây dựng nhà cửa, chế tạo công cụ, hay cưỡi ngựa đi trợ chiến ở Minas Tirith. Và chúng tôi gọi đó là cuộc sống của Con Người, là cách sống trên thế gian. Chúng tôi ít quan tâm đến những gì nằm ngoài biên giới lãnh thổ chúng tôi. Chúng tôi có những bài ca kể về những thứ đó, nhưng chúng tôi đang dần lãng quên, chỉ dạy lại chúng cho con trẻ, như một tục lệ vô tâm. Và giờ thì những bài ca đã đi xuống đây giữa chúng tôi từ những chốn kì lạ, và hiện hình cất bước dưới mặt trời.”

“Ngài nên lấy làm mừng, Théoden Vương,” Gandalf nói. “Bởi không chỉ cuộc đời ngắn ngủi của Con Người hiện đang lâm nguy, mà cả cuộc đời những thứ mà ngài tưởng chỉ có trong huyền thoại. Ngài không thiếu đồng minh đâu, ngay cả khi ngài không hề biết đến họ.”

“Song tôi cũng nên buồn,” Théoden nói. “Bởi dù vận chiến tranh sẽ xoay chuyển thế nào, chẳng phải kết cục cũng là bao nhiêu điều đẹp đẽ và tuyệt vời sẽ bỏ Trung Địa mà ra đi mãi mãi ư?”

“Có thể vậy,” Gandalf nói. “Sự tà ác của Sauron không thể chữa khỏi hoàn toàn, cũng chẳng thể khiến nó như chưa từng tồn tại. Nhưng định mệnh sẽ dẫn chúng ta đến những ngày đó thôi. Còn giờ thì hãy tiếp tục cuộc hành trình mà chúng ta đã bắt đầu!”

Rồi đoàn quân quay ngựa rời lòng chảo và khu rừng mà chọn con đường về phía khúc cạn. Legolas miễn cưỡng đi theo. Hoàng hôn buông xuống, mặt trời đã lặn sau rìa thế giới; nhưng khi họ đi ra từ bóng dãy đồi và nhìn cửa núi Rohan ở đằng Tây thì bầu trời vẫn đỏ, một vùng sáng vẫn rực cháy dưới những đám mây bồng bềnh. Hằn tối trên nền sáng là rất nhiều cánh chim đen bay lượn. Vài con bay qua ngay trên đầu họ, buông tiếng kêu thê lương, và lượn về tổ giữa những tảng đá.

“Lũ chim ăn xác thối thật bận rộn quanh bãi chiến trường,” Éomer nói.

Giờ họ tiếp tục phi ngựa với tốc độ vừa phải và bóng đêm buông xuống khắp vùng đồng bằng xung quanh. Mặt trăng chậm chạp mọc lên, lúc này đang trong độ tròn dần, và trong ánh bạc lạnh lẽo vùng đất cỏ căng tràn dâng lên rồi hạ xuống như mặt biển xám mênh mông. Họ hành quân được khoảng bốn giờ từ chỗ con đường rẽ nhánh thì đến gần khúc cạn. Những sườn dốc dài đổ ngay xuống nơi dòng sông tràn ra trên những bãi cạn đầy sỏi giữa những thềm đất rậm cỏ. Trong con gió thổi tới họ nghe thấy tiếng sói tru. Trái tim họ nặng trĩu, nhớ đến biết bao người đã ngã xuống trong trận chiến tại chính nơi này.

Con đường dốc xuống giữa hai bờ cỏ nhô lên, khoét xuyên qua thềm đất để ra bờ sông, và lại đi lên ở bờ bên kia. Có ba hàng đá phiến bắc bậc ngang dòng nước, mà giữa là những chỗ nông cho ngựa đi, xuất phát từ cả hai bên bờ chạy ra một cù lao trơ trụi giữa đồng. Đội quân kị nhìn xuống con đường vượt sông, và họ cảm thấy có gì không ổn; bởi khúc cạn này vốn vẫn đầy nước xiết và tiếng nước ồn ào vỗ đá; nhưng giờ đây chỉ thấy yên lặng. Đáy sông gần như cạn khô, một vùng hoang phế chỉ có đá cuội và cát xám.

“Nơi này đã trở thành một vùng u ám,” Éomer nói. “Điều tồi tệ gì đã xảy ra với dòng sông vậy? Saruman đã phá hủy biết bao thứ đẹp đẽ: lẽ nào hắn cũng hút cạn cả dòng Isen?”

“Dường như là như vậy,” Gandalf nói.

“Than ôi!” Théoden nói. “Chúng ta có nhất thiết phải đi đường này, nơi những con thú ăn thịt đã ngấu nghiến biết bao kị sĩ cừ khôi đất Mark?”

“Đây là con đường dành cho chúng ta,” Gandalf nói. “Thật đau lòng khi người của ngài ngã xuống; nhưng ngài sẽ thấy rằng ít nhất lũ sói vùng núi không hề ngấu nghiến họ. Mà chúng đang mở bữa tiệc trên thân xác bạn bè chúng, lũ Orc: quả thực là ngưu tầm ngưu mã tầm mã. Đi thôi!”

Họ thúc ngựa xuống dòng sông, và khi thấy họ lũ sói ngừng tru mà lẻn đi. Sợ hãi đã ập xuống chúng khi nhìn thấy Gandalf dưới ánh trăng, và Scadufax con ngựa của ông tỏa sáng như bạc. Đội kị binh ra đến được cù lao, và những con mắt lập lòe yếu ớt nhìn họ từ trong bóng tối hai bên bờ.

“Nhìn kìa!” Gandalf nói. “Bạn bè chúng ta đã làm việc ở đây.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx