Tất nhiên, việc tạo ra những văn bản sao của một tài liệu dễ dàng hơn nhiều so với vịc viết ra những gì đáng cho người ta đọc. Không có giới hạn thực sự nào đối với số lượng sách xuất bản trong một năm nhất định nào đó. Một hiệu sách tiêu biểu nào đó có thể bày bán 10.000 đầu sách khác nhau, và số cửa hàng cao cấp mới có thể chứa đến 100.000 tựa đề. Chỉ có một tỷ lệ nhỏ, dưới 10 % của tất cả sách người xuất bản là có thể mang lại lợi nhuận cho những công vượt trên kỳ vọng cuồng nhiệt nhất của bất cứ người nào.
Quyển sách tôi thính nhất gần đây là quyển A Brief History Of Time - Lược sử về thời gian do Stephen W. Hawking, một nhà khoa học lừng lẫy, nhưng bị sơ cứng động mạch, căn bệnh đó giam ông ta trên chiếc xe lăn và ông đã gặp nhiều khó khăn trong việc giao tiếp với mọi người. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu như bản luận án của ông về nguồn gốc của vũ trụ chỉ do một nhóm nhờ xuất bản ấn hành, và mỗi người trong đó chỉ có thể sản xuất ra với một số lượng một vài quyển một năm? Giả sử một biên tập viên có nhiệm vụ thẩm định sách để ấn hành và ông ta phải chọn lựa giữa việc cho in sách của Hawking hay cho in một cuốn sách về tình dục của Madonna? Một cuộc đánh cuộc chắc thắng là sách của Madonna sẽ được lựa chọn, bởi vì thế cầm chắc rằng người ta có thể bán ra 1 triệu cuốn. Và quả vậy, điều đó đã xẩy ra. Nhưng điều đáng kinh ngạc hơn là sách của Hawking đã bán được 5,5 triệu cuốn, và hiện vẫn còn đang bán rất chạy.
Đôi khi, những loại sách thường bị quên nhưng rồi lại được bán rất chạy nhất là làm ngạc nhiên không ít người (trừ tác giả). Một cuốn sách tôi rất yêu thích khác là cuốn The Bridges of Madison County, tạm dịch là Những chiếc cầu của Quận Madison, một tiểu thuyết được giáo viên trường thương mại về thông tin truyền thông xuất bản. Nó không được nhà xuất bản đánh giá là sách bán chạy nhất bởi không một ai thật sự biết điều gì sẽ thu hút thị hiếu của độc giả. Hầu như vào bất cứ lúc nào, tờ New York Times cũng liệt kê danh mục những sách bán chạy xuất hiện chẳng biết từ đâu bởi chi phí cho phát hành sách thật không đáng kể so với loại thông tin đại chúng khác, cho nên các nhà phát hành đủ sức thử vận may.
Chi phí dành cho phát hành phim và truyền hình cao hơn sách rất nhiều, vì vậy sẽ có nhiều rủi ro hơn nếu ai đó dám phiêu lưu. Trong giai đoạn khởi đầu của ngành truyền hình, lúc đó chỉ vài đài truyền hình trong mỗi đường dân cư, hầu hết chương trình đều nhằm phục vụ cho đại đa số người xem.
Cáp truyền hình đã giúp tăng khả năng chọn lọc chương trình dù nó không được phát minh vì mục đích đó. Cáp truyền hình xuẩt hiện cuối thập niên 40 như là một cách thu chương trình tốt hơn cho các khu vực xa đài phát. Khán giả có máy thu bị che khuất bởi núi đồi, dựng các ăng-ten công cộng nối với hệ thống cáp địa phương. Không một ai lúc đó để ý rằng khi họ nhận được các truyền hình có chất lượng cao sẽ trả tiền để xây dựng hệ thống cáp giúp cho họ có thể xem những kênh chỉ toàn video ca nhạc hoặc toàn tin tức và dự báo thời thiết 24 tiếng đồng hồ một ngày.
Khi số đài truyền hình tăng lên từ 3 hoặc 5 lên đến 24 hay 36, việc biên tập các chương trình phải thay đổi hẳn. Giả sử bạn đang phụ trách kênh 30 và bạn sẽ không thu hút khán giả nếu bạn chỉ bắt chước chương trình của các kênh kia.
Thay vào đó, các nhà biên tập chương trình cho kênh cáp buộc phải nghĩ đến chuyện tạo ra nhưng chương trình đặc biệt của riêng kênh mình. Giống như các tờ tin thư hay tạp chí chuyên đề, những kênh mới này thu hút một số khán giả riêng bằng cách hướng đến các sở thích đặc biệt của họ. Điều này khác với cách biên tập chương trình chung cho đại chúng. Tuy nhiên chi phí sản xuất và số lượng kênh có hạn sẽ khống chế số chương trình truyền hình loại này.
Mặc dù phí tổn ấn hành một cuốn sách ít hơn nhiều so với một số chương trình truyền hình, nhưng vẫn còn quá đắt só với nó phát hành nó bằng điện tử. Để xuất bản một cuốn sách, nhà xuất bản phải đồng ý trả chi phí ban đầu cho việc ấn loát, phát hành và tiếp thị. Xa lộ thông tin sẽ tạo môi trường mới thênh thang không qua các khâu rào chắn này. Hiên nay, mạng Internet là phương tiện xuất bản lớn nhất chưa từng bao giờ có.
Bản tin công cộng của mạng Internet đã chứng minh thay đổi sẽ xảy ra khi mọi người có thể tiếp cận được với mạng và đều có thể gởi các mẫu tin, hình ảnh hay các phần mềm do họ sáng tạo ra. Chính bản tin công cộng của mang Internet đã góp phần vào việc phổ thông háo mạng Imternet. Để phát hiện thông tin của mình, tất cả những gì bạn phải làm chỉ là đánh máy nội dung suy nghĩ của bạn và gởi nó vào một nơi nào đó trên mạng. Điều đó có nghĩa là sẽ có nhiều rác rưởi và thậm chí cả vi trùng trong đó nữa. Một bản tin tiêu biểu thường chỉ dài một hoặc hai trang.
Một mẫu tin phát trên bản tin công cộng hoặc đưa vào danh mục thư từ của mạng sẽ có thể tới hàng triệu người và lôi cuốn họ tham gia tranh luận, bàn bạc, hoặc cũng có thể nó vẫn nằm trên đó nhưng không gây một tác động nào. Lý do khiền mọi người tự nguyện chấp nhận điều kiện thứ hai đó là và khoản phí phân phối rất thấp. Dải thông của mạng rất rộng, cộng với các yếu tố khác khiến phí phát hành thấp đến mức người ta không e ngại gì về khoản phí khi gởi đi một bản tin. Nếu có chăng thì đó là do bạn e ngại rằng bản tin của mình không được ai quan tâm tới. Ngược lại, nếu bản tin của bạn là bản tin mang tính phổ biến, được nhiều người đọc và có thể họ sẽ chuyển tiếp dưới hình thức e-mail cho bạn bè cùng đọc và góp ý, bình luận.
Thông tin qua các bản tin của Internet cực kỳ nhanh chóng và rất tiết kiệm. Liên lạc bằng thư tín hay điện thoại khá tốt để nói chuyện tay đôi nhưng sẽ rất đắt nếu thảo luận nhóm. Trung bình, để in và gởi một bức thư tốn 1 đô la và cũng khoảng giá đó cho một cuộc đàm đường dài. Và để thực hiện một cuộc điện đàm như thế, bạn phải biết số đầy đủ và phải sắp xếp giờ phù hợp. Vì vậy việc tiếp xúc, dù chỉ một nhóm nhỏ, cũng mất thì giờ và sức lực đáng kể. trên bảng tin công cộng của mạng Internet, tất cả những gì mà bạn phải làm là chỉ đánh mẩu tin đó một lần thôi nhưng bạn có thể gởi cho rất nhiều người.
Các bản tin công cộng trên mạng Internet bao gồm mọi loại đề tài. Có thể có ai đó gởi một vài mẫu tin không nghiêm túc lắm. Cũng có thể có một vài người chuyển những mẫu tin với nội dung tuế cho ai đó trong danh sách của mạng. Nếu đó là những chuyện hài có nội dung tốt, nó sẽ chuyển tiếp đến người khác như là thư điện tử. Vào cuối năm 1994, một mẩu tin giật gân về việc Microsoft sắp mua đứt một nhà thiên chúa giáo. Hàng ngàn bản sao mẩu tin đó được lan truyền trong Microsoft bằng hệ thống e-mail của chúng tôi. Tôi đã nhận hơn 20 mẩu tin buồn cười như vậy từ bạn bè và đồng nghiệp trong và ngoài công ty.
Cũng có khá nhiều ví dụ đứng đắn hơn về việc dùng mạng để động viên những người có cùng sở thích chia sẻ một mối quan tâm và quyền lợi chung.
Thông tin phát hiện mạng được tập chung lại theo từng đề tài. Mỗi bản tin công cộng hoặc nhóm tin tức nào đó có tên gọi, và bất cứ ai quan tâm tới nó đều có thể "dán" bản tin của mình lên đó. Còn những ai chỉ quan tâm đến một loại tin mình thích có thể lục tìm trong một danh mục có sẵn trên đó. Nếu bạn muốn giao lưu về những hiện tượng khác thường bạn có thể tham gia nhóm tin alt.paranormal. Nếu bạn muốn thảo luận về những sự việc mà những người khác không tin, bạn cũng có thể gia nhập sci.skeptic.
Hoặc bạn có thể liên lạc với copernicus bbn.com và xem hệ thống nối mạng trường học Quốc gia Testbed về một bộ sưu tập các dự án bài học do trường mẫu giáo thông qua viên lớp 12 thực hiện. Gần như bất kỳ chủ đề nào bạn nêu ra đều có thể tìm được nơi phù hợp nhất nó trên hệ thống mạng.
Chúng ta đã chứng kiến phát minh của Gutenberg đã sản sinh ra ngành xuất bản đại chúng, nhưng văn học cuối cùng đã thúc đẩy rất mạnh khả năng liên lạc riêng lẻ từng người từng với nhau. Truyền thông điện tử phát triển theo nhiều hướng khác. Nó khởi đầu như là một thư tín điện tử, một phương tiện để các nhóm nhờ có thể liên lạc được với nhau. Còn bây giờ hàng triệu người đang tận dụng mạng phân phối thông tin với giá rất rẻ để liên lạc với nhau trên phạm vi hết sức rộng rãi vô vàn hình thức khác nhau.
Mạng Internet có khả năng tiềm tàng vô cùng lớn lao, nhưng điều quan trọng là so với uy tín không ngừng tăng lên của nó thì những gì người ta mong đợi ở nó, nó chưa thực hiện được nhiều. Tổng số người sử dụng mạng Internet và sử dụng hệ thống trực tuyến phục vụ cho thương mại như Prodigy, CompuServe và America Online vẫn còn là một tỷ lệ rất nhỏ so với dân số. Các cuộc khảo sát chỉ ra rằng chỉ có khoảng 50 % những người sử dụng máy điện toán cá nhân ở Mỹ có gắn modem nối mạng, và khoảng dưới 10 % của số người đó có thuê bao dịch vụ trực tuyến.
Nhiều người thuê bao chưa đầy một năm đã hủy hợp đồng. Hiện nay, chúng ta cần một khoản đầu tư lớn để phát triển nội dung của mạng trực tuyến nhằm nâng số người sử dụng từ 10 % lên 50 %, thậm chí 90 %, và tôi tin rằng chúng ta sẽ đạt được tỷ lệ đó. Một phần của lý do vì sao chưa huy động được nguồn đầu tư là vì cơ chế đơn giản để cho tác giả và các nhà xuất bản thu phí từ những người sử dụng hay phí các nhà quảng cáo phải trả chỉ vừa mới hình thành.
Các cơ sở dịch vụ hệ trực tuyến có thu phí nhưng họ phải trả tiền bản quyền tác giả cho những cung cấp thông tin chỉ ở khoảng từ 10 cho đến 30 % số tiền mà người sử dụng đã trả cho họ. Cho nên kết quả thu nhập của người cung cấp thông tin không đủ mạnh để khuyến khích họ tạo ra những thông tin trực tuyến hấp dẫn hơn.
Trong vài năm tới, các cơ sở dịch vụ trực tuyến sẽ phát triển và sẽ giải quyết những vấn đề này để khuyến khích những người cung cấp thông tin cung cấp thêm nhiều thông tin hơn nữa. Sẽ có nhiều phương pháp thanh toán khác nhau cho người thuê bao, từng tháng, từng giờ, hay từng thông tin một, và các khoản phí quảng cáo sẽ được áp dụng như vậy nhằm làm cho những người cung cấp thông tin có được khoản thu nhập xứng đáng hơn. Khi thực hiện được điều đó, một hình thức thông tin đại chúng mới sẽ xuất hiện. Quá trình đó có thể mất vài năm, và một thế hệ mới về kĩ thuật mạng, như kĩ thuật ISDN và modem cáp, sẽ ra đời dưới hình thức này hay hình thức khác. Khi điều đó được thực hiện, nó sẽ mở ra nhiều cơ hội to lớn cho tác giả, biên tập viên, giám đốc - cho tất cả những nhà sáng tạo ra tài sản trí tuệ.
Khi hình thức thông tin đại chúng mới ra đời, nội dung đầu tiên của nó sẽ lấy từ các nguồn thông tin khác. Nhưng để tận dụng lợi thế của khả năng thông tin điện tử, nội dung sẽ được xếp theo từng tác giả, từng đề tài. Từ trước đến nay, hầu hết nội dung trực tuyến đều được thu gom từ các nguồn khác. Các nhà xuất bản sách báo, tạp chí lấy những bài viết và đã đăng trên báo chí để nhét lên mạng, và thường loại bỏ các hình ảnh, biểu đồ kèm theo. Những bản tin công cộng và thư điện tử khá hấp dẫn nhưng thực sự chưa thể hiện được vô vàn hình ảnh phong phú trong cuộc sống cả chúng ta. Nội dung trên các đài dịch vụ trực tuyến cần phải có thêm hình ảnh, biểu đồ và liên kết với những thông tin có liên quan.
Khi thông tin liên lạc trở nên nhanh hơn và khả năng thương mại rõ rệt hơn, nhiều phương tiện audio (tiếng nói) và video (hình ảnh) cần được thêm vào các tài liệu điện tử.
Sự phát triển của đĩa CD-ROM đã cung cấp cho chúng ta một số bài học có thể áp dụng vào việc tạo ra nội dung cho phương tiện trực tuyến. Các tựa đề đa thông tin trên đĩa CD-ROM có thể kết hợp thêm nhiều loại thông tin khác nhau - nội dung, đồ họa, hình ảnh, phim hoạt hình, nhạc, và phim video - vào trong một loại thông tin. Phần lớn giá trị của những tựa đề hiện có nằm ở nghĩa "đa" chứ không phải ở nghĩa "phương tiện". Chúng là những thể hiện số lượng gần đúng nhất là về thể loại tài liệu phong phú trong tương lai.
Nhạc và các dạng âm thanh khác trên đĩa CD-ROM nghe có rõ nhưng chưa tốt bằng nhạc trên đĩa CD. Bạn có thể lưu trữ âm thanh có chất lượng của đĩa CD trên đĩa CD-ROM nhưng định dạng mà nó sử dụng lại rất cồng kềnh, cho nên nếu bạn cho lưu trữ quá nhiều âm thanh có chất lượng của đĩa CD, bạn sẽ không còn chỗ cho dữ liệu, đồ họa, và các dạng thông tin khác.
Các phim video trên đĩa CD-ROM cũng cần được cải tiến. Nếu bạn so sánh chất lượng của hình ảnh mà một máy điện toán cá nhân có thể trình bày với hình ảnh có kích thước bằng cỡ con tem thư cách đây vài năm, sự tiến bộ quả là khá ngạc nhiên. Những người sử máy tính trước đây khi lần đầu xem phim video trên màn hình máy tính đã phải giật mình. Chất lượng hình ảnh đã có thể tương đương với truyền hình trong thập niên 50. Nhưng dù vậy kích thước và chất lượng sẽ được cải tiến với những bộ xử lý cực nhanh và kĩ thuật nén thông tin tốt hơn. Cuối cùng hình ảnh trên máy vi tính sẽ tốt hơn trên truyền hình hiện nay nhiều.
Kĩ thuật về CD-ROM có khả năng tạo ra một dạng các ứng dụng mới. Các danh mục phục vụ mua sắm, tham quan bảo tàng, và sách giáo khoa, đang được tái xuất bản trên dạng mới khá hấp dẫn này. Tất cả các loại đề tài được đề cập tới. Kĩ thuật và sự cạnh tranh sẽ khiến cho việc cải tạo chất lượng các tựa đề diễn ra rất nhanh. Đĩa CD-ROM sẽ được thay thế bằng một loại đĩa mới công xuất cao, về hình thức nhìn giống như một đĩa CD hiện nay nhưng nó chứa một loại dữ liệu lớn hơn gấp 10 lần. Nhờ có công suất lớn như vậy, đĩa CD mở rộng sẽ có khả năng chứa phim video dạng số dài hơn thời gian 2 giờ như hiện nay, có nghĩa nó có thể chứa chọn bộ phim. Chất lượng hình ảnh và âm thanh sẽ tốt hơn rất nhiều so hình ảnh trên máy thu hình hiện nay, và các thế hệ mới của các chíp đồ họa sẽ giúp cho các tựa đề đa phương tiện có được chất lượng đặc biệt của Hollywood theo sự điều chỉnh giao lưu của người sử dụng.
Đa phương tiện trên CD-ROM ngày nay rất phổ biến bởi vì nó tạo cho người sử dụng khả năng giao tiếp hơn là mô phọng kĩ thuật truyền hình. Yêu cầu thương mại về tính tương tác đã được thể hiện ở tính phổ biến của những trò chơi trên CD-ROM mang tính đại chúng như là Broderberund's Myst và Virgin Interactive Entertaiment's Seventh Guest, đó là những truyện trinh thám, một tiểu thuyết mang tính tổng hợp của truyện kể kết hợp với hàng loạt những câu đố giúp người chơi có thể tiến hành điều tra một sự huyền bí, thu thập chìa khóa để tìm ra sự kiện bằng bất kỳ cách nào.
Sự thành công của các trò chơi này đã khuyến khích các tác giả bắt đầu viết về tiểu thuyết và phim ảnh có khả năng giao tiếp, trong đó các tuyến nhân vật được hình thành và các tiêu đề trung của bối cảnh câu truyện phác thảo, rồi độc giả (cùng làm người tham gia trò chơi) đưa ra những quyết định làm thay đổi phần kết của truyện kể. Cho đến nay chưa có ai gợi ý rằng một cuốn sách hay một phim truyện phải tạo điệu kiện cho độc giả hay khán giả có quyền quyết định phần kết của phim hay sách. Một câu truyện hay làm cho bạn muốn ngồi thêm vài tiếng đồng hồ để tận hưởng sự thụ cảm tuyệt vời mà nó mang lại. Tôi không muốn chọn đoạn kết cho cuốn The Great Gatsby hay La Dolce Vita, vì đã có F. Scott Fitzgerald và Federico Fellini làm thay tôi.
@by txiuqw4