Cảm thụ mang lại từ một tiểu thuyết lớn mỏng manh, tản mạn và có thể bị "cụt hứng" hoàn toàn nếu có một sự giao tiếp quá "nặng tay". Bạn không thể đồng thời điều khiển bố cục mà không phát huy sự tưởng tượng của mình về nó. Tiểu thuyết giao tiếp đối với tiểu thuyết bình thường cũng giống như thi ca với kịch thơ: có những tương đồng và dị biệt.
Sẽ có những truyện kể và trò chơi tương tác với người sử dụng ở trên mạng thông tin. Những ứng dụng này có thể áp dụng trên các CD-ROM nhưng phải mất một thời giam nữa chuẩn bị viết các phần mềm sao cho người sử dụng không tốn nhiều thì giờ khi đọc nghĩa CD-ROM trên mạng thông tin. Nguyên nhân là do, như tôi đã trình bày ở phần trước, dải thông, hay là tốc độ truyền các bit từ CD-ROM sang máy tính, lớn hơn dải thông của mạng điện thoại hiện hành rât nhiều lần. Trong tương lai, mạng sẽ thỏa mãn yêu cầu này và có thể vượt qua tốc độ của CD-ROM. Và khi điều này xảy ra, nội dung của hai dạng thông tin sẽ như nhau. Nhưng phải mất vài năm bởi vì cùng lúc công nghệ CD-ROM cũng đang được cải tiến. Đồng thời, tốc độ của bít sẽ phân biệt hai dạng thông tin này để cho chúng vẫn là hai dạng công nghệ riêng biệt.
Kĩ thuật về đĩa CD-ROM và các dịch vụ trực tuyến đã được cải tiến rất nhiều, nhưng hiện còn rất ít người sử dụng máy điện toán tạo được tài liệu đa phương tiện.
Chúng ta còn phải cố gắng nhiều. Hiện có hàng triệu người sử dụng máy quay video để quay những gì họ thích. Tuy nhiều, việc biên tập một phim video đòi hỏi có trình độ tay nghề và thiết bị rất đắt tiền. Vấn đề này rồi sẽ thay đổi. Những tiến bộ trong bộ xử lý từ của máy điện toán và các phần mềm cho máy in để bàn đã là những công cụ nhà nghề có chất lượng trong việc tạo ra những bản in tài liệu khá rẻ tiền cho hàng triệu người. Phần mềm cho máy in để bàn đã tiến bộ đến mức nhiều tạp chí và nhật báo đã được in trên các phương tiện đó. Phần mềm của máy điện toán cá nhân để biên tập phim và tạo các hình ảnh đặc biệt rồi đây cũng phổ biến như là phần mềm của máy in để bàn vậy. đến lúc đó sự phân biệt giữa những nhà quay phim nhà nghề với những người quay phim nghiệp dư tuỳ thuộc vào tài năng hơn là vào công cụ.
Georges Melies là người đầu tiên đã tạo ra một trong những kĩ xảo đặt biệt về phim ảnh vào năm 1899 khi ông biến một phụ nữ thành những bộ lông thú trên màn hình trong phim The Conjurer, và những người làm phim bắt đầu áp dụng thủ thuật trong việc sản xuất phim ảnh kể từ đó. Gần đây, kĩ thuật đó đã được cải tiến rất nhiều thông qua việc ứng dụng kĩ thuật số vào việc tạo hình ảnh. Đầu tiên, một bức ảnh được chuyển thành thông tin nhị phân như tôi đã đề cập, những ứng dụng phần mềm có khả năng thao tác một cách dễ dàng. Sau đó, thông tin dạng số được điều chỉnh và cuối cùng chuyển trở lại hình thức một tấm ảnh. Những điều chỉnh đó hầu như không thể phát hiện, và tạo nên rồi những kết quả có thể gây chú ý. Phần mềm điện toán đã tạo dựng lại cuộc sống của loài Khủng long ở công viên Jurassic, bầy linh dương trong phim The Lion King, và hiệu quả của những hoạt hình trong phim The Mask. Theo quy luật của Moore, khi gia tăng tốc độ phần cứng, phần mềm trở nên rất phức tạp, và kết quả hầu như không có giới hạn. Hollywood sẽ tiếp tục phát triển nghệ thuật tới đỉnh cao và liên tục tạo ra những hiệu quả mới gây ngạc nhiên nhiều hơn.
Chương trình phần mềm rồi đây sẽ tạo ra những cảnh trông giống như cảnh thật được quay trong phim. Khán giả xem phim Forrest Gump có thể nhận ra các cảnh về tổng thống Kennedy, Johnson và Nixon đều là những cảnh được tạo dựng. Mọi người đều biết rằng Tom Hanks rõ ràng là không có mặt trong những cảnh trên ngoài thực tế. Thật vô cùng khó khăn trong quá trình xử lý kĩ thuật số để cắt bỏ đôi chân còn nguyên vẹn của Gary Sinise trong vai một người cụt chân. Những hình ảnh tổng hợp và kĩ thuật biên tập phim theo dạng số đang được sử dụng để giúp cho diễn viên đóng phim an toàn hơn. Chẳng bao lâu nữa, bạn có thể sử dụng một máy điện toán cá nhân tiêu chuẩn để điều khiển phần mềm tạo ra những hiệu quả mong muốn. Việc sử dụng máy điện toán cá nhân và phần mềm biên tập phim để tạo ra những hình ảnh phức tạp hơn, những tài liệu hình ảnh giả, hoặc thay đổi hình ảnh một cách tinh vi đến độ không sao phát hiện được. Và một khi kĩ thuật tổng hợp này ngày càng rẻ hơn thì sẽ có thêm nhiều người sử dụng. Nếu chúng ta có thể đưa loài khủng long đầu to chân nhỏ ở vùng Bắc Mỹ trở lại cuộc sống, thì chắc Elvis còn lâu mới theo kịp.
Thậm chí đối với những người không bao giờ muốn trở thành một C.B. DeMille khác hay một Lina Wertmuller, cũng sẽ thường xuyên sử dụng các phương tiện đa thông tin vào trong những tài liệu mà họ sáng tạo hàng ngày. Một người có thể bắt đầu bằng việc đánh máy, viết tay hoặc nhắn nhau bằng giọng nói qua mẩu tin điện tử ''Việc chúng mình quyết định ăn trưa hôm nay trong công viên coi bộ không thành. Hãy xem lại bản tin dự báo thời tiết đi.'' Để gửi một tin nhắn có nhiều lượng thông tin, người ấy chỉ cần đưa con trỏ vào một biểu tượng của đài thiên văn trên truyền hình địa phương, và lôi nó ngang qua màn hình và đưa vào biểu tượng vào bên trong tài liệu của anh ta. Khi bạn của anh ấy nhận được mẩu tin, anh ấy có thể nhìn thấy bản dự báo thời tiết ngay trên màn hình của anh ấy, một sự liên lạc trông có vẻ nhà nghề lắm.
Học sinh có thể tạo những quyển album và những cuốn phim riêng của chúng, và có thể chuyển cho bạn bè và bà con thông qua xa lộ thông tin. Những lúc rảnh rỗi, tôi thích làm những thiệp chúc mừng và thiệp đặc biệt. Chẳng hạn, nếu tôi làm một thiệp chúc mừng cho em gái tôi, để thêm phần thú vị, đôi khi tôi bổ xung vào đó những bức ảnh để gợi nhắc cô ta về những sự kiện thú vị khó tin của thời thơ ấu. Trong tương lai, tôi có thể đưa vào nó những trích đoạn phim mà tôi đã chọn ra chỉ trong một vài phút. Việc tạo một quyển "album" tương tác về hình ảnh, phim video, hay những cuộc đàm thoại là công việc hết sức đơn giản. Các cơ sở kinh doanh dù lớn hay nhỏ, cũng sẽ sử dụng các phương tiện đa thông tin. Những người yêu nhau sẽ sử dụng các thao tác đặc biệt để tổng hợp một bức thu bao gồm một trích đoạn phim từ một bộ phim cũ, và một bài hát ưa thích nhất để làm quà cho nhau nhân ngày Tình Yêu.
Khi mức độ trung thực trong kĩ thuật âm thanh và nghe nhìn được cải tiến, tính thực tiễn về mọi phương diện sẽ được mô phọng cho thật trung thực hơn. "Thực tế ảnh ảo" - virtual reality này, hay còn gọi là VR, sẽ cho phép chúng ta "đến" được những nơi và "làm" những điều chúng ta chưa bao giờ đến và làm.
Những thiết bị mô phỏng đối với phi cơ, xe hơi đua, và phi thuyền đã đáp ứng được thị hiếu về thực tế ảo. Một số hành trình ở Disneyland là những hành trình đã được mô phọng. Những phương tiện phần mềm mô phỏng, như Microsoft Flight Simulator là một trong số những trò chơi phổ biến nhất được tạo ra cho máy điện toán cá nhân, nhưng để thành công, bạn hãy sử dụng trí tưởng tượng của bạn. Những thiết bị hay mô phỏng trị giá nhiều triệu đô la ở nhiều công ty như là Boeing đã tạo cho bạn một cảm giác thực tốt hơn nhiều. Nhìn bề ngoài, chúng có dạng hình hộp, một sinh vật có chân cơ khí như chúng ta thấy trong nhà trong bộ phim Star Wars. Bên trong màn hình video buồng lái cung cấp những dữ liệu phức tạp. Những thiết bị bay và bảo quản được nối vào một máy điện toán để mô phỏng những đặc tính của chuyến bay, kể cả trường hợp báo động, với một mức độ chính xác mà nhiều phi công công nhận là tuyệt vời.
Một vài người bạn mà tôi đã có dịp "bay"' trên một chiếc máy bay 747 mô phỏng cách nay vài năm. Bạn ngồi vào bàn điều khiển trong buồng lái giống hệt như bàn điều khiển của chiếc máy bay thật. Bên ngoài các cửa sổ, bạn nhìn thấy những hình ảnh video màu do máy điện toán tạo ra. Khi bạn cho máy bay mô phỏng này "cất cánh", bạn nhìn thấy phi trường và cảnh vật xung quanh giống hệt như cảnh thật bên ngoài. Trên phi trường mô phỏng của máy bay Boeing, bạn nhìn thấy một xe chở nhiên liệu trên phi đạo và xa xa là dãy núi Mount Rainier. Bạn nghe thấy tiếng rít của không khí trên đôi cánh, tiếng động của các bánh xe gập lạ, nhưng thật ra thì đâu có thực. Tạo được cảnh thực tế ảo nói trên là nhờ sáu hệ thống thủy lực nằm trong các trụ đứng của máy bay mô phỏng làm nghiêng và rung lắc buồng lái. Thật là tuyệt vời.
Mục đích tạo ra những máy bay mô phọng này là để cho phi công có dịp tập luyện, kinh nghiệm xử lý khi gặp sự cố. Khi tôi đang sử dụng thiết bị mô phỏng này, bạn tôi muốn tạo cho tôi sự ngạc nhiên bằng cách cho một phi cơ nhờ bay qua. Trong khi tôi đang ngồi trên chiếc ghế phi công, hình ảnh một chiếc máy bay Cessa bỗng xuất hiện. Vì chưa chuẩn bị kịp, nên tôi đã đâm thẳng vào nó.
Nhiều công ty, từ những công ty khổng lồ thuộc ngành giải trí đến những công ty nhỏ mới vừa thành lập, đang dự định đưa những chuyến du ngoạn bằng thiết bị mô phỏng với quy mô nhờ vào các trung tâm thương mại và các địa điểm công cộng trong thành phố. Khi giá thành của công nghệ này giảm xuống, những thiết bị mô phỏng phục vụ giải trí sẽ trở nên phổ biến như các rạp chiếu bóng hiện nay vậy. Và cũng chẳng bao lâu nữa, bạn cũng có thể có các thiết bị mô phỏng có chất lượng cao ngay trong phòng khách của nhà bạn.
Bạn có muốn khám phá bề mặt Sao hỏa không? Sẽ an toàn hơn nhiều nếu bạn sử dụng thiết bị thực tế ảo. Còn việc xem xét hệ thống thần kinh của con người thì sao? Một bác sĩ khoa tim có thể "bơi" trong trái tim của một bệnh nhân để kiểm tra nó theo cách mà không một dụng y cụ thông thường nào có thể thực hiện được. Một nhà phẫu thuật có thể thực hiện một ca mổ theo phương pháp thực tế ảo nhiều lần, kể cả những tai biến mô phỏng mà không cần phải chạm dao mổ vào người bệnh nhân thật sự. Hay bạn có thể sử dụng phương pháp thực tế ảo để dò tìm bất cứ một thiết bị nào do bạn tự thiết kế lấy.
Để cho thiết bị thực tế ảo có thể hoạt động được, cần phải có hai công nghệ khác nhau, đó là phần mềm để tạo cảnh vật và làm cho nó thích ứng với thông tin mới, và các thiết bị giúp máy điện toán truyền thông tin vào phong cảnh. Phần mềm điện toán sẽ hình dung ra cảnh để mô tả dáng vẻ, âm thanh, và cảm giác về thế giới nhân tạo cho tới những chi tiết nhỏ nhất. Điều đó thoạt nghe có vẻ rất khó khăn, nhưng trên thực tế đó lại là phần dễ nhất. Hiện nay, chúng ta đã có thể viết phần mềm cho thực tế ảo, nhưng chúng ta cần các loại điện toán mạnh, có khả năng làm cho người ta tin tưởng hơn. Mặc dù vậy, với trình độ kĩ thuật hiện nay, những loại máy cực mạnh như vậy sẽ sớm ra đời. Khó khăn thật sự về thực tế ảo là làm sao có được thông tin tốt để đủ sức thuyết phục người sử dụng.
Thính giác là giác quan dễ bị đánh lừa nhất, bạn chỉ đeo cặp ống nghe vào là xong. Trong cuộc sống thực, mức độ thính của hai lỗ tai có phần hơi khác do vị trí và hướng của chúng. Bạn sử dụng sự khác biệt đó để xác định âm thanh xuất phát từ đâu. Phần mềm có thể tái tạo việc này qua việc tính toán đối với một âm thanh định trước mà lỗ tai sẽ nghe. Và kĩ thuật này đã thành công một cách đáng ngạc nhiên. Bạn hãy đeo vào một cặp ống nghe nối với một máy điện toán và bạn sẽ nghe tiếng thì thầm bên tai trái hoặc tiếng những bước chân đang đi đến từ phía sau bạn.
Còn đối với cặp mắt của bạn thì khó hơn, nhưng thị giác vẫn còn khá dễ để mô phỏng. Thiết bị thực tế ảo bao giờ cũng đi kèm với một bộ kính đặc biệt với những thấu kính chiếu vào mỗi con mắt màn hình của máy điện toán nhỏ riêng của nó. Một thiết bị theo dõi đều giúp cho máy điện toán hình dung ra hướng đầu bạn đang quay để cho máy điện toán có thể tổng hợp những gì bạn đang thấy. Quay đầu về bên phải, cặp kính đặc biệt kia sẽ chiếu phong cảnh xa về phía tay phải. Khi bạn ngước mặt lên, cặp kính chỉ rõ trần nhà hay bầu trời. Hiện nay loại kính thực tế ảo còn khá nặng, giá quá đắt và cũng chưa đủ độ phân giải. Những hệ thống máy điện toán điều khiển chúng vẫn còn quá chậm. Nếu bạn quay đầu nhanh, phong cảnh không theo kịp. Điều này làm cho bạn lẫn lộn và mất phương hướng, và sau một thời gian ngắn nhiều người bị đau đầu. Chúng ta có tin mừng là kích cỡ, tốc độ, trọng lượng, cho tới giá thành sẽ là những điều mà các quy trình công nghệ theo luật của Moore sẽ sớm khắc phục được.
Nhưng đối với các giác quan khác thì vấn đề trở nên khó hơn nhiều, bởi vì người ta chưa tìm được phương pháp nào để cho máy điện toán có thể tiếp cận được với mũi, lưỡi hay da của bạn. Trường hợp để có tiếp xúc được thì ý kiến chung là phải làm sao bộ quần áo liền thân bạn tiếp xúc với những thiết bị cảm biến li ti buộc các thiết bị phản hồi tiếp xúc với da của toàn cơ thể bạn. Tôi không nghĩ những bộ đồ liền thân đó sẽ trở nên phổ biến, nhưng đó là những ý kiến khả thi.
Trên mỗi inch của bộ giám sát màu của máy điện toán tiêu biểu có từ 72 cho đến 120 điểm màu li ti mà thuật ngữ điện toán gọi là pixel, tức điểm ảnh, và nếu tính tổng số có thể có từ 300.000 cho tới một triệu điểm. Một bộ quần áo liền thân sẽ có thể được gắn những điểm cảm biến li ti, mỗi điểm theo dõi một khu vực nhỏ, được gọi là tactel. Nếu bộ đồ có đủ những tactel này và nếu điều khiển được chúng thì bất kì cảm giác va chạm nào có thể được sao lại. Nếu nhiều tactel hoạt động ở cùng độ sâu thì kết quả làm cho người ta có cảm giác bề mặt của chúng nhẵn, trơn hơn, giống như da ta chạm một tấm kim loại được đánh bóng vậy. Ngược lại, nếu chúng hoạt động ở những độ sâu khác nhau khiến người ta có cảm giác bề mặt bị gồ ghề.
Một bộ quần áo liền thân cần từ 1 triệu tới 10 triệu tactel, tùy thuộc vào các lớp sâu mà 1 tactel phải tiếp xúc. Những nghiên cứu về da con người chỉ ra rằng một bộ đồ liền thân sẽ cần khoảng 100 tactel trên mỗi inch, đối với các đầu ngón tay, với môi, và những chỗ nhạy cảm khác, số lượng tactel phải nhiều hơn. Thật ra, da người nói chung có độ phân giải tiếp xúc thấp. Tôi cho rằng một thiết bị mô phọng có chất lượng cao chỉ cần khoảng 256 tactel là đủ. Đó cũng là số lượng màu sắc mà hầu hết các màn hình máy điện toán sử dụng cho mỗi pixel.
Tổng số thông tin mà một máy điện toán cần để tính toán các giác quan vào trong mỗi tactel ở khoảng từ 1 cho tới 10 lần số lượng cần cho màn hình video chiếu trên máy điện toán cá nhân. Điều này chứng tỏ khả năng của máy điện toán không thành vấn đề. Tôi tin rằng một khi có một ai đó tạo được một bộ đồ tactel đầu tiên thì tức khắc sẽ có nhiều máy điện toán cá nhân đáp ứng được yêu cầu này.
Thoạt nghe giống như những truyện trong khoa học viễn tưởng vậy phải không nào? Thực ra những mô tả hay nhất về thực tế ảo xuất phát từ cái được gọi là khoa học viễn tưởng điều khiển giống như những chuyện do William Gibson viết ra vậy. Thay vì sử dụng bộ quần áo liền thân, một vài nhân vật trong truyện của ông được cắm một dây cáp nối trực tiếp từ máy điện toán thẳng sang hệ thống thần kinh trung ương. Cần phải có thời gian để cho các nhà khoa học nghĩ ra cách thực hiện, và phải mất một thời gian dài sau khi xa lộ đã ra đời, ý nghĩ đó mới hình thành được. Một số người tỏ ra rất lo sợ khi nghe về khái niệm này, số khác tỏ ra rất tò mò thích thú. Mục đích đầu tiên của kĩ thuật này là để phục vụ cho những người khuyết tật.
Điều không thể tránh là sẽ có nhiều sự suy đoán và cả những mong muốn về giới tính ảo nhiều hơn so với bất kì áp dụng nào khác. Hoạt động tình dục rõ ràng là một đề tài xưa như trái đất. Người ta cũng chẳng mất nhiều thì giờ để hình dung ra cách ứng dụng công nghệ mới vào đề tài cũ rích như vậy. Những con người của thời đại Babyl đã để lại biết bao áng thơ gợi tình được viết bằng hình tượng trên những chiếc bàn bằng đất sét, và hình ảnh khiêu dâm là công việc đầu tiên ngành in ấn áp dụng. Khi đầu máy video trở thành những thiết bị phổ biến trong gia đình, đã dấy lên phong trào buôn bán và cho thuê băng khiêu dâm chạy bằng tia X, và hiện nay là đĩa CD-ROM. Hệ thống bản tin công cộng trực tuyến trên mạng Internet, và hệ thống Minitel của Pháp đã nhận được biết bao đơn thuê các dịch vụ có xu hướng tình dục. Nếu chiều hướng lịch sử giữ vai trò như một hướng dẫn viên thì một thị trường lớn về tài liệu thực tế ảo sẽ là hoạt động tình dục ảo. Nhưng xét về phương diện lịch sử, một lần nữa chứng minh rằng, trong khi những thị trường này phát triển thì nhất định nguồn tài liệu phục vụ cho nó sẽ ngày càng ít đi.
Trí tưởng tượng sẽ là một yếu tố then chốt của tất cả mọi ứng dụng mới. Và không chỉ có việc tái tạo lại thế giới thực tại. Những bộ phim vĩ đại vẫn nhiều hơn những phim chỉ đơn giản bê nguyên xi các sự kiện đưa lên màn hình.
Liệu thập niên tới có mang lại cho chúng ta những Grifith và những Einstein trong ngành thông tin đa phương tiện? Có rất nhiều lý do để chúng ta nghĩ rằng những vĩ nhân đó đang hòa mình với nền côn nghệ đang sôi động hiện nay để xem nó có thể làm được những gì và những gì mà các bậc vĩ nhân này phải làm cho nó.
Tôi hi vọng rằng các cuộc thử nghiệm về truyền thông đa phương tiện sẽ tiếp tục trong thập niên tới, và thập niên sau đó và sẽ còn tiếp tục không ngừng. Trước tiên, các bộ phận hợp thành thông tin đa phương tiện xuất hiện trong tài liệu trên xa lộ thông tin sẽ là một sự tổng hợp các phương tiện thông tin đại chúng hiện có, một cách làm phong phú sự truyền thông liên lạc. Nhưng rồi theo thời gian, chúng ta sẽ tạo ra những hình thức mới vượt xa những gì chúng ta biết hiện nay. Sự mở rộng biểu mẫu của khả năng tính của máy điện toán sẽ tiếp tục thay đổi các công cụ và mở ra những khả năng mới vượt xa những gì chúng ta biết hiện nay. Tài năng và sáng tạo luôn luôn định hình sự tiến bộ theo những cách chúng ta không sao đoán trước được.
Đã có bao nhiêu người có đủ tài năng để trở thành một Steven Spielberg, một Jane Austin, hay một Albert Einstein? Chúng ta biết trong chúng ta ít ra cũng có được đủ người có tài năng sánh với những tên tuổi trên đây, và cũng có thể là tất cả chúng ta. Dù vậy, tôi vẫn vững tin rằng trong chúng ta có rất nhiều người tài mà ước vọng và tiềm năng của họ bị cản trở bởi tài chánh, phương tiện và công cụ. Kĩ thuật mới sẽ tạo ra phương tiện mới để chúng ta thể hiện bản thân mình. Xa lộ thông tin sẽ mở ra những cơ hội chưa bao giờ chúng ta ước mơ tới cho các ngành khoa học và nghệ thuật cho một hệ thống mới của những thiên tài.
@by txiuqw4