sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 5

Người ta thường vì có người thân qua đời mà càng dốc lòng tin Thượng đế, do đó, sau khi chồng qua đời, bà cụ tham Buddenbrook thường nói đến những lời sặc mùi đạo, trước đây ít khi nghe ở miệng cụ, cũng là điều không ai lấy làm lạ.

Nhưng chẳng bao lâu, người ta thấy rằng đó không phải là những hiện tượng tạm thời. Trước khi chồng qua đời mấy năm, bà cụ thấy mình ngày càng già yếu nên dần dần đã thông cảm với chồng về lòng ngoan đạo; bây giờ bà cụ càng muốn tin tất cả những điều chồng suy nghĩ về Thượng đế và cõi đời, để kỷ niệm người đã khuất. Chả bao lâu người trong thành phố biết hết chuyện này.

Bà cụ cố gắng để cho linh hồn người đã khuất, để cho sự nghiêm túc của những tình cảm vui vẻ cao thượng và ôn hòa của đạo Cơ đốc bao trùm lấy tòa nhà to lớn của mình. Chẳng những sáng và tối vẫn tiếp tục đọc kinh cầu nguyện mà còn dành nhiều thời gian hơn trước. Cả nhà tụ tập ở phòng ăn, kẻ hầu người hạ đứng trong phòng cột tròn, lắng nghe bà cụ hoặc Klara đọc một đoạn trong quyển Kinh thánh chữ to, gia truyền. Sau đó, bà cụ đánh đàn phong cầm, mọi người hát một vài bài kinh ca ngợi Chúa. Có lúc không đọc Kinh thánh mà đọc những quyển sách bìa đen viền vàng nói về đạo như: Kho tàng nhỏ, Thơ thánh, Thời gian trang nghiêm, Tiếng chuông mai, Cây gậy của người hành hương... vân vân. Những quyển sách này có đặc điểm chung là đầy những lời tán tụng Chúa Jesus đã mang lại hạnh phúc cho người đời, bằng một thứ tình cảm quá nồng nàn khiến người ta có ác cảm. Loại sách ấy trong nhà có rất nhiều.

Christian ít tham gia các buổi cầu nguyện này, còn Thomas thì tình cờ một lần anh cũng chống lại việc diễn tập này mặc dù anh nói rất mềm mỏng, có vẻ như đùa cợt, nhưng ý kiến của anh vẫn bị bác đi một cách ôn hòa và nghiêm túc. Riêng về Tony, điều đáng tiếc là trong những trường hợp như vậy cô thường có những điều thất thố. Buổi sáng nọ, một vị mục sư lần đầu tiên đến thăm gia đình Buddenbrook và cùng cả nhà hát bài sau đây bằng một giọng trang nghiêm, chân thành:

Con chỉ là kẻ thân tàn ma dại,

Kẻ có tội tay chân què quặt,

Mê say những tật xấu thói hư,

Tội ác thấm sâu vào tim con.

Lạy Chúa! Đừng để con ngập chìm trong tội ác,

Xin Chúa mau mau đưa con lên chốn thiên đàng.

Mong Chúa hãy xem con như con chó đói,

Quẳng cho mẩu xương rồi dắt con đi!

... Hát đến đó, Tony thấy buồn nôn liền ném quyển sách cầm trong tay, chạy nhanh ra ngoài phòng khách.

Nhưng bà cụ lại nghiêm khắc đối với bản thân mình hơn là đối với con cái trong nhà. Ví dụ, bà cụ mở một lớp học vào ngày chủ nhật. Cứ đến chiều hôm ấy, một tốp học sinh con gái đến kéo chuông cổng tòa nhà phố Meng, nào là Stine Voß ở khu Mauer, Mike Stuht ở phố Đúc chuông, Fike Snut ở ngoài bờ sông Trave hoặc giả ở Gröpelgrube, ở Engelswisch gì gì đó; đứa nào cũng mái tóc vàng nhạt, chải nước bóng mượt, lắc lư đi từ hành lang vào căn phòng sáng sủa ngoài vườn hoa. Phòng này trước kia là phòng làm việc nhưng đã lâu bỏ không, bây giờ xếp từng dãy ghế băng vào. Bà cụ tham Buddenbrook mặc bộ quần áo đoạn đen, khuôn mặt trắng trẻo trang nghiêm, đầu đội cái mũ mềm viền đăng ten trắng muốt, ngồi sau chiếc bàn con ở trước mặt, trên bàn để cốc nước đường, đang bắt lũ trẻ trả lời những câu hỏi về giáo lý suốt một tiếng đồng hồ.

Ngoài ra, bà cụ còn tổ chức “Dạ hội Jerusalem” bắt cả Klara, Klothilde và Tony phải tham gia, dù có bằng lòng hay không cũng mặc. Một tuần hai lần, có khoảng hai mươi người đàn bà đến ngồi xung quanh cái bàn to trong phòng ăn, trên bàn thắp nến và đèn. Xét về tuổi tác, lý ra những người đàn bà này đã phải tìm một chỗ yên nghỉ trên thiên đàng. Họ vừa uống trà, nước hoa quả, ăn bánh mì bơ và loại pudding rất ngon, vừa đọc cho nhau nghe các bài kinh và bài bàn về tôn giáo, vừa thêu thùa may vá, cuối năm mang ra chợ bán lấy tiền quyên cho Giáo hội ở Jerusalem.

Những người tham gia hội tôn giáo này chủ yếu là vợ các ông tham và những người có địa vị xã hội tương đương và bà cụ tham. Ví dụ bà nghị Langhals, bà tham Möllendorpf, bà cụ tham Kistenmaker, đều là hội viên hội này. Nhưng cũng có một số bà đang ham cuộc sống trần trục, như bà Köppen; họ rất thích cười đùa thoải mái với bà cụ Bethsy, bạn của họ. Ngoài những người đó ra, vợ mấy vị mục sư trong thành phố, bà tham Buddenbrook, họ Stüwing, mới trở thành quả phụ, cô Sesemi Weichbrodt và cả bà chị gái đần độn của cô ta cũng là hội viên. Đối với Chúa Jesus, Chúa không hề phân biệt đẳng cấp nên có một số người tương đối nghèo khổ, ăn bận rách rưới, cũng tham gia “Dạ hội Jerusalem”. Ví dụ, trong đó có một bà già gầy còm, nổi tiếng ngoan đạo và thích thu thập các mẫu len, sống ở bệnh viện Thần linh, tên là Himmelsbürger[97]. Bà ta là người duy nhất của dòng họ mình hiện còn sống sót... Bà ta đau khổ, tự xưng mình là “người dân thiên đường” cuối cùng, vừa nói, bà ta vừa lấy kim đan chọc vào phía trong cái mũ mềm mà gãi đầu.

Nhưng có hai hội viên làm cho người ta chú ý nhất, đó là hai chị em sinh đôi, hai cô gái già kỳ lạ; hai người này lúc nào cũng đội cái mũ kiểu các cô gái chăn cừu thế kỷ mười tám, mặc bộ quần áo đã phai màu bao nhiêu năm nay, suốt năm khoác tay nhau đi lại trong thành phố lo làm việc thiện; hai chị em họ Gerhardt, tự xưng là con cháu của Paul Gerhardt[98]; cũng có người nói họ không đến nỗi nghèo như vậy nhưng họ sống khổ quá sức, tất cả những thứ gì họ có, họ bố thí cho người nghèo hết.

— Hai bà bạn thân mến này! - Có lúc cụ bà Buddenbrook thấy các bà tồi tàn như thế, không chịu được, buột miệng nói - Bụng ai tốt ai xấu, Thượng đế biết rõ cả, nhưng quần áo hai bà trông chả ra hồn. Người ta phải để ý đến mình một tí chứ!

Cũng giống như những kẻ nghèo hèn đối với những người giàu sang đang khao khát được cứu vớt linh hồn, đối với người đàn bà cao quý ấy, hai bà lúc nào cũng rộng lượng và tỏ ý thương hại, tự cảm thấy mình hơn hẳn người khác về phần hồn. Khi hai bà hôn lên trán bà bạn giàu sang kia với thái độ đó, thì người đàn bà giàu sang kia cũng không nỡ từ chối. Hai bà không ngu xuẩn tí nào cả, đầu của hai bà nhỏ bé, khô đét, như đầu vẹt, nhưng hai bà có đôi mắt nâu sáng quắc, lúc nào cũng lim dim mà quan sát cuộc đời một cách ôn hòa, thông minh và kỳ dị... Trong óc hai bà chứa đầy những tri thức bí mật và lạ lùng. Hai bà biết rằng khi giờ phút cuối cùng của chúng ta điểm thì những người thân đi trước chúng ta sẽ hát vang những bài ca hết sức vui mừng chào đón chúng ta. Khi nói đến chữ “Chúa”, giọng hai bà là giọng của con chiên ngoan đạo ở buổi đầu tiên, đầy tin tưởng, phảng phất như chính hai bà đã được nghe từ miệng Thượng đế nói câu “Lát nữa các con sẽ trông thấy ta!”. Hai bà có một mớ lý luận kỳ diệu về linh hồn, về những điều dự cảm hoặc cảm ứng...; và có một bà tên là Lea, tuy điếc nhưng ai nói gì cũng biết tất.

Bà Lea Gerhardt điếc nên trong “Dạ hội Jerusalem”, lúc nào cũng dành lấy phần đọc kinh, với lại các bà kia đều nhất trí cho rằng bà ta đọc rất hay, rất hấp dẫn. Bà ta lấy trong ví xách ra một quyển sách cũ, phía trước in bức ảnh bản kẽm, dung nhan một vị tổ tiên có khuôn mặt tròn trĩnh của bà ta. Bà ta đưa hai tay đỡ quyển sách, bắt đầu đọc. Muốn cho mình cũng nghe được ít nhiều, bà ta cố tình run run giọng, tựa như làn gió lọt vào trong ống khói.

“Nếu Sa-tăng bằng lòng nuốt chửng tôi...!”.

Trời ơi! Tony nghĩ, Sa-tăng nào mà lại nuốt chửng bà cơ chứ! Nhưng cô không nói gì cả, cứ cúi đầu ăn pudding, nghĩ thầm trong bụng: “Phải chăng rồi có một ngày, cô cũng xấu xí như hai bà già họ Gerhardt này!”.

Tony không vui. Cô cảm thấy nhạt nhẽo. Cô ghét những vị linh mục và mục sư thường lui tới nhà cô, sau khi ông tham qua đời. Với lại theo cách nhìn của Tony, không những ở nhà cô, họ đã lạm quyền mà còn lấy đi khá nhiều tiền nữa. Chuyện tiền nong vốn là chuyện của Thomas, nhưng anh không hề đả động gì cả, người thường hay càu nhàu lại là cô em gái này. Cô oán những người kia cứ cầu nguyện mãi, và như những con mọt, đang đục khoét nhà cô.

Cô rất ghét những ông mặc quần áo đen. Cô đã là một người đàn bà từng trải chứ không ngốc nghếch như trước kia nữa. Cô biết đời là thế nào rồi, cô thấy mình không thể tin có những người hoàn toàn trong sạch, không có tí vết gì. Cô nói:

— Me ơi, con biết là không nên nói xấu hàng xóm láng giềng, nhưng có việc này con không thể không nói được. Với lại, nếu me không nhận ra điều ấy thì con lạ lắm. Con muốn nói là không phải người nào mặc áo dài miệng luôn luôn nói “Chúa, Chúa” đều trong sạch cả đâu!

Cô em gái Tony mạnh dạn nói thẳng chân lý đó ra, nhưng thái độ của chính Thomas đối với việc ấy như thế nào, không một ai biết được. Còn Christian thì chẳng có ý kiến gì hết. Anh chỉ nhăn mặt nhăn mũi mà quan sát những người ấy, sau đó đến câu lạc bộ hoặc ở ngay trong nhà, nhại lại họ mà làm trò cười.

Muốn nói thế nào thì nói, Tony cũng ghét cay ghét đắng những người khách ăn chay này, đó là sự thực. Một hôm đã xảy ra chuyện như thế này: Một vị giáo sĩ truyền đạo, từng sống ở Syria và Ả-rập, tên là Jonathan, có hai con mắt thao láo quen xoi mói người khác, với hai cái má xệ xuống như hai cái bị thịt, bước đến trước mặt Tony, buồn bã, không chút nể nang, buộc cô phải trả lời xem liệu cô uốn tóc mai phía trước trán lên như vậy có phù hợp với tinh thần thật sự khiêm tốn của người theo đạo Cơ đốc không... Chà, ông ta chưa được thưởng thức những lời lẽ chanh chua của Tony đấy thôi! Cô im lặng một lúc, rõ ràng cô đang vắt óc suy nghĩ. Quả nhiên, cô đã nghĩ ra câu để trả lời ông ta: “Thưa cha, con mong cha hãy quan tâm đến mái tóc của cha đi đã!”... Cô khẽ nhún vai, nghẹo đầu và cố gí cằm sát ngực, rồi bước ra ngoài trong tiếng sột soạt của quần áo. Mái tóc giữa đỉnh đầu mục sư rất thưa, đúng như thế, có thể nói đầu ông ta hói!

Lại một lần nữa, Tony giành được thắng lợi lớn hơn. Lần này là mục sư Trieschke, - vị mục sư “nước mắt lưng tròng” ấy mà! - Từ Berlin đến. Sở dĩ ông ta có biệt hiệu đó là vì chủ nhật nào giảng đạo, đến những chỗ lâm ly thống thiết, ông ta cũng thường trào nước mắt ra... Mục sư Trieschke “nước mắt lưng tròng” này, mặt trắng bệch, mắt cá chày, răng như răng ngựa. Ông ta đến ở nhà cụ tham Buddenbrook bảy tám ngày rồi, ngày nào cũng chỉ làm hai việc: ăn thi với Klothilde đáng thương, và chủ trì các buổi cầu nguyện. Trong thời gian ở đó, dần dần ông ta mê Tony... Không phải là ông ta yêu linh hồn trong sạch của cô, mà yêu đôi môi mòng mọng, mái tóc dày cộm, đôi mắt xinh đẹp và vóc người nở nang của cô! Tuy kẻ tôi tớ của Thượng đế này đã có vợ và một đàn con ở Berlin rồi, nhưng ông ta vẫn không kể gì đến liêm sỉ, nhờ anh đầy tớ Anton chuồi vào phòng ngủ Tony trên gác hai một bức thư, lời lẽ hỗn hợp những câu ngắn trích trong Kinh thánh và những lời tán hươu tán vượn... Tony nhặt được lúc sắp đi ngủ. Đọc qua một lượt, cô vội vàng bước mạnh chân xuống phòng ngủ bà cụ tham ở tầng dưới. Dưới ánh nến, cô dõng dạc đọc bức thư của vị mục sư chuyên đi cứu vớt linh hồn người khác cho mẹ nghe. Kết quả vị mục sư Trieschke “nước mắt lưng tròng” không bao giờ còn dám bước qua ngưỡng cửa nhà này nữa.

— Bọn họ cùng một giuộc với nhau cả! - Tony nói... - Hừ! Bọn họ cùng một giuộc với nhau cả! Trời ơi! Trước kia con chỉ ngốc nghếch, dại dột, me ạ, nhưng cuộc đời đã khiến con không dám tin người nữa. Bọn họ phần lớn là những tên vô lại... Không sai tí nào! Grünlich...! - Cô nhún vai, mắt nhìn lên quãng không, gọi cái tên đó ra, giọng cô lúc đó như tiếng kèn lanh lảnh, như tiếng gào thét trong khi chiến đấu!


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx