sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Hẹn hò với châu Âu - Chương 03 - 04

Chương 3: Santorini - Ám ảnh xanh

Sẽ là không ngoa khi người ta nói: “Chỉ một lần cùng nhau ngắm hoàng hôn ở Santorini cũng khiến người ta yêu nhau cả đời”.

Trong hành trình đến Hy Lạp, tôi khá lưỡng lự khi đặt vé tàu biển đi Santorini, bởi giá cả không rẻ, chưa kể, vốn là kẻ thích lang thang khám phá những miền đất nhiều thử thách, ban đầu tôi không mặn mà lắm với địa điểm luôn được quảng cáo là “điểm hẹn cho các đôi tình nhân”, trong khi đi cùng với tôi là hai cô gái khác cũng đang độc thân.

Khi vừa đặt chân đến Santorini, tôi biết mình không có gì phải hối hận. Êm đềm và lãng mạn, Santorini không thử thách tôi điều gì cả. Mọi thứ ở hòn đảo xinh đẹp, rạng ngời nắng gió của Hy Lạp này đều nhẹ nhàng, thư thái, trật tự và rất mộng mơ. Đó là một thứ ám ảnh đẹp đẽ. Không, đúng hơn phải gọi là một ám ảnh xanh!

Santorini là một trong những hòn đảo đẹp nhất của hệ thống đảo Hy Lạp. Hình như ai đến Santorini cũng sẽ phải lòng hòn đảo này. Một người bạn của tôi đã thốt lên: “Santorini à! Có lẽ tình yêu của anh với những hòn đảo Cyclades(*) của Hy Lạp bắt đầu ở đây, từ một buổi sáng ngỡ ngàng thức dậy nhìn thấy miệng núi lửa huyền thọai giữa một màu xanh ngắt của trời và biển”. Tôi không có may mắn được sống hơn một tuần trên đảo như anh. Chỉ cần vài ngày ngắn ngủi cũng khiến tôi ngấm đến tận đáy tim tình yêu sâu đậm ấy. Một tình yêu màu xanh thăm thẳm!

(*) Một nhóm đảo của Hy Lạp trong biển Algea

Tôi vốn là người yêu màu đỏ đến kỳ lạ, vậy mà hình như sau khi rời Santorini, tôi bắt đầu mua cho mình những đồ vật màu xanh nước biển, từ chiếc áo phông xanh cho đến quyển sổ bìa xanh. Santorini xanh thật! Từ khi đặt chân lên tàu biển cao tốc Hellenic Seaway ở cảng biển Piraeus của Athens để đến với Santorini, trừ những lúc hoàng hôn, còn lại có lẽ mắt tôi không còn tiếp nhận màu nào khác ngoài màu xanh và trắng, xanh ngăn ngắt của biển Địa Trung Hải với những hòn đảo phau phau cát trắng, nhà cửa xây dựng trên các đảo cũng nhỏ xinh, trắng tinh, chóp tròn đặc trưng nổi bật dưới nắng. Những khung cửa sổ cũng nhuốm xanh và chú mèo lười nhón chân chậm rãi khoan thai nhìn ra biển, chú chim sẻ chí choách cũng lẫn vào nền bức tranh màu xanh mát ấy. Dấu vết của người Hy Lạp cổ đại đã được phát hiện trên đảo này từ trước Công nguyên, nhưng những trận núi lửa dữ dội đã khiến Santorini phải làm lại từ đầu. Cũng chính những đợt phun trào đó đã đem lại một màu xanh coban đặc trưng cho nước, trời và nhà ở Santorini.

Hình như ở Santorini không thiếu gì cả, từ hàng hiệu cao cấp cho đến những đặc sản tứ phương; từ những sản vật riêng như những trái cà chua bi ngọt lịm nắng, những con cá nướng nhồi đầy bụng lá thảo hương, những con mực tròn căng bọc bột rán... cho đến những con búp bê Santorini trông như những nàng tiên cá xúng xính xiêm áo từ biển khơi dạt lên bờ hát những khúc tình ca say đắm; từ những chiếc cối xay gió vô danh đến hiệu sách nổi tiếng mang tên Atlantics, nơi cô chủ ngồi lặng thinh đọc sách, còn khách có thể chọn những cuốn sách cũ, ngồi bệt bên hành lang rụng đầy hoa giấy đỏ mà đọc. Tôi chọn cho mình một tấm postcard đen trắng có lẽ đã rất cũ và ngồi viết những suy nghĩ, ước mong giữa những cơn gió biển xanh ùa vào từ khung cửa sổ nhỏ.

Có thể khám phá Santorini bằng cách thuê xe máy tay ga với giá mười lăm euro một ngày, nhưng phải có bằng lái xe môtô quốc tế, nếu không, đi bộ cũng thú vị không kém.Tôi bắt đầu cuộc hành trình bằng việc leo dốc đi lên trung tâm thành phố Fira, được coi là thủ phủ của đảo bằng con đường nhỏ mà thường chỉ có cư dân đảo và những chú lừa đưa nước tới từng nhà dân là vẫn còn sử dụng. Nước sinh hoạt trên đảo đã được lọc từ nước biển, chỉ có nước uống là được chuyển đến từ đất liền. Những chum đất đựng nước ngày xưa nay đã nở hoa nhưng các chú lừa thì vẫn không được nghỉ. Thay vì chở nước, giờ đây các chú thường chở khách du lịch từ khu cảng cũ vượt dốc núi lên Fira. Sáng sáng, ông chủ dong cả đàn theo con đường nhỏ từ Fira xuống cầu cảng cũ chờ khách. Trong lúc chờ đợi, họ, với cách ăn mặc đặc sệt nông dân Hy Lạp xưa, ngồi hút thuốc, tán gẫu và đánh bài. Bọn lừa thì cũng tranh thủ lúc đó mà tán tỉnh nhau.

Sau Fira là OIA, một thị trấn nhỏ cách đó hai mươi phút đi xe buýt. Nếu Fira đem lại cho tôi ấn tượng mạnh mẽ về một cuộc sống sầm uất nhưng mơ mộng trên đảo xanh, về những chú lừa gõ móng cồm cộp nặng nhọc trên những dốc đá núi, dưới cái nắng chói chang và khô rát với một vẻ nhẫn nại đến khổ sở, thì OIA lại mang đến cho tôi cảm giác thư thái nhẹ nhõm lạ kì. OIA luôn đông khách từ bốn giờ chiều đến chín giờ tối vì địa danh này được bình chọn là một trong những nơi ngắm hoàng hôn đẹp nhất thế giới. OIA trong tiếng Hy Lạp chỉ đọc là IA nhưng tôi đùa bạn bè rằng, có lẽ du khách đến đây đã thốt lên ô í a trước vẻ đẹp ấn tượng và lãng mạn của hoàng hôn.

Không biết bao cặp tình nhân đã đến OIA, ngả đầu vào vai nhau cùng ngắm cảnh vầng mặt trời nhẹ nhàng đáp xuống mặt biển phẳng lặng. Tạo hóa đã khéo hòa sắc xanh của biển với ánh hoàng hôn vàng ấm, tím, rồi đỏ lựng để biến Santorini thành một cõi tiên với sắc màu ấm áp, bồng bềnh. Đầu tiên là những cánh buồm căng tràn gió trong ráng chiều, tiếp đến là những chiếc cối xay gió cổ như nổi dần lên trong khi vầng mặt trời cứ dần dần trốn xuống biển. Tất cả diễn ra một cách chậm rãi, nhẹ nhàng trong tiếng nhạc êm dịu và mơ mộng phát ra từ các quán cà phê bên những vách đá. Hầu hết các quán đều mang tên Hoàng Hôn, đến nhạc cũng mang tên Hoàng Hôn OIA. Trời đất dường như ngừng chuyển động và khi tia nắng cuối cùng cùa ngày trườn xuống lòng đại dương, không ai bảo ai, tất cả du khách trên đảo đều buông tay vẫy chào, thì thầm khẽ nói: “Bye bye, see you tomorrow!”. Ở Santorini, với nhiều người câu chào xã giao này đồng nghĩa với lời hẹn ngắm bình minh ngày mai.

Tiếc là tôi không được ngắm bình minh ngày hôm sau vì cả ngày leo dốc và đi lại khiến tôi chỉ có thể mở mắt khi mặt trời đã lên lưng chừng biển, chưa kể đó cũng là hôm tôi chia tay Santorini để quay lại Athens. Có bao giờ tôi quay lại Athens và Santorini không? Đó thực sự là một câu hỏi khó, vì sau những năm tháng tuổi trẻ học hành và khám phá, tôi biết rằng cuộc sống phía trước sẽ rất nhiều trách nhiệm và trăn trở. Nhưng tôi vẫn mơ về một ngày nào đó, nếu không là tôi thì là những người bạn đi cùng tôi hôm nay, sẽ ngả đầu vào vai người yêu bên ngôi nhà sơn trắng, cửa sổ xanh, trao nhau nụ hôn nhẹ trong ánh hoàng hôn Santorini và thì thầm khẽ nói: “Sagape” (I love you).

Chương 4: Venice mùa yêu

Sau hành trình lãng mạn tới Santorini, tôi không còn ngần ngại “độc hành” tới những địa điểm trứ danh của tình yêu, bởi tôi hiểu rằng, không nhất thiết phải mang tới đó một tình yêu mà tôi hoàn toàn có thể mang về từ đó những cảm xúc đẹp đẽ, như thể tôi đã phải lòng nơi ấy.

Từ mùa xuân Cairo đầu tiên, tôi bắt đầu sắp xếp những ký ức và hành trình của mình theo bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Và tôi chợt nhận ra, có một mùa chẳng biết nên xếp vào quãng thời gian nào, vì mùa ấy quanh năm đều thấy bóng dáng. Đó là mùa yêu.

Thực ra thì mùa nào Venice cũng đẹp và lãng mạn nhưng mỗi du khách đến đây đều coi ngày mình đến, mùa mình đến là mùa yêu, nơi họ gửi gắm những giây phút mơ màng, những kỷ niệm êm đẹp bên thành phố cổ kính vốn được mệnh danh bởi rất nhiều mỹ từ như “nữ hoàng của Adriatic”, “thành phố của những cây cầu”, “ thành phố của ánh sáng”. Đối với rất nhiều du khách, Venice đơn giản chỉ là thành phố của tình yêu.

Nếu chưa có dịp đến Venice, tôi nghĩ bạn nên xem bộ phim Casanova. Tôi mê mẩn bộ phim này cũng chỉ vì những góc quay thật đẹp về Venice, và khi đến “Venezia”, tôi chợt nhận ra Venice thế kỷ mười tám và bây giờ không khác nhau nhiều. Thời gian dường như bỏ qua thành phố này. Có lẽ chàng trai nào đến đây cũng sẽ trở thành Casanova đa tình mất vì những căn nhà như cổ tích, những góc phố mơ mộng dường như luôn sẵn sàng để chứng kiến những chuyện tình ngọt ngào.

Thành phố êm đềm trên mặt nước

Vừa ra khỏi ga tàu Venezia, tôi đã bắt gặp ngay hình ảnh đặc trưng của Venice: cây cầu gạch cong cong bắc qua dòng kênh cùng hàng đoàn thuyền tấp nập đi lại bên dưới. Cũng như khi đến mọi thành phố châu Âu khác, tôi mua vé xe buýt và thoáng ngạc nhiên khi đến đón tôi là chiếc thuyền máy “waterbus” xình xịch. Mỗi bến đỗ cũng là một bến tàu xinh xinh. Ngồi trên chiếc “xe buýt” dập dềnh trên mặt nước này, mái tóc cô gái nào cũng rối tung trước những cơn gió biển mát lành, mằn mặn.

Nước len lỏi khắp thành phố, chảy qua hàng trăm cây cầu lớn nhỏ, vỗ êm đềm bên bậc thềm của những ngôi nhà màu gạch ấm áp, lấp lánh theo những tay chèo của các chàng trai Venice áo kẻ trên những chiếc “gondola”, nhìn là biết thuyền Venice. Không phải ai cũng có điều kiện ngồi trên những chiếc gondola trang trí cầu kỳ đẹp đẽ với giá hơn một trăm euro mỗi lượt đi, nhưng ngồi bên bờ kênh ngắm nhìn đoàn gondola xuôi ngược cũng là một cái thú ở Venice. Mỗi chiếc thuyền hình như đều chở theo một câu chuyện, khi là đôi tình nhân chụm đầu ngồi ngắm hoàng hôn, khi là cả gia đình trong trang phục xưa cùng nhau tận hưởng ly champage ngọt ngào, có khi lại là một chàng lãng tử ngồi ôm đàn guitar hát bên cạnh đóa hồng đỏ không biết dành cho ai, một cảnh tưởng dễ làm mủi lòng những cô gái trẻ. Vào một chiều hè muộn, tôi có dịp chứng kiến một đoàn hơn mười chiếc gondola phủ vải đỏ, các chàng thủy thủ đẹp trai mặc áo kẻ đỏ và dải ruy băng trên mũ cũng màu đỏ phất phơ trong gió. Họ và các du khách trên thuyền say sưa hát những bài ca dập dềnh theo tiếng accordion và tiếng mái chèo kĩu kịt. Tiếng hát cho tôi biết cảnh tượng trước mắt là thực nhưng khung cảnh thì như mơ, bởi tất cả mờ ảo trong ráng chiều muộn và ánh đèn vàng lung linh.

Là thành phố trên mặt nước nên Venice là xứ sở của những cây cầu lớn nhỏ. Cầu Rialto đồng thời cũng là một khu chợ sầm uất nhất nhì. Tôi đến đây không chỉ để mua sắm những món đồ Venice mà còn đến để thưởng thức một không khí sinh hoạt cộng đồng từ xa xưa. Chỗ này bán hải sản, chỗ kia bán trang sức thủy tinh Murano hoặc đồ da, giữa cầu có hai cô gái xinh đẹp mắt xanh biếc đang kéo violon réo rắt. Cây cầu chạm trổ bằng đá vôi mang tên Ponte dei Sospiri hay “cây cầu của những tiếng thở dài” dường như trong đêm vẫn ánh lên màu trắng sáng. Tương truyền ngày xưa, đây là nơi những người tù thể hiện sự luyến tiếc và nhìn lại Venice xinh đẹp lần cuối trước khi bị đẩy xuống xà lim. Ngày nay, Ponte dei Sospiri là nơi du khách trầm trồ trước vẻ đẹp của Venice hoặc thì thầm với nhau những bí mật riêng tư của hai người.

Không chỉ những cây cầu lớn mà cả những cây cầu nhỏ cong cong cũng là chốn hẹn hò lý tưởng. Nếu không có một cái hẹn thú vị nào thì sáng sớm bạn có thể ngồi bên cầu ngắm những tia nắng ban mai dần đổ xuống, ngắm những chú chim hải âu và chim sẻ ríu rít chào ngày mới cũng đủ để thấy cuộc sống Venice thật lãng mạn. Không lãng mạn sao được, khi ngay cả những cột gỗ neo thuyền bên dòng kênh và cửa biển cũng được người dân trang trí lên đó những ruy băng xanh đỏ và những chùm hoa đong đưa.

Thành phố của những điều kỳ diệu

Có lẽ điều kỳ diệu nhất mà không ai có thể phủ nhận chính là những căn nhà, những công trình kiến trúc trên mặt nước ở Venice. Nhìn chúng thật đẹp và quyến rũ. Nếu bạn tự hỏi làm sao mà những căn nhà ấy có thể chịu đựng nước biển qua nhiều thế kỷ, chưa kể không hiếm những trận lụt xâm nhập, bạn sẽ hiểu rõ hơn tại sao Venice là một kỳ quan. Venice có một lịch sử hàng ngàn năm với không biết bao nhiêu những biến cố lịch sử, từ khi còn là nước cộng hòa Venetian cho đến khi trở là thành phố xinh đẹp bậc nhất của “Bella Italiana Uno” (một nước Italia tươi đẹp). Móng của những căn nhà hầu hết đều hình thành từ hàng ngàn súc gỗ lấn biển và không biết bao nhiêu sức lực, ý chí của con người.

Kiên cường là thế, nhưng nơi nào ở Venice cũng toát lên vẻ lịch lãm, lãng mạn, cầu kỳ, hào hoa và không kém phần xa hoa. Nhà cửa nếu không trang trí bằng những phù điêu tinh xảo hay những tấm màn nhung thì cũng sơn phối màu rất bắt mắt, kèm theo những ban công đón nắng thơ mộng. Ở trong một căn nhà cổ Venice, tôi có dịp tận hưởng một căn buồng gỗ với chiếc giường ngủ bằng gỗ nâu bóng phủ màn rèm tinh tế, phòng tắm nhìn ra khoảng sân đầy nắng và buổi sáng, dường như bất kể nơi nào trong không gian cũng tràn ngập tiếng chuông nhà thờ ngân nga. Khi đi “waterbus” đến làng Murano, nơi vẫn còn những lò thổi thủy tinh màu từ bao đời nay, tôi còn có dịp chiêm ngưỡng những căn nhà được dát bằng những mảnh thủy tinh nhỏ đủ màu sắc. Có lẽ các cô gái sẽ luôn tìm được ở nơi đây những món trang sức bằng thủy tinh màu được chế tác hài hòa và khéo léo.

Những quán hàng ở Venice luôn gợi nhớ châu Âu thời phục hưng với phong thái phục vụ sang trọng có đôi phần “nịnh đầm” và những món ăn bày biện cầu kỳ. Có lẽ tôi đã rất nhớ món mực ống còn giữ nguyên túi mực tạo màu đen tuyền cho món ăn kèm với bánh bột ngô, không chỉ vì vị ngon mà còn vì cái khoát tay dọn đĩa điệu nghệ và nụ cười mỉm của anh bồi bàn trong tiếng dương cầm về chiều réo rắt. Ở đây, bày hải sản có lẽ cũng là một nghệ thuật. Những con cá, tôm, bạch tuộc... luôn khoe vẻ tươi rói, đủ đầy, mời gọi trước những gian hàng san sát hai bên bờ kênh. Hải sản tươi ngon là phải vì chợ cá vẫn tồn tại trong thành phố như bao đời nay vẫn thế. Bạn muốn uống cà phê ư, cứ việc lần theo những ngóc ngách ngang dọc khắp Venice để tìm những quán cà phê ẩn khuất sau những căn nhà cổ, nép trong một sân vườn nho nhỏ nơi có thể nhìn lên những khung cửa sổ gỗ khép hờ dưới ánh trăng. Trên những quảng trường hay con phố lớn gần “mặt nước”, cà phê có lẽ sẽ đắt hơn nhiều, nhưng đó cũng là cái giá mà bạn nên trả cho những cảm xúc đặc biệt không dễ gì có trong đời. Tôi đã không tiếc gần mười euro cho một cốc espresso nhỏ giữa Piazza San Marco chỉ để tận hưởng cảm giác đẹp đẽ khi ngắm nhìn quảng trường với hàng vạn con chim bồ câu bay lượn, sà xuống mổ những hạt ngô trên tay người mà không hề e sợ, ngắm nhìn những chú ngựa bằng đồng kiêu hãnh trên nóc nhà thờ San Marco và hàng ngàn du khách tháo giày dép lội bộ giữa quảng trường chỉ vì chiều nay nước biển vừa dâng lên. Lang thang trên gác hai của nhà thờ San Marco, ngắm nhìn những vòm mái dát vàng với những bức tranh mô tả những câu chuyện của Kinh Thánh, tôi không tìm được cho mình câu trả lời vì sao nơi này lại đẹp đến thế, hào hoa và quyến rũ đến thế.

Tôi tự cho mình là người may mắn khi cùng các bạn mình có được một phút giây đẹp đẽ như vậy trong buổi chiều hè trên quảng trường San Marco. Hình như hôm ấy có một đêm nhạc mùa hè nên người ta đang thử dàn âm thanh và khi tiếng guitar dạo đầu của ca khúc Hotel California vừa cất lên, hàng ngàn hàng vạn chú chim bồ câu bỗng giật mình xòa cánh cùng một lúc tung bay khắp nơi, chao liệng bên gác chuông trong tiếng nhạc êm đềm. Bồ câu thì bay lên nhưng tất cả những người có mặt ở quảng trường thì dường như sững lại trong giây lát vì cảnh tưởng quá thanh bình, êm đẹp và đáng yêu. Venice luôn ẩn chứa trong mình những điều kỳ diệu dù trong cả những giây phút bình dị nhất của cuộc sống.

Chút mơ mộng với Venice

Mỗi lần đến Venice, tôi đều mua cho mình một chiếc mặt nạ nho nhỏ, gợi nhớ đến lễ hội hóa trang đình đám vào tháng Hai ở đây. Ngày xưa, các quý tộc và cả dân thường thường vui hết mình trong những lễ hội hóa trang vui nhộn, hào nhoáng đôi lúc phù phiếm ấy. Giờ đây, lễ hội hóa trang Venice vẫn tấp nập vào xuân, những trang phục cầu kỳ khi xưa vẫn được tái hiện để giữ nguyên cho Venice vẻ đẹp văn hóa độc đáo. Những chiếc mặt nạ tôi mua đều có gương mặt khác nhau, lúc nhẹ nhàng, lúc bí ẩn, có lúc đơn giản đến mộc mạc, lúc kiêu kỳ quyến rũ và đầy thách thức như bao hàm tất cả vẻ đẹp và cảm xúc phong phú mà người ta có khi đến Venice.

Venice mùa nào cũng đẹp, dù là nắng, là mưa hay là mùa nước lụt. Chỉ tiếc là chưa mùa nào tôi đi Venice với người tôi yêu. Có lẽ đây cũng là cái cớ xác đáng để tôi quay trở lại Venice, không chỉ để cầm máy lang thang khắp ngõ ngách chụp ảnh mà để một lần xuống gondola, uống ly vang sóng sánh cùng nước biển để tạo cho riêng mình một kỷ niệm nên thơ và lãng mạn của Venice mùa yêu.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx