Chương 27
Ca múa rộn ràng
Địa thế ngoài thành Kim Lăng, ba mặt tây nam bắc đều tương đối bằng phẳng, thỉnh thoảng có vài mỏm đồi thấp, chỉ có ngoại ô phía đông có một dãy núi, dù không cao lắm nhưng lại kéo dài liên miên.
Cô Sơn là ngọn núi gần kinh thành nhất trong số những ngọn núi ở vùng ngoại ô phía đông.
Từ cổng Đông Dương của đế đô, khoái mã phi nhanh non nửa canh giờ là có thể chạy tới chân núi Cô Sơn. Nếu là mùa thu, leo lên núi sẽ thấy một phiến rừng phong đỏ rực, nhưng lúc này thời tiết vẫn còn rét đậm, cành cây trơ trọi bám đầy tuyết đọng, hai bên sơn đạo hết sức tiêu điều, hiu quạnh. Theo bậc thang lên cao, trên đỉnh núi vắng vẻ, tĩnh mịch có một ngôi đình, tường mây mái cỏ, phong cách cổ xưa nhưng không kém phần thú vị.
Cách ngôi đình này chừng trăm bước về phía tây nam có một con dốc thoai thoải, trên đỉnh dốc có một ngôi mộ xây bằng đá hoa, trước mộ đặt hai đĩa trái cây tươi, thắp ba nén hương, ba vệt khói nhỏ lượn lờ bay lên từ ba đốm sáng lờ mờ.
Năm nay mùa xuân tới chậm, dù thời tiết không còn giá rét căm căm như trước nhưng trên đỉnh núi gió thổi lồng lộng vẫn rét lạnh thấu xương.
Hạ Đông mặc một chiếc áo bào màu trắng bằng vải bông, lẳng lặng đứng trước mộ phần, vạt váy đen tuyền thấp thoáng sau đường xẻ bên cạnh trường bào. Mái tóc dài bình thường vẫn luôn buông xõa trên vai lúc này đã được vấn cao, lọn tóc trắng vẫn nổi bật trên mái tóc đen, cộng thêm những nếp nhăn lờ mờ nơi khóe mắt như nuối tiếc tuổi xuân đang dần trôi qua.
Tro giấy bay lả tả theo gió, hương đã gần cháy hết, rượu tế vẩy ra cũng đã chậm rãi thấm xuống đất không còn dấu vết. Chỉ có tên người ghi trên bia mộ, rõ ràng đã bị ngón tay nhợt nhạt vuốt ve cả ngàn vạn lần nhưng vẫn đỏ thẫm, vẫn gai mắt như xưa.
Từ lúc trời tờ mờ sáng Hạ Đông đã đứng ở đây, đốt tiền giấy, lầm bầm nói chuyện. Giờ đây, ánh nắng đã len qua cành cây chiếu thẳng xuống mặt làm người đứng bị lóa mắt.
Sương mù trong khe núi sâu phía trước đã bắt đầu tan, chẳng bao lâu nữa kinh đô hoa lệ phía xa xa cũng sẽ cởi bỏ lớp áo sương mù mịt mờ để hiện ra hình dáng của mình.
“Niếp Phong, lại một năm nữa qua rồi...”
Từ khi Niếp Phong ra đi, một ngày dài tựa ba thu, nhưng rồi từng năm, từng năm cũng vẫn chậm rãi trôi qua. Nàng đứng trước mộ để phu quân đã khuất chứng kiến mình già đi theo từng năm, không biết nước mắt ai nóng hơn, trái tim ai đau đớn hơn, người dưới mộ hay người đến viếng?
Có lẽ sau khi nước mắt chảy hết sẽ là máu đào, đau đến cực hạn sẽ là tê liệt.
Thở dài một hơi, một khi âm dương cách biệt, tương kiến cũng trở thành ước vọng xa xỉ nhất trên đời. Ngón tay Hạ Đông lại một lần nữa nhẹ nhàng vuốt lên nét bút quen thuộc trên tấm bia mộ, đầu ngón tay lạnh như băng chạm vào mặt đá ráp, mỗi lần chạm vào, trái tim lại như thắt lại.
Gió núi vẫn thê lương hú bên tai chợt mang theo tiếng nói chuyện loáng thoáng từ phía sơn đạo.
Hai hàng mi dài của Hạ Đông nhíu chặt, sát khí lộ ra trên gương mặt âm u, lạnh lẽo.
Cô Sơn mùa đông vốn đã ít có người lui lới, huống chi nơi này vắng vẻ, hôm nay lại là mùng Năm Tết.
Năm nào cũng đến viếng mộ, đây là lần đầu tiên bị người khác quấy rầy.
“Tông chủ, bên kia có một lối đi nhỏ, còn đường chính thì ở bên này, ngài xem, đứng đây đã có thể nhìn thấy rồi...”
“Không sao, ta muốn đi đường nhỏ. Nơi này cây cối rậm rạp, nhìn ánh sáng nhảy nhót không phải cũng rất thú vị sao?”
“Vâng, ngài cẩn thận, trên đường có tuyết đọng trơn lắm.”
“Ngươi dìu ta như vậy thì có trượt chân cũng không ngã được.”
Tiếng nói chuyện văng vẳng xen lẫn tiếng bước chân đạp trên tuyết đọng.
Hạ Đông hít sâu một hơi, chậm rãi xoay người lại, mặt không biểu cảm.
“Hạ đại nhân...” Người tới hình như hơi bất ngờ. “Đúng là khéo thật...”
“Leo núi giữa ngày đông giá rét, Tô tiên sinh có thú vui thật tao nhã.” Hạ Đông bình tĩnh nói. “Có điều ta nhớ hình như hôm nay có một bữa tiệc quan trọng...”
“Chính vì không thích đến chỗ ồn ào như vậy nên ta mới tránh ra ngoài thành, nếu ở lại hàn trạch, bị người ta mời nhiệt tình quá cũng không tiện từ chối.” Mai Trường Tô thản nhiên nói, không hề che giấu. “Huống hồ Tô mỗ mới vừa khỏi bệnh, đại phu khuyên ta nên tập leo núi để phục hồi sức khỏe, cũng xem như một loại liệu pháp. Cô Sơn lại là ngọn núi gần thành nhất, vì vậy ta đã quyết định đến đây, không biết có làm phiền đại nhân hay không?”
“Núi Cô Sơn này lại không phải của ta, đương nhiên ai cũng có quyền tới.” Hạ Đông lạnh lùng nói. “Đây là phần mộ của chuyết phu, xưa nay ít có người lui tới cho nên ta hơi bất ngờ.”
“Đây chính là nơi an nghỉ của Niếp tướng quân sao?” Mai Trường Tô tiến lên trước một bước, giọng nói trầm ổn, chỉ có đôi mắt dưới hàng mi dài hơi lộ vẻ bi thương. “Một đời danh tướng, Tô mỗ vẫn ngưỡng mộ uy danh. Hôm nay đã hữu duyên tới đây, không biết ta có thể tế bái để tỏ lòng kính trọng hay không?”
Hạ Đông hơi sững sờ, nhưng nghĩ chàng đã tới đây, hai người cũng coi như là có giao tình, nếu biết rõ là phần mộ của vong phu mà chàng lại không có biểu thị gì thì cũng không hợp lễ. Còn chuyện kính trọng thật giả gì đó thì không cần tìm hiểu quá kĩ làm gì, vì vậy nàng liền gật đầu, nói: “Tiên sinh đã có lòng thì xin mời tiên sinh.”
Mai Trường Tô nhẹ nhàng gật đầu, chậm rãi đi tới phía trước bia mộ, ngồi xuống bốc đất thay hương, vái lạy ba lần thật sâu rồi quay lại, thấp giọng hỏi: “Lê Cương, ta nhớ ngươi lúc nào cũng mang rượu theo người?”
“Vâng.”
“Cho ta mượn một chút.”
“Vâng.” Lê Cương cung kính cởi bình rượu bằng bạc bên hông xuống, khom người đưa cho Mai Trường Tô.
Mai Trường Tô cầm lấy bình rượu, mở nắp ra, hai tay cầm bình, cao giọng ngâm:
“Tướng quân bách chiến thanh danh liệt.
Đứng trước sông Lương, quay đầu vạn dặm, bóng cố nhân đã khuất.
Gió tây lạnh thổi trên sông Dịch, khắp nơi là áo tang như tuyết.
Tráng sĩ xưa, khúc bi ca chưa tận.
Biết nhân gian có nhiều bi hận, chim muông cũng khóc ra huyết lệ. Ai cùng ta say trăng sáng đêm nay.
Anh linh tướng quân ở đây, nếu có lòng tương giao, mời uống rượu này!”
Nói xong chàng đổ rượu xuống đất, lại đưa lên miệng uống một ngụm lớn, khẽ ho một tiếng rồi cố nhịn ho, dùng mu bàn tay lau vết rượu bên khóe môi, ánh mắt nghiêm nghị, gió thổi áo bay phần phật, chỉ cảm thấy bi phẫn trong lòng khó nén, không khỏi hú một tiếng dài.
Hạ Đông đứng phía sau chàng, dù không nhìn thấy vẻ mặt người tế mộ nhưng vẫn bị lời khấn của chàng làm cảm động không kiềm chế được, xoay người bám tay vào thân cây bên cạnh, rơi lệ.
“Niếp phu nhân, người đã mất rồi, xin hãy nén bi thương.” Một lát sau, giọng nói điềm đạm của Mai Trường Tô vang lên bên tai. Nghe chàng đổi cách xưng hô, Hạ Đông càng cảm thấy chua xót.
Nhưng suy cho cùng thì Hạ Đông không phải góa phụ khuê các, sự kiêu ngạo và kiên cường không cho phép nàng tỏ ra yếu mềm và mất khống chế trước mặt người không quen biết.
Sau khi nhanh chóng điều chỉnh lại hơi thở hỗn loạn của mình, nàng đưa tay lau nước mắt trên má, khôi phục vẻ mặt kiên định, lạnh lùng.
“Thịnh tình của tiên sinh khiến người còn sống cũng cảm động lây. Hạ Đông đa tạ tiên sinh!”
Mai Trường Tô vừa đáp lễ vừa khuyên nhủ: “Tế lễ chỉ là tấm lòng, ta thấy Niếp phu nhân ăn mặc phong phanh, không có áo khoác, phu nhân nên xuống núi cùng Tô mỗ luôn đi. Niếp tướng quân trên trời có thiêng cũng không muốn thấy phu nhân làm khổ mình như thế.”
Hạ Đông vốn đã tế bái xong, đang chuẩn bị xuống núi, vì vậy cũng không nói nhiều, hai người lặng lẽ xoay người, chậm rãi sánh vai đi xuống theo sơn đạo.
Trên đường đi chỉ có tiếng gió thổi tuyết rơi, hai người không nói một lời nào.
Đến tận lúc sắp xuống đến chân núi, đã có thể nhìn thấy quán trà lợp mái cỏ xa xa và những con ngựa buộc bên ngoài quán, Hạ Đông mới hỏi một câu lạnh nhạt: “Tiên sinh về thành à?”
Mai Trường Tô mỉm cười, nói: “Lúc này còn chưa quá ngọ, về thành vẫn sớm. Nghe nói cổ trấn gần đây có một bức thạch điêu tuyệt mĩ, ta muốn nhân dịp này đến xem một chút.”
“Thạch điêu ở trấn Xích Hà à? Quả thật đáng xem.” Hạ Đông dừng bước chân. “Ta còn có việc trong kinh, không thể đi cùng.”
“Xin Hạ đại nhân cứ tự nhiên.” Hoàn cảnh đã khác, Mai Trường Tô tự nhiên lại xưng hô như cũ. “Vụ án nội giám bị giết quả thật khó tra, đại nhân vất vả tra án nhưng vẫn cần bảo trọng thân thể.”
Ánh mắt Hạ Đông liếc tới, sắc như dao. “Tô tiên sinh nói thế là ý gì?”
“Sao? Vụ án này không giao cho Huyền Kính ti à?” Sắc mặt Hạ Đông càng lạnh lùng hơn.
Vụ án này bề ngoài là do phủ thống lĩnh cấm quân điều tra, còn nàng ta điều tra là phụng mật chỉ. Đành rằng một khi bắt đầu điều tra thì bị người khác biết cũng chỉ là chuyện sớm hay muộn, nhưng gã Tô Triết này biết quá sớm.
“Đây thực sự được xem như một vụ án kỳ quái, có lẽ sau này Huyền Kính ti sẽ có hứng thú.” Hạ Đông nói lấp lửng, không rõ ràng nhưng cũng không hoàn toàn phủ nhận, lại hỏi tiếp một câu: “Có điều hung thủ giết người gọn gàng như thế, nhất định là cao thủ giang hồ. Tô tiên sinh có cao kiến gì không?”
“Giang hồ rất nhiều kỳ nhân dị sĩ, ngay cả Lang Gia các hằng năm cũng phải không ngừng đổi mới bảng xếp hạng, ta sao dám nói bừa? Hơn nữa trong việc nắm bắt thông tin về các nhân vật giang hồ, Huyền Kính ti sao lại kém Giang Tả minh? Hiện nay có cao thủ nào đang ở kinh thành, có lẽ Hạ đại nhân còn nắm rõ hơn ta nhiều.”
Hạ Đông suy tư chốc lát, ánh mắt lạnh lẽo cực kỳ cảnh giác.
Huyền Kính sứ là tâm phúc của Hoàng đế, hiển nhiên không thể can dự vào việc tranh giành của các phe phái, không được phép nghiêng về bất cứ bên nào.
Hiện nay gã Tô Triết này gần như đã có thể coi là người của phe cánh Dự vương, lúc nói chuyện với hắn nhất định phải hết sức cẩn thận.
Mai Trường Tô mỉm cười, chậm rãi chuyển ánh mắt.
Chàng đương nhiên biết lúc này Hạ Đông đang nghĩ gì.
Đưa mắt nhìn cả kinh thành, trừ những người biết rõ mục đích thật sự của chàng, sau khi biết chàng đã bị cuốn vào cuộc đấu đá, thái độ của những người khác đều có thay đổi hoặc nhiều hoặc ít, cho dù là Ngôn Dự Tân và Tạ Bật cũng không phải ngoại lệ.
Còn người chân thành đối đãi chàng trước sau như một thì chỉ có duy nhất Tiêu Cảnh Duệ mà thôi.
Trong mắt người khác, trước hết chàng là kỳ lân tài tử Tô Triết. Còn trong mắt Tiêu Cảnh Duệ, từ trước đến nay chàng vẫn chỉ là Mai Trường Tô. Bất kể chàng thể hiện tài hoa như thế nào, bất kể chàng gây ra bao nhiêu sóng gió, mục đích kết giao với chàng của người thanh niên đó thật sự chưa bao giờ thay đổi.
Tiêu Cảnh Duệ vẫn xem cuộc đấu đá bè phái này bằng một ánh mắt bình thản, đau buồn, nhưng lại không hề xa lánh. Hắn không cho rằng phụ thân mình lựa chọn sai, cũng không cho rằng lập trường của Tô huynh không đúng. Hắn chỉ cảm thấy buồn khi hai người này không thể đứng cùng một trận tuyến, nhưng không vì vậy mà từ bỏ tình bằng hữu giữa mình và Mai Trường Tô.
Hắn giữ vững thái độ thẳng thắn, thành khẩn từ trước đến nay, Mai Trường Tô hỏi hắn cái gì, hắn đều trả lời đúng sự thật, chưa bao giờ có ý định suy nghĩ xem: “Tô huynh hỏi như vậy để làm gì?” Không phải hắn không thể nghĩ ra, mà đơn giản là hắn không nghĩ.
Cả lời mời đến dự tiệc mừng sinh nhật lần này, Mai Trường Tô có thể thấy rõ tâm tư của người thanh niên đó: Huynh là bằng hữu của ta, chỉ cần huynh chịu đến, ta nhất định có thể bảo vệ huynh chu toàn.
Tiêu Cảnh Duệ không muốn phản kháng phụ thân, cũng không muốn thay đổi Mai Trường Tô, hắn chỉ muốn kết tình bằng hữu với Mai Trường Tô theo cách của riêng mình.
Ngay thẳng đường hoàng, chính là như vậy.
Thật đáng tiếc và thật đáng thương, một người như vậy lại sinh ra trong Tạ phủ.
Mai Trường Tô lắc đầu than thở, chấm dứt suy nghĩ. Bánh xe vận mệnh đã cuồn cuộn đến gần, có nghĩ gì thêm nữa cũng chỉ là vô ích, bởi vì không ai có thể thay đổi được nhân quả của thời gian.
Lúc này Hạ Đông không chú ý tới sự cảm khái và yên lặng của chàng, ánh mắt nàng ta đang nhìn xuống con đường chạy quanh chân núi xa xa, khẽ thốt lên một tiếng.
Mai Trường Tô nhìn theo ánh mắt Hạ Đông, cũng không khỏi nhướng mày.
Chỉ thấy từ khu rừng rậm gần chân núi lần lượt nhảy ra khoảng gần trăm quan binh, người mang theo trường đao, người cầm câu liêm mũi nhọn, còn có người đeo một cuộn dây thừng. Từ những đôi giầy và y phục dính đầy bùn đất có thể thấy được những người này đã đi lại một hồi lâu trong rừng rậm.
“Tìm được không?” Một người thân hình to khỏe, nhìn trang phục có thể đoán được là bách phu trưởng cũng nhảy ra, tiếng nói oang oang như sấm.
“Không...”
“Không nhìn thấy gì cả...”
Đám thuộc hạ tới tấp đáp lời, vẻ mặt mọi người đều rất thất vọng.
“Chẳng phải có sơn dân báo rằng đã nhìn thấy ở chỗ này sao? Mẹ kiếp! Lại mất công lần nữa!” Bách phu trưởng thở hổn hển mắng một câu, ngẩng đầu lên, ánh mắt vô tình nhìn về phía Mai Trường Tô và Hạ Đông, không khỏi sửng sốt.
Mai Trường Tô để lộ một nụ cười tươi rói, gật đầu tỏ ý chào hỏi.
Đúng là nhân sinh hà xứ bất tương phùng, bất cứ lúc nào cũng có thể gặp người quen...
“Sao? Đó là người quen của Tô tiên sinh à?” Hạ Đông thoáng nhìn vẻ mặt của Mai Trường Tô.
“Không xem như người quen, chỉ là đã từng nhìn thấy. Đó là người của Tĩnh vương phủ, mặc dù ta chỉ tới thăm Tĩnh vương gia một lần nhưng vẫn có chút ấn tượng với vị nhân huynh này.”
Hạ Đông cảm thấy hơi kinh ngạc. “Một bách phu trưởng mà lại gây được ấn tượng cho Tô tiên sinh, chắc hẳn phải có chỗ hơn người?”
Mai Trường Tô gật đầu. “Không biết cái chỗ hơn người đó của hắn bây giờ đã đỡ hơn chưa...”
Lời này nghe có vẻ kỳ quái, Hạ Đông vừa cau mày định hỏi lại thì bách phu trưởng đó đã sải bước đi tới, không để ý đến Mai Trường Tô mà chỉ ôm quyền thi lễ với Hạ Đông. “Tại hạ bách phu trưởng Thích Mãnh dưới trướng Tĩnh quận vương, xin hỏi có phải Hạ đại nhân từ trên núi xuống không?”
Hạ Đông quan sát hắn một lát, khẽ gật đầu. “Không sai.”
“Lúc ở trên núi hai vị có thấy quái thú nào không?”
“Quái thú?” Hạ Đông nhíu mày. “Nơi này là khu vực thuộc kinh đô, làm sao lại có quái thú?”
“Có, đó là một con quái thú có lông màu nâu vẫn thường quấy nhiễu các sơn dân ở đây. Vì vậy bọn ta mới phụng mệnh đến vây bắt.”
Mai Trường Tô hỏi chen ngang: “Ta nhớ các ngươi đã lùng tìm nó một thời gian rồi, tại sao còn chưa bắt được?”
Thích Mãnh vốn là tham tướng tứ phẩm, nhưng lại vì mấy câu nói của Mai Trường Tô mà chức vụ giành được bằng huyết chiến lại bị giáng xuống thành bách phu trưởng, nếu nói trong lòng không có oán hận thì là nói dối. Có điều trong phủ Tĩnh vương cũng có những người ánh mắt tinh tường suy nghĩ thấu đáo, ngày ấy sau khi hắn bị phạt quân côn, ít nhất có ba người đã đến khuyên giải, phân tích lý lẽ rất rõ ràng khiến hắn xấu hổ toát mồ hôi.
Lúc này gặp lại Mai Trường Tô, cho dù trong lòng vẫn không thoải mái nên không muốn chủ động bắt chuyện với chàng, nhưng chàng đã mở miệng hỏi thì hắn cũng không thể làm ngơ không đáp.
“Ngoại ô phía đông lắm núi nhiều rừng, quái thú đó lại cực kỳ xảo quyệt. Bọn ta không thể ngày ngày canh gác ở đây, chỉ khi nào sơn dân đến báo thì mới tới lùng bắt, nhưng lần nào đến cũng không nhìn thấy bóng dáng nó, cũng không biết có phải những sơn dân đó nhìn nhầm hay không...”
Mai Trường Tô đưa mắt nhìn quanh, nghĩ bụng khu ngoại ô phía đông này đồi núi kéo dài, phạm vi rộng lớn, muốn lùng bắt một con quái thú cũng không khác gì tìm kim dưới biển, hỏi sao bọn họ lại vất vả mà không được việc gì như thế.
“Người dân ở đây tố giác thì nha môn phủ Kinh Triệu phải giải quyết chứ?” Hạ Đông lại hỏi.
“Quái thú đó lợi hại lắm, các bộ khoái nha môn Kinh Triệu đã vây bắt một lần, năm mươi người bị thương một nửa mà cuối cùng cũng không bắt được. Cao phủ doãn không có cách nào nên mới đến nhờ vương gia của bọn ta. Những chuyện không đâu làm được cũng chẳng có công lao gì lớn này cũng chỉ có vương gia của bọn ta chịu làm.”
Trong lòng Hạ Đông biết rõ bách phu trưởng nói không sai, nhưng nàng ta và Tĩnh vương vẫn có khúc mắc nên không muốn bình luận thêm, chỉ “hừ” một tiếng rồi quay sang Mai Trường Tô. “Ta về thành đây. Lúc khác gặp lại.”
“Hạ đại nhân đi thong thả.” Mai Trường Tô hạ thấp người hành lễ, đưa mắt nhìn Hạ Đông đến quán trà lấy con ngựa gửi ở đó trước khi lên núi, giơ roi thúc ngựa chạy đi rồi mới từ từ quay lại nhìn Thích Mãnh.
“Gì thế?” Thấy chàng nhìn mình, Thích Mãnh hơi chột dạ, đầu óc hoạt động rất nhanh, nhớ lại xem nãy giờ mình có nói sai câu nào hay không.
Thấy hắn tỏ ra căng thẳng, Mai Trường Tô không khỏi bật cười. “Không tồi, không tồi! Mấy ngày không gặp, ngươi đã học được cách tự xem xét bản thân rồi. Xem ra Tĩnh vương điện hạ quả thật không lơ là dạy dỗ thuộc hạ. Vừa rồi, những lời ngươi nói trước mặt Hạ Đông không có gì không ổn, có điều sau này nếu có thể không nói thì tốt nhất đừng nói. Tĩnh vương điện hạ bây giờ cần làm nhiều mà nói ít, Tĩnh vương cũng hiểu rõ điều này, các ngươi là thuộc hạ thì càng nên hiểu rõ.”
Mai Trường Tô chẳng qua chỉ là một bình dân, không phải mưu thần bên cạnh Tĩnh vương, lại có chút khúc mắc với Thích Mãnh, lẽ ra chàng không có tư cách giáo huấn hắn. Nhưng không biết vì sao chàng chỉ đứng bình thản ở đó mà lại có một khí thế thu phục lòng người khiến Thích Mãnh bất giác gật đầu. “Ta biết rồi.”
Lúc này Lê Cương đã sai người đánh xe ngựa tới, đặt ghế làm bậc, đỡ Mai Trường Tô lên xe.
Xe ngựa sắp chuyển bánh, Mai Trường Tô đột nhiên vén rèm xe, vươn người ra nói với Thích Mãnh như thể vừa nhớ ra điều gì đó: “Ngươi hỏi thăm người dân ở đây xem quái thú đó thích ăn gì, sau đó đặt bẫy dụ nó đến là được.”
Thích Mãnh ngẩn ra, còn chưa phản ứng lại thì rèm xe đã hạ xuống, người đánh xe vung roi, xe ngựa lắc lư chuyển bánh.
Buổi tối Mai Trường Tô hồi phủ được biết Dự vương quả nhiên đã đích thân tới mời mình. Vì không tin chàng không có nhà, hắn còn nhất quyết vào hậu viện xem xét, sau đó chắc là do khách khứa còn đợi ở phủ không thể chờ lâu cho nên hắn mới bất mãn ra về.
Mùng Mười đã qua, khắp nơi trong kinh thành bắt đầu kết hoa đăng chuẩn bị đón Nguyên Tiêu.
Trong cung cũng không ngoại lệ, từ Hoàng hậu cho tới phi tần, các cung các viện đều vắt óc làm các loại đèn hoa tinh xảo để giành được lời khen ngợi của Hoàng đế vào rằm tháng Giêng sắp tới.
Tuy nhiên đối với một số người thì bầu không khí vui vẻ, tốt lành này chỉ là bề ngoài.
Đồng thời với việc gấp rút điều tra vụ án nội giám bị giết, đại thống lĩnh cấm quân Mông Chí cũng tăng cường bố trí phòng vệ, gia tăng cường độ tuần tra và nhanh chóng thu được hiệu quả, liên tiếp ngăn chặn hai vụ định phóng hỏa trong cung của các thái giám.
Đáng tiếc là nghi phạm bị bắt đã lập tức tự sát nên không tra hỏi được gì, nhưng sau khi kiểm tra thân phận thì những nghi phạm này quả thật là thái giám nội vụ trong cung chứ không phải người bên ngoài trà trộn vào.
Vì vậy Ngôn Hoàng hậu bị Hoàng đế Đại Lương trách tội trước triều thần, buộc phải tháo trâm thỉnh tội. Bà ta hiểu rõ trong cung có xảy ra bất cứ rắc rối gì thì người chịu trách nhiệm sẽ là mình chứ không phải các phi tần khác, càng không liên quan gì đến Việt phi, vì vậy chỉ có thể lưu tâm gấp bội, nghiêm khắc cai quản hoạt động của các cung.
Hoàng hậu là con gái thái phó tiền triều, mười sáu tuổi trở thành chính phi của Hoàng đế Đại Lương, khi đó vẫn còn là quận vương. Sau đó Hoàng đế Đại Lương lên ngôi nên được thụ phong Hoàng hậu, cai quản lục cung đến bây giờ.
Mặc dù sớm đã không còn ân ái, cũng không có con, nhưng chừng đó năm làm chánh cung nương nương cũng không phải vô ích, bà ta vẫn biết cách quản thúc hậu cung rất hiệu quả, năm đó Việt thị là quý phi được sủng ái mà cũng không gây ra sóng gió gì lớn, giờ đây khi Hoàng hậu đã quyết ý chỉnh đốn hậu cung thì cục diện chắc chắn sẽ được khống chế yên ổn.
So với trong cung bận rộn không ngừng thì Mai Trường Tô ở ngoài cung có vẻ nhàn hạ hơn rất nhiều. Sau khi điều tra được vài cao thủ giang hồ có liên lạc với Trác Đỉnh Phong hiện nay đang ở kinh thành, vị tông chủ Giang Tả minh này vội âm thầm điều một kiếm khách vô danh vào kinh, lần lượt khiêu chiến từng người theo đúng quy củ giang hồ, tất cả đều bị đánh cho nửa tháng không xuống giường được, mọi chuyện rất gọn gàng, sạch sẽ.
@by txiuqw4