Ngày 7 tháng hai, công việc gay go hơn. Chúng tôi phải tấn công Yên Châu nằm trên con đường thuộc địa số 41, tại đó quân Việt với một tiểu đoàn đầy đủ đã bố trí trên nhiều ngọn núi bao bọc lấy ngôi làng. Sau một buổi sáng làm việc với các trinh sát viên, chúng tôi nắm được tình hình vị trí quân địch. Kế hoạch của chúng tôi được chuẩn bị tỉ mỉ. Cần phải giành thắng lợi với tổn thất tối thiểu.
Sau một cuộc hành quân ban đêm, sử dụng một con đường mòn được mở ra bằng dao phát rừng, chúng tôi tới những điểm cao ở phía bắc, đứng trên đầu tất cả những vị trí do quân đối phương chiếm giữ. Tảng sáng, chúng tôi dùng ống nhòm quan sát. Việc nghiên cứu của chúng tôi là đáng giá. Chúng tôi chơi con bài mà sau này quân Việt cũng sẽ chơi ở Điện Biên Phủ: chiếm lĩnh điểm cao và tấn công. Tất nhiên, lần này là ở một cấp độ khác.
Các khẩu cối 81 của chúng tôi ở trên các điểm cao nhìn thấy mục tiêu rõ mồn một. Một trung đội được để lại trong thung lũng phát triển từ phía tây, lợi dụng con đường thuộc địa số 41. Nhiệm vụ là kìm chân quân Việt, nổ súng lúc 8 giờ. Lại một lần nữa, mọi việc diễn ra như dự kiến: Bruillot ở phía dưới thung lũng, được ngụy trang ở khoảng cách hợp lý, sử dụng hết cỡ các hoả lực, làm cho đối phương tin là một trận tấn công tổng lực đến từ con đường thuộc địa số 41, trong lúc đó chúng tôi từ chính bắc vừa tràn xuống, vừa hò hét, được các khẩu súng cối yểm trợ.
Những trận đánh ác liệt kéo dài từ 8 giờ đến 17 giờ. Chúng tôi phải xung phong đánh chiếm năm ngọn núi. Bản tổng kết tốt, gần trăm quân Việt chết tại trận, thu được nhiều vũ khí, tài liệu. Về phía chúng tôi, tiếc thay mấy chục thương vong phải chuyển về Sơn La bằng những cáng thương đi bộ... Thượng sĩ Bruillot là một trong những tác giả chủ yếu của thắng lợi này. Mũ trên đầu và chiếc quần dài bị đạn xuyên thủng, không có chuyện gì có thể ghìm cậu ta lại, một mình cậu ta dùng tiểu liên và lựu đạn không ngơi tay.
Một tuần lễ sau, chúng tôi chuẩn bị bước nhẩy mới. Đó là việc đánh chiếm bản Thìn, nằm cách Yên Châu mười kilômét về phía đông. Hai ngọn núi ôm lấy dải thung lũng và con đường thuộc địa nổi danh do quân Việt chiếm giữ. Vẫn là một cách đánh gần như giống nhau: đánh lạc hướng và tấn công từ những điểm cao. Hai đại đội quân Việt bị đánh bật ra khỏi vị trí sau khi đã thiệt hại nặng.
Giờ đây phải bình tĩnh lại một chút. Bruillot, bố trí trên những điểm cao, ở những vị trí cũ của quân Việt. Guilleminot và Duteuil, cùng sở chỉ huy của tôi, chúng tôi xây dựng một điểm tựa ở phía dưới, nằm bên dòng sông trong vắt, ở cách xa ngôi làng vài trăm mét.
Trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ, nhờ có dân địa phương giúp sức, một cái lán nhỏ bằng tre được dựng lên. Hệ thống phòng thủ của chúng tôi được xác định: các vị trí chiến đấu, kế hoạch hỏa lực, chuông báo động trên các đường mòn, tập luyện báo động, các trinh sát phải đi về thăm dò tình hình. Chúng tôi lợi dụng việc này để huấn luyện lại một chút, bổ sung các tổn thất bằng việc tăng viện một số dân binh.
Đánh chiếm Văn Yên:
Ngày 8 tháng năm, Văn Yên rơi vào tay chúng tôi. Thật bất ngờ! Văn Yên nằm ở một đoạn khuỷu sông, trên một mỏm đồi bao quát cả khúc sông đã bị phá huỷ hoàn toàn, chỉ còn lại nền móng ngôi nhà cũ của viên tri châu.
Ở cách Sơn La một trăm hai mươi kilômét, giữa vùng đất của quân Việt, cuộc sống tuyệt vời với “những người con của vùng Viễn Đông”. Tôi thấy thoải mái, đơn vị của tôi được rà trơn kỹ lưỡng với chiến tranh du kích, thật có ấn tượng. Chúng tôi là những con thú hoang dã đích thực, thân hình gầy gò, cơ bắp nổi rõ, có phản xạ cực nhanh, có đôi chân sắt và một sức bền không bao giờ cạn kiệt. Chúng tôi là người thợ săn, săn quân Việt.
Từ mấy ngày nay tôi đã không báo cáo với cấp trên và họ bắt đầu lo lắng. Tôi chờ đợi để nói: “Văn Yên đã chiếm được!”. Kể lại với họ một cách chi tiết những khó khăn của chúng tôi mà làm gì? Kể từ ngày tôi rời khỏi Sơn La, không một người lãnh đạo nào tới nắm tình hình và hỏi han vì sao lại có mặt ở giữa bầy sói ấy? Điều đó đòi hỏi tôi phải suy xét và tập làm quen với ý nghĩ này.
Với việc chiếm được Văn Yên và Mộc Châu ở phía nam con đường thuộc địa số 41, con đường này bị đánh chiếm bởi binh đoàn của Vanuxem, lúc này đã nổi tiếng, tôi nghĩ rằng xứ Thái đen đã gần như được giải phóng hoàn toàn. Vanuxem về sau này sẽ trở thành một trong những “vị soái” của tướng De Lattre và rồi người ta còn nhắc đến ông ấy ở Algérie. Cũng vì vậy tôi quyết định đặt sở chỉ huy của tôi ở Văn Yên trong vài tháng.
Các trung đội của tôi sẽ phân tán theo hướng bắc và chiếm giữ thung lũng kể từ suối Tóc cho đến Quế Lãng, cách Văn Yên ba mươi kilômét về phía bắc. Liên lạc bằng vô tuyến với các trung đội độc lập của tôi, được bố trí trong các đồn bốt có tổ chức vững chắc. Việc thu thập tình báo được đẩy mạnh đến mức tối đa, tôi sẽ tập hợp lại quân số cần thiết để mở các trận tập kích, phục kích cách xa căn cứ v.v... Việc thâm nhập của chúng tôi tỏ ra là cần thiết để giải quyết tốt việc bình định trong cái thung lũng được bố trí phòng thủ đối mặt với kẻ địch.
Chúng tôi đã sửa sang lại đống đổ nát của toà nhà hành chính cũ ở Văn Yên. Trên nền nhà lát gạch vuông còn nguyên vẹn, chúng tôi đã xây dựng những căn nhà xinh đẹp bằng tre nứa, và khu đồn trại đã nhanh chóng có vẻ tươm tất. Từ trên đồn nhìn xuống dòng sông, quang cảnh thật mỹ lệ, những buổi mặt trời lặn vô cùng ấn tượng.
Đã một năm nay, tôi không gặp một phụ nữ người Âu nào. Tôi đã quên chuyện làm tình, tuy nhiên chút ít tình cảm lãng mạn là cần thiết cho sự cân bằng tâm lý của chúng tôi. Chúng tôi đã nhận được qua một lần thả dù hiếm hoi một chiếc máy hát cũ cùng với vài chiếc đĩa của Tino Rossi và các chị em nhà Étienne có giọng hát tuyệt vời... Chúng tôi hình dung ra hình ảnh của họ xinh đẹp, dịu dàng, âu yếm. Chúng tôi nghĩ tới cuộc chiến tranh này, tới những người đã chết, tới những thương binh nặng của chúng tôi đã không trở lại nữa. Nhưng mà, dù sao, giữa chúng tôi với nhau cuộc sống là tốt lành. Trong cuộc sống của đàn ông, mọi chuyện đều minh bạch.
Mỗi tháng ba lần, tôi luân phiên cử một trung đội đi Mộc Châu, phải đi bộ mất cả ngày, để nhận bó thư tín và một ít đồ đạc cồng kềnh. Lần này đến lượt thiếu uý Guilleminot. Cậu ta báo cáo là đến nơi yên ổn, xác định giờ xuất phát quay về vào ngày hôm sau. Tiên đường về, cậu ta sẽ cho trung đội nghỉ đêm ở Ba Lay, ở khoảng quá nửa chặng đường.
Ngày hôm sau nữa, mới tảng sáng, từ bờ sông phía bên kia, ba tay dân binh gọi to. Tôi cho một chiếc thuyền độc mộc chèo sang, đó là ba người Thái thuộc trung đội của Guilleminot, trung đội bị tấn công ban đêm và có lẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. Trước hết, đây là đòn đau. Làm gì bây giờ? Dù sao thì cũng đã quá muộn, nhưng tôi mơ hồ cảm thấy là trong đêm tối như mực, không có lí nào Guilleminot lại không thoát được... Giờ phút chờ đợi kéo dài tưởng như vô tận.
10 giờ. Một bóng người lo lớn, mặc quần áo trắng, theo sau là lố nhố người có vũ khí, ra dấu hiệu ở bờ phía bên kia.... Nghe tiếng gọi đó đúng là các dân binh của chúng tôi. Tôi đi trên chiếc thuyền độc mộc thứ nhất, được các khẩu cối sẵn sàng yểm trợ, và thấy mình đứng trước mặt Guilleminot.
- Anh làm cái quái gì trong bộ trang phục ấy hả?
- Thưa đại úy, tôi đã may bộ đồ ngủ bằng một chiếc dù cũ và bị đánh bất ngờ trong bộ trang phục này!
- Guilleminot, anh bị phạt giam mười lăm ngày để cho anh hiểu bài học về việc chiến đấu trong bộ đồ ngủ!
Nhưng tôi hết sức sung sướng vì đã gặp lại được cậu ấy và thú thực, tôi muốn được ôm hôn cậu ấy hơn là quở trách.
Cậu ta kể lại với tôi câu chuyện của mình. Rất thoải mái, tin tưởng, cậu ta không nghĩ lại sẽ bị trận tấn công, tuy nhiên vẫn phổ biến cho trung đội một trục đường rút chạy trong trường hợp bị đánh bất ngờ... Đám dân binh của cậu ta thoát hiểm một cách nhanh chóng nhưng cậu ta thì bị quân Việt giữ lại trong mấy phút. Do đêm tối họ tưởng đâu cậu ta là một cô gái Thái.. Cậu ấy thú thực với tôi là rất sung sướng vì trong mấy phút dài lê thê đã được thuộc về phái yếu. Hoan hô Guillemiot dũng cảm? Vận may vẫn còn đi theo cậu ấy trong những năm dài để rồi bỏ mặc cậu ta một cách tệ hại trong một buổi chiều nào đó ở Algérie.
Những ngày cuối cùng nhiệm kỳ của tôi đang tới gần. Tôi phải kết thúc nhiệm kỳ một cách tốt đẹp... Một tin tình báo cho biết một sở chỉ huy tiểu đoàn quân Việt ở cách bốn mươi kilômét về phía đông bắc giải thung lũng nằm sâu giữa vùng đất của họ. Cùng với cậu Logier trung thành của tôi, chúng tôi làm việc với các trinh sát viên cả một ngày dài để xác định vị trí, đường hành quân, các chặng nghỉ, những khó khăn. Bởi lẽ trong trường hợp đặc biệt này, vừa đi xuyên qua ngọn núi vừa né tránh các vị trí có quân đối phương, cần thiết chừng ba ngày hành quân... Các trinh sát viên khẳng định: họ có thể dẫn đường cho chúng tôi và tấn công sở chỉ huy đó mà không bị phát hiện.
Tôi nắm quyền chỉ huy khoảng một trăm người, trao quyền chỉ huy hậu cứ cho Logier... Ba ngày hành tiến, trong đó hai ngày dưới cơn mưa... Trèo lên, lao xuống, đi dọc theo những con suối nước ngập ngang thắt lưng trên đoạn đường dài nhiều kilômét, cái đám vắt quỷ quái hút máu liên tục, những trận tấn công của lũ muỗi vào lúc sẩm tối... Nhiều lúc tôi thấy ngán đến cổ. Hai năm trong nhiệm kỳ bắt đầu cảm thấy là dài, nhưng kết quả đã tới gần. Một bước chân... Thêm một bước nữa… Mệt nhoài, chúng tôi tiến gần tới địa điểm dự kiến. Liệu chúng tôi có bị phát hiện hay không? Nếu bị lộ thì cuộc rút lui sẽ gay go, rất gay go.
Chúng tôi nghỉ lấy lại sức tại một địa điểm được ngụy trang hoàn hảo cách sở chỉ huy quân Việt hai kilômét. Lại một lần nữa xác định tình hình với các trinh sát. Một cuộc họp ngắn giao nhiệm vụ cho từng người: một nhóm yểm trợ, một nhóm thu dung và cùng với đại bộ phận, tôi sẽ chỉ huy xung phong... Phải, những cuộc xung phong như vậy, cần phải tiến hành không chút do dự. Mọi động tác dậm chân tại chỗ đều có thể dẫn đến chết người, và đó là hành động dũng mãnh. Bảy mươi con người hò hét, được các khẩu súng cối 60 ly yểm trợ, tràn vào khu đóng quân của quân Việt: sáu tù binh, trong đó có một sĩ quan, hàng chục bị chết. Tôi bị thương nhẹ với một mảnh lựu đạn găm vào lưng.
Mười lăm phút sau, lui quân cấp tốc trong tám hoặc mười tiếng đồng hồ. Tiếp đó, chúng tôi nằm đổ vật ra cả loạt. Ngủ, ngủ trong mấy tiếng đồng hồ nhưng mà luân phiên, mỗi đợt một nửa quân số. Hành trình chúng tôi đi qua ít có khả năng quân Việt tìm thấy dấu vết của chúng lôi.
Hoạt động này, lẽ ra tôi có thể giao cho một trong số các sĩ quan của tôi chỉ huy. Nhưng nếu làm như vậy tôi sẽ phải chịu biết bao nỗi lo lắng, trong năm hay sáu ngày không được tin tức gì của cánh quân đó. Và tôi cho rằng người chỉ huy phải thường xuyên mạo hiểm thân mình. Làm như vậy, về sau mới có thể đòi hỏi, yêu cầu mọi việc đối với cấp dưới của mình. Về đến Văn Yên, tôi nghe thấy các chiến binh của tôi nói: “Ông già” lại thắng lợi trong đòn đánh cuối cùng của ông ấy”. Những lời nói đó có giá trị bằng tất cả các huân, huy chương và những lời khen của các cấp trên cộng lại.
Và đây là thời hạn đã báo trước của việc trở về tổ quốc. Hai năm trong nhiệm kỳ của tôi đã kết thúc. Tôi sẽ rời khỏi Văn Yên cùng với một đội hộ tống nhỏ để đi bộ suốt năm ngày về Sơn La, sau khi đã bàn giao đơn vị của tôi cho một đại úy khác. Viên đại úy này về sau sẽ gặp rất nhiều khó khăn, nhiều cay đắng bởi lẽ quân Việt đã không ngừng lớn mạnh, không ngừng quyết chiến.
Những buổi chia tay xúc động với đồng ngũ. Trung úy Logier, cấp phó của tôi, lúc tôi khởi hành đã cho tất cả các loại vũ khí nhả đạn và khoảng ba mươi trái đạn cối... Tôi lên đường trong tiếng đạn súng trường tiểu liên và tiếng đạn cối, trong khuôn mẫu của cái năm chiến trận ấy.
@by txiuqw4