sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Tuổi thơ trong chiến tranh - Chương 06

CHÉT KHÔNG XONG, TÔI SỐNG LÀM NGƯỜI!

Mùa thu năm 1969.

Một hôm, tôi cảm thấy trong người khó chịu, chân tay bải hoải, cứ ngáp ngắn ngáp dài, hai mí mắt sụp xuống, muốn ngủ nhưng không tài nào ngủ được. Đầu nặng trình trịch và nóng hầm hập, nhưng trong xương tủy lại nghe lành lạnh. Thằng Cu Đen ngó tôi có dáng điệu “lừ đừ như Ông Từ vào đền” nên tự giác trông coi thằng Cu Em. Mệt quá, tôi đi nằm. Mồ hôi mồ kê túa ra đầm đìa, tuy nhiên tôi vẫn thấy lành lạnh trong người. Quơ tấm chăn cũ kỹ màu cứt ngựa đắp lên, nhưng tôi vẫn cứ run cầm cập vì rét! Đành phải xổ tung chiếc màn xô thủng lỗ chỗ quấn bên ngoài, chỉ chừa cái đầu to quá cỡ ra thở khò khè...

Xế chiều, Nghe tiếng súng bắn kêu, ba mẹ tôi ở bên ngoài ấp chiến lược thôn Hữu Lâm mới lật đật trở về. Thằng Cu Đen chạy lon ton ra sân ôm chân ba tôi, nói: “Ba ơi, ba! Anh Năm bị đau rồi! Hồi trưa tới chừ, ảnh vừa nằm rên hừ hừ, vừa trùm mền đến toát mồ hôi hột tê tề...” [36]. Thằng Cu Em cũng lồm cồm bò qua bậc cửa, níu ống quần mẹ tôi, ngọng nghịu bảo: “Bẹ...bẹ... úc chẹt... úc chẹt ủ... ông ậy...” [37]. mẹ tôi cố nén tiếng thở dài và gắng giấu nỗi lo âu hằn in trên khuôn mặt khắc khổ. Rồi mẹ bồng thằng Cu Em, lấy khăn lau chùi mũi dãi lòng thòng cho nó. Còn ba xoa đầu thằng Cu Đen khen biết ở nhà trông em. Đến bên giường tôi nằm, cả ba lẫn mẹ cùng đưa tay sờ khắp người tôi. “Ôi, người ngợm thằng Cúc Đẹt nóng ran như là than lửa! Hắn ốm nặng, ông ơi!”. Mẹ hốt hoảng nói với ba. “Không đâu! Chắc là bị cảm xoàng thôi!”. Ba tôi bảo thế để mẹ yên tâm. Sẩm tối, ba tôi mời cô Dung y tá đến nhà. Cũng như ba tôi, cô Dung cho biết tôi bị cảm, chỉ cần uống vài liều thuốc là khỏi. Nhung mấy ngày trôi qua mà bệnh tình của tôi vẫn không thuyên giảm. Cô Dung thay đổi phương pháp điều trị. Cùng với uống thuốc viên, hằng ngày tôi còn bị cô Dung bắt nằm úp sấp để tiêm thuốc vào mông. Lại mấy ngày trôi qua. Và bệnh tình của tôi ngày càng trầm trọng thêm...

“Em hết cách rồi!”, cô Dung bảo với ba mẹ tôi, “Anh chị nên đưa cháu xuống Trạm xá quận để người ta chữa trị thì hơn!”. Nghe cô Dung “tuyên bố đầu hàng”, mẹ tôi phát hoảng. Còn ba tôi, tuy ngoài miệng cứ nói “không có chi”, nhưng trên khuôn mặt khắc khổ lộ rõ vẻ hoang mang lo sợ... Ngay buổi chiều hôm đó, tôi được anh Hai, anh Ba và ba tôi thay phiên nhau khiêng xuống Trạm xá quận bằng chiếc võng đay mượn của bà Cả Chững. Thấy người ngợm tôi nóng bừng nhưng lại lạnh trong xương, các y bác sĩ khẳng định tôi bị... sốt rét! Và họ cứ nhè thuốc ký ninh điều trị cho tôi! Với kinh nghiệm “trông mặt mà bắt hình dong” như thế, chỉ trong vòng chưa tới một tuần, các y bác sĩ ở Trạm xá quận đã làm cho tôi không còn là tôi nữa! Sau này, mẹ tôi kể lại, tôi mới biết tính mạng của mình mong manh hệt ngàn cân treo sợi tóc! Mẹ tôi bảo, lúc bấy giờ tôi cứ nằm mê man, thỉnh thoảng lên cơn co giật, la hét huyên thiên như một thằng điên. Đó là những ngày đầu. Còn về sau, do không ăn uống được nên thể xác tôi suy kiệt, gầy nhom. Bám sát vào “bộ xương cách trí” để làm thành cái hình hài tội nghiệp của tôi là mớ da nhăn nhúm! Các y bác sĩ ở Trạm xá quận “bó tay” với con bệnh “vô phương cứu chữa” đã chân thành khuyên ba mẹ tôi sớm đem tôi về nhà nhằm tránh phải chết ở nơi Trạm

Ba tôi quyết giành lại tôi từ bàn tay của Tử thần bằng bất cứ giá nào! Thông qua ông Phó Tài - người luôn coi ba tôi là “bậc thầy” về địa lý và nhân tướng học, ba tôi nhờ Trung úy Mậu - viên sĩ quan bác sĩ quân y ở Chi khu Quân sự Tiên Phước, chữa trị cho tôi với hy vọng “còn nước còn tát”. Ông ta là một bác sĩ giỏi, lại rất trọng những người có học, rành chữ Hán Nôm, am hiểu lịch sử nước nhà và có tính khảng khái của một nhà Nho. Do vậy, viên Trung úy Mậu sốt sắng nhận lời khi nghe ông Phó Tài giới thiệu sơ qua về ba tôi. Ông ta xuống tận Trạm xá quận khám bệnh cho tôi, rồi lắc đầu bảo: “Cháu bị thương hàn. Rất tiếc là các y tá, bác sĩ ở Trạm xá quận đã chẩn đoán sai dẫn đến điều trị không đúng thuốc. Khả năng cứu sống cháu chỉ còn chưa tới... vài chục phần trăm! Nếu gia đình đồng ý làm giấy cam đoan, trong quá trình điều trị, lỡ cháu có mệnh hệ gì cũng không kiện tụng thì tôi mới dám đưa cháu về nhà chữa chạy!”.

Ba tôi đồng ý ngay. Và thay vì khiêng tôi về nhà lo hàng vỏ [38] để chôn, ba tôi cùng các anh cáng tôi đến nhà viên Trung úy Mậu ở bên cầu Bình An. Mẹ tôi bảo, một tuần, rôi hai tuần trôi qua, nhưng tôi vẫn trong tình trạng mê man. Tuy nhiên, viên Trung úy Mậu lại vui mừng thông báo cho ba tôi biết: “Cháu đã vượt qua được giai đoạn nguy kịch. Khả năng cứu sống cháu đã trên tám, chín chục phần trăm! Đây là một trường hợp hy hữu. Có lẽ cháu còn sống là nhờ phần phước của gia đình anh chị...”.

Viên Trung úy Mậu nói đúng. Sang tuần thứ ba nằm điều trị ở nhà ông, tôi đã nhận biết thế giới chung quanh. Nghe và phân biệt được tiếng mẹ, tiếng ba và tiếng các anh tôi đi học ghé vào thăm. Thỉnh thoảng mở hai mí mắt nặng trịch ra dòm, tôi vẫn gọi đúng tên và nhận diện từng khuôn mặt người thân hiện lên chao đảo, nhập nhòa... Và hơn một tháng sau thì tôi khỏi bệnh. Vậy là chết không xong, tôi lại sống làm người! Ba mẹ tôi mừng vui khôn xiết! Thoát khỏi bàn tay của Tử thần, nhưng tôi trở thành một đứa trẻ chỉ còn dọc xương, y hệt những em bé Xômali bị chiến tranh và đói nghèo hành hạ mà ngày nay chúng ta vẫn thường hay nhìn thấy trên vô tuyến truyền hình. Đã thế, hai mông tôi vì tiêm thuốc quá nhiều nên bị áp-xe, lắm chỗ bên trong chứa cả bộng mủ, phải nằm úp sấp hoặc nằm nghiêng mới bớt đớn đau. Tôi lại tiếp tục ở nhà viên Trung úy Mậu để ông chữa trị thêm một thời gian nữa cho lành các vết mổ áp-xe. Tôi vẫn còn nhớ, ông người Huế, nói năng nhỏ nhẹ, lúc nào nụ cười cũng thường trực trên môi. Ông luôn động viên tôi cố gắng chịu đựng “một tý ty thôi” mỗi khi ông dùng dao kéo, bông băng rửa các vết mổ. Ông cứ bảo tôi: “Đừng nghĩ đến đau đớn thì nó sẽ không đau đớn. Nó chỉ hơi nhoi nhói như kiến cắn thì ăn nhằm gì, có đúng vậy không?”.

Nằm điều trị bệnh ròng rã gần hai tháng trời tại tư gia viên Trung úy Mậu thì tôi được ba và các anh tôi khiêng về nhà. Thằng Cu Đen và thằng Cu Em thấy tôi gầy ốm đến độ chỉ còn da bọc xương, cứ ngỡ là ai chứ không phải anh Năm “Cúc Đẹt” của chúng. Những ngày đầu, hai đứa sợ, luôn đứng ở góc nhà nhìn ngó tôi như một người xa lạ. Và cho đến bây giờ, dẫu đã ba mươi lăm năm trôi qua, nhưng tôi vẫn còn nhớ như in về hai đứa em tôi trong những ngày tháng ấy. Thấy tôi được mẹ “ưu tiên” lấy đường cát trắng đổ vào bát nước cơm khuấy đều cho uống, hai đứa cứ đứng giương mắt ngó chằm chằm đầy vẻ thèm thuồng. Thương em, tôi lén mẹ bảo hai đứa cùng uống chung, nhưng chúng cứ lắc đầu quầy quậy. Thằng Cu Đen một mực khăng khăng: “Mẹ bảo để anh Năm uống nước cơm đường mới mau khỏe mạnh. Hai đứa em không uống mô!”. Thằng Cu Em cũng líu lô như vậy. Tôi biết, hai đứa kiên quyết nhịn thèm, nhất định không “uống ké”, thật tội! Từ dưới xóm Chợ thỉnh thoảng viên Trung úy Mậu lại lên ấp chiến lược thôn Hữu Lâm thăm gia đình tôi. Ông kiểm tra sức khỏe của tôi có khá hơn không. Biết nhà tôi nghèo, không có điều kiện bồi bổ cho đứa con vừa ốm dậy, ông bày cho mẹ tôi kiếm các loại rau củ nấu cháo với đường đen, tán nhuyễn bón cho tôi ăn. Rồi ông ngồi đàm đạo chuyện thơ phú, chuyện thời cuộc với ba tôi. S hiện diện của viên sĩ quan quân y làm việc tại Chi khu quân sự quận Tiên Phước ở một gia đình bị chính quyền tề ngụy tình nghi “Cộng sản nằm vùng” và ghi tên vào “sổ đen” để theo dõi, khiến bọn mật vụ và cảnh sát chìm chú ý. Chính vì vậy mà chẳng bao lâu sau viên Trung úy Mậu bị điều chuyển đi nơi khác.

Tất nhiên, vợ con ông cũng theo chồng theo cha rời khỏi Tiên Phước. Trước khi rời mảnh đất có con sông Tiên hiền hòa thơ mộng với dòng chảy ngược từ Đông sang Tây, ông có đến thăm gia đình tôi. Như mọi lần, ông xoa xoa cái đầu trọc lóc không còn sợi tóc nào của tôi, nói đùa mấy câu, rồi cùng ba tôi bàn luận chuyện đời. “Thời phải thế, thế thời phải thế! Có thể, khi rời vùng quê đã sản sinh ra nhà chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng, tôi không còn dịp nào để quay trở lại. Phải chia xa anh, thật tiếc! Mới quen nhau mà anh với tôi đã như hai người bạn tâm giao tri kỷ từ lâu...!”. Lúc bắt tay ba tôi, ra về, ông bảo thế. Ba mẹ tôi rất buồn. Bởi ông - viên sĩ quan bác sĩ quân y giàu lòng nhân ái, là ân nhân của gia đình tôi. Hồi đó, tôi còn quá nhỏ. Nhưng tôi vẫn nhớ rất rõ về ông - người đã cứu tôi sống để làm người...

CẢ NHÀ VỀ CHỐN CŨ VƯỜN XƯA..

Đầu năm 1971. Đơn vị cuối cùng của quân viễn chinh Mỹ đóng tại cứ điểm xây dựng bên bờ sông Tiên thuộc địa phận thôn Tiên Bình, xã Phước Kỳ, rút khỏi quận lỵ Tiên Phước. Bọn chúng vừa kéo đi thì ngay lập tức hàng ngàn người dân từ các khu dồn ở những vùng phụ cận đổ xô đến tháo dỡ sân bay dã chiến, tháo dỡ các nhà hầm, lấy các tấm ghi sắt, ghi nhôm, ghi mái vòm, gỗ thông, ván ép và nhiều thứ linh tinh khác! Bọn cảnh sát rằn ri, cảnh sát áo trắng và bọn lính ngụy không sao ngăn cản được, đành bất lực để cho mọi người tự do tháo dỡ. Chỉ trong vòng vài ba ngày, cả cứ điểmsự của quân viễn chinh Mỹ bị phá tanh bành. Chứng tích duy nhất còn sót lại là những lớp rào kẽm gai bùng nhùng bao quanh cứ điểm của lũ “mắt xanh mũi lõ”. Người ta không dám xóa sổ nó vì đó là những bãi mìn! Đụng vào, nếu không chết thì cũng bị trọng thương... Sự hiện diện của nó như để cho bàn dân thiên hạ biết, đấy chính là nơi xuất phát các cuộc hành quân càn quét với những tội ác “trời không dung, đất không tha”; là nơi các cỗ đại bác thi nhau nã đạn ra vùng giải phóng; là nơi các loại máy bay mang bom oanh tạc bao xóm mạc ở bên ngoài ấp chiến lược...

Trước khi cuốn cờ cút xéo về nước, quân viễn chinh Mỹ đã đánh phá khốc liệt khắp nơi bằng đạn bom và hóa chất độc khai quang rừng núi. Chớp lấy thời cơ ấy, năm 1970 bọn ngụy quân ngụy quyền lấn chiếm ra vùng giải phóng. Chúng mở rộng địa bàn về hướng Đông, khai thông tuyến đường huyết mạch từ Tam Kỳ lên Tiên Phước. Thôn Hữu Lâm hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát của “chính phủ quốc gia”.

Và để bảo vệ phần đất lấn chiếm, chúng xây dựng thêm hệ thống đồn bót mới chung quanh khu vực ngã ba bà Xù. Mạn nam là đồn Hố Tre. Hướng bắc là đồn Gò Mè. Phía đông là các đồn Gò Cao, Dương Hợi, Dương Ươi... Rồi chúng dời dân “xúc tát” được từ vùng giải phóng đem về “giam lỏng” trong các khu định cư ở thôn Bình An ra. Xóm Đồng Eo trở thành khu dồn của xã Phước Lộc. Dốc ông Lô trở thành khu dồn của dân ở một nửa xã Phước Tiên. Xóm Chùa nhỏ bé của tôi là nơi ngụ cư của một số bà con ở xã Phước Hiệp. Ở mỗi khu dồn, tùy theo số dân đông hay dân ít mà chúng thành lập một, hoặc hai trung đội “nhân dân tự vệ” với “sắc phục quần áo bà ba đen”. Và quản lý mỗi cụm dân cư trong khu dồn là “Liên gia”. Đám “lính làng” bận đồ đen như quạ ấy, chuyên lo gìn giữ trật tự trị an và phối hợp với bọn lính “nghĩa quân” ở các đồn bót ngày đêm canh gác không cho “Cộng sản đột nhập” vào bên trong khu dồn. Còn những tên “Liên gia” có nhiệm vụ theo dõi chặt chẽ thái độ của các gia đình có người thân tham gia kháng chiến để qua đó lần tìm và bóc gỡ các cơ sở cách mạng. Bọn chúng là những tên “chỉ điểm” cực kỳ nguy hiểm. Bởi vậy, bà con trong các khu dồn mới có câu ca: “Bắt được Tổng thống thì tha... Bắt được Liên gia: Chặt đầu!”.

Sau gần sáu năm “ăn nhờ ở đậu” cạnh nhà bà Cả Chững, gia đình tôi mới được về nơi chốn cũ vườn xưa. Mọi vật đổi thay đến độ không ngờ. Nền nhà cũ là một bãi cỏ tranh lau lách cao lút đầu người. Khu vườn rộng mênh mông của ông bà nội tôi hoang tàn xơ xác. Mặt đất hục hang những bom hố pháo. Mấy cây xoài tượng nơi góc rào, cụt ngọn, chết khô. Những cây cam sành, quýt đường, cành nhánh trụi trơ vì bị máy bay Mỹ rải hóa chất độc khai quang rụng sạch lá. Những cây mít mật cũng cùng chung số phận. Chẳng còn cây quả để hái ăn. Tôi buồn. Và buồn nhất là, cánh đồng bậc thang nhỏ hẹp phía trước ngõ nhà tôi không còn là một cánh đồng nữa! Cỏ ống ken dày như một tấm thảm xanh. Lác đác những buội sậy mọc thành từng cụm lớn, thoáng trông giống hệt những khóm mía hoang còi cọc vì không người chăm sóc. Khi hoàng hôn buông xuống, những con chim cuốc lẻ đôi từ những bụi sậy lại cất tiếng kêu đều đều nghe não nùng ai oán... Đối với tôi và thằng Cu Đen, cánh đồng bậc thang nhỏ hẹp trước ngõ là cả một thế giới thần tiên! Mùa đông, hai anh em tôi đi dạo khắp các bờ vùng bờ thửa lùng bắt những con cua đồng phá hại lúa, buộc dây vào càng để làm trâu chọi nhau. Chán trò chơi đó, hai anh em tôi lại hì hục làm cầu bằng cọng cỏ mật, hoặc que củi bé tý xíu, bắc ngang qua lỗ nước cho lũ kiến bò qua. Còn mùa hè, hai anh em tôi cầm vợt tìm kiếm những con cá thia cờ làm tổ che nắng bằng cách nhả những đám bọt trắng bu quanh bụi lúa đã lên xanh, bắt đem về nuôi trong những chiếc lọ thuỷ tinh xinh xắn. Con nào to khỏe thì lựa ra, cho vào chiếc thẩu nhựa để chúng cắn xé nhau đến trày vi tróc vảy trong tiếng reo hò cố vũ nồng nhiệt của hai anh em tôi...

Gần bảy năm trời chìm trong lửa đạn chiến tranh xóm Chùa yêu quý của tôi đã trở thành bình địa! Chỉ có chùa Tế Nam nhờ ơn Đức Phật Thích Ca phù hộ độ trì nên không bị pháo tầm xa băm vằm. Nhà sư trụ trì chùa là thầy Tư. cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bước vào giai đoạn quyết liệt thì thầy Tư cởi bỏ áo cà sa, tham gia cách mạng. Và ông đã anh dũng hy sinh trong một trận chống giặc càn ở xã Phước Tiên. Thay thế thầy Tư trụ trì chùa là thầy Sáu Hoanh và thầy Bốn Phụng. Cùng tu hành với hai thầy còn có cô Năm Duân và cô Tư Kiêm. Không ai tham gia cách mạng, nhưng lại hết lòng đùm bọc chở che cán bộ cách mạng. Và tôi biết, chùa Tế Nam là nơi ba tôi thường bí mật gặp gỡ với bác Địch, chú An, chú Kế, chú Thiều, chú Tá... trong Đội công tác Phước Kỳ để báo cáo tình hình hoạt động của địch ở trong ấp chiên lược thôn Hữu Lâm. Mỹ ngụy xâm lấn rộng ra vùng giải phóng, vì vậy, chùa Tế Nam cũng đã nằm trong tầm kiểm soát của “chính phủ quốc gia”.

Cả nhà tôi trở về chốn cũ vườn xưa, do chưa có nơi ăn chốn ở nên bước đầu phải tá túc ở chùa. Cửa ngõ phần bị miểng bom vỡ toác hoác, phần bị mối xông mọt đục, dẫu cô Năm Duân có đóng lại, ba anh em tôi vẫn chui vào bên trong dễ dàng như không. Cơ man là Phật. Ông to bằng người lớn. Ông nhỏ tựa nắm tay. Ông cau mày suy nghĩ. Ông ngồi xếp bằng tư lự. Ông tay vân vê cái bụng phệ, còn miệng cười toe toét. Ông mặt đỏ. Ông mặt đen. Ông râu dài. Ông râu ngắn... Tôi với thằng Cu Đen chỉ ngắm nhìn, không dám đụng chạm vào các tượng Phật, vì sợ. Nhưng thằng Cu Em còn nhỏ quá, chưa biết gì, cứ ngỡ đấy là đồ chơi của con trẻ! Hắn hết lôi ông Quan Công xuống vặt râu, lại rinh ông Di Lặc đem thả vô ổ kiến lửa cho chúng xúm lại chích đốt coi chơi!

Cuối cùng rồi ba mẹ tôi cũng dựng được căn nhà gỗ tạp khá tươm tất ngay trên nền nhà cũ của ông bà nội. Người cáng đáng mọi công việc nặng nhọc trong quá trình làm nhà là anh Ba tôi. Bởi ba tôi sau trận đòn roi của “gã mắt chó”, không còn mạnh khỏe như xưa. Còn anh Hai tôi học xong trung học đệ nhị cấp [39] tiếp tục xuống Tam Kỳ theo học trung học đệ nhất cấp []. Có nơi ăn chốn ở đàng hoàng, gia đình tôi mới tập trung khai hoang vỡ hóa ruộng nương để trồng khoai cấy lúa. Trở về nơi chốn cũ vườn xưa, gia đình tôi thành dân sở tại. Đã từng nếm trải bao khổ cực của “thân phận người dân tản cư” nên ba mẹ tôi luôn giúp đỡ những gia đình có người thân tham gia cách mạng, quê ở Phước Hiệp, bị Mỹ ngụy “xúc tát” vào vùng tạm chiếm. Đó là gia đình ông Điệp, ông Lam, bà Phước, bà Thận, bà Chuyển... Ông bà nội tôi vốn là địa chủ. Ruộng đất nhiều vô kể. Trong thời kỳ chín năm, ông bà nội tôi đã hiến phần lớn gia sản cho Chính phủ Cụ Hồ và được công nhận là địa chủ kháng chiến. Tuy nhiên, số ruộng đất còn lại mà ba mẹ tôi thừa hưởng cũng hơn vài ba chục mẫu. Ba mẹ tôi san sẻ số ruộng đất ấy cho mọi người cùng làm ăn sinh sống. Dẫu không dư dả nhưng nhà ai cũng tạm đủ ăn ngày ba bữa. Vào thời điểm “gạo tháng Giêng, tiền tháng Chạp” gia đình tôi cũng như bao gia đình tản cư khác, không đến nỗi phải rối trí vì lo bếp lửa lạnh tàn tro! Điều đó làm cho ba tôi rất vui. Ông thường nói với mẹ tôi: “Ở đời, của cải là thứ phù vân. Chỉ có tình thân giữa người với người mới là thứ quý giá! Mình giúp đỡ mọi người là để phúc đức cho con cái sau này...”.

Từ ngày trở về nơi chốn cũ vườn xưa, ba anh em tôi có thêm nhiều bạn mới. Đó là thằng Lý, thằng Đào, thằng Khương con bà Thận; thằng Út lớn con bà Phước; thằng Nhỏ, thằng Điền con bà Năng; bé Xíu cháu bà Chuyển; thằng Mày cháu bà dì của mẹ tôi... Cùng trang lứa với nhau và cùng thất học như nhau, do vậy, suốt ngày bọn trẻ chúng tôi rong chơi thoải mái khắp nơi. Xuống hố bà Hạnh lượm hạt mít nài, vào khe suối nhỏ ở cạnh nhà ông Thủ Sáu hái trái sắm, đem về rang ăn. Lội quanh Gò Dưa, Đồng Dầu, rồi quành lên cánh đồng Cây Thị ở phía sau khu dồn dốc ông Lô, bắt cá rô ron, cá thia cờ, cua cáy. Lùng sục vườn ông Xã, vườn bà Tấu, kiếm ổi hoang, tìm tổ chim chào mào, chim bồ chao, cà cưỡng, cu đất... Leo lên đồi Mù U hái sim mua. Lang thang đây đó chán, bọn trẻ chúng tôi lại phụ giúp cô Ba Xúm chăn thả mấy con bò để được cô trả công bằng cách kể những câu chuyện cổ tích về Núi Sấu, về thác Lò Thung, về hang bà Thuộc, về sông Tiên có dòng chảy ngược từ hướng Đông sang hướng Tây... Cô Ba Xúm mồ côi cả cha lẫn mẹ khi còn bé. Chân trái bị tật, bước đi cà lỉa rất khó khăn. Đã thế, lại còn bị chùm bao. May nhờ có thầy Sáu Hoanh tận tình chạy chữa bằng thuốc nam một thời gian dài mới khỏi. Không hiểu sao cô chẳng chịu lấy chồng, cứ ở chùa Tế Nam lo cơm nước cho các thầy các cô. Khi luống tuổi, cô về sống với gia đình cô Tư Kiêm, làm nghề chăn bò. Cô Ba Xúm có cả một “kho” chuyện cổ tích, chuyện đời xưa. Cô kể cho bọn trẻ chúng tôi nghe hoài mà vẫn không hết. Và cô có biệt tài là kể chuyện rất hấp dẫn, rất hay...

Những ngày tháng ấy, dẫu bây giờ đã trở thành dĩ vãng xa xôi nhưng tôi vẫn nhớ mãi không quên. Bởi đấy là những tháng ngày mà tôi và bạn bè cùng trang lứa vô lo, sống hồn nhiên tuổi nhỏ với biết bao kỷ niệm của một thời niên thiếu dưới thời lửa đạn...


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx